CHƯƠNG 3
“Elizabeth, hai tháng nữa em mười ba tuổi rồi,” cô Deardorff nói.
“Vâng, thưa cô.” Beth đang ngồi trên chiếc ghế lưng thẳng trước bàn của cô Deardorff. Chú Fergussen đã đến dắt em ra khỏi sảnh tự học. Bây giờ là mười một giờ sáng. Đã ba năm em chưa bước vào văn phòng này.
Người phụ nữ trên ghế sofa đột ngột lên tiếng với vẻ reo vui hơi căng thẳng, “Mười hai tuổi, độ tuổi mới đẹp làm sao!”
Người phụ nữ ấy khoác chiếc cardigan xanh lam bên trên một chiếc váy lụa. Bà cũng có thể được xem là đẹp, nếu không có đống má hồng và son môi cùng cái cách đưa chuyện thật căng thẳng. Người đàn ông ngồi cạnh bà mặc một bộ com-plê vải len sợi thô màu xám muối tiêu, cùng với áo vest.
Cô Deardorff tiếp tục nói, “Elizabeth học rất tốt ở mọi bộ môn. Em ấy đứng đầu lớp ở môn Đọc và Đại Số.”
“Hay quá! Hồi xưa tôi ‘não phẳng’ môn Đại Số lắm,” người phụ nữ kia nói rồi mỉm cười rạng rỡ với Beth. “Ta là bà Wheatley,” bà tự giới thiệu với giọng tự hào.
Người đàn ông hắng giọng nhưng không nói gì. Nhìn ông ta như đang không muốn ở đây lắm.
Beth gật đầu với người phụ nữ, nhưng không nghĩ ra nên nói gì tiếp. Họ đưa em đến đây làm gì nhỉ?
Cô Deardorff tiếp tục khoe về thành tích học tập của Beth, trong khi người phụ nữ áo xanh lắng nghe say mê. Cô Deardorff không nhắc gì đến những viên thuốc, hay về chuyện Beth chơi cờ. Giọng cô dường như chứa đựng một vẻ hài lòng xa cách về Beth. Khi cô nói xong, một khoảng im lặng khá ngại ngùng xâm chiếm căn phòng. Người đàn ông lại hắng giọng, nghiêng người một cách không thoải mái và nhìn về phía Beth như thể đang nhìn qua phía trên đầu em. “Tên thường gọi của cháu là Elizabeth à?” Nghe như có bọt bong bóng trong cổ họng ông ta. “Hay Betty?”
Em nhìn ông ta và nói, “Beth! Gọi cháu là Beth ạ.”
Những tuần sau, Beth quên bẵng buổi gặp gỡ trong văn phòng của cô Deardorff, chỉ vùi đầu vào việc đọc sách và các môn học. Em tìm được một bộ sách dành cho nữ sinh và đọc bất cứ khi nào có thể, trong sảnh học, trên giường buổi đêm, những trưa Chủ nhật. Chúng viết về cuộc phiêu lưu của cô con gái cả trong một gia đình lớn hỗn loạn. Sáu tháng trước, Methuen tậu được một bộ ti vi cho phòng khách, thế là lũ trẻ được xem một tiếng mỗi tối. Nhưng Beth nhận ra rằng em thích những cuộc phiêu lưu của Ellen Forbes 2 hơn là Tôi yêu Lucy và Khói đạn 3 . Những giờ đó, em sẽ ngồi trên giường, một mình giữa phòng ngủ và đọc cho đến khi đèn tắt. Không ai làm phiền em cả.
Một buổi tối giữa tháng Chín, Beth đang đọc sách một mình thì chú Fergussen đi vào và hỏi, “Sao còn chưa dọn đồ đi?”
Em đóng sách lại, đặt ngón cái làm dấu. “Để làm gì ạ?”
“Chưa ai nói với con à?”
“Nói gì cơ?”
“Con được nhận nuôi rồi. Ngày mai sẽ có người đón con sau giờ điểm tâm.”
Beth ngồi đó, trên mép giường, nhìn chằm chằm vào lưng chiếc áo trắng dài rộng của chú Fergussen.
⚝ ✽ ⚝
“Jolene ơi, em không tìm thấy sách của em,” Beth nói.
“Sách gì?” Jolene ngái ngủ nói. Lúc đó sắp đến giờ tắt đèn.
“ Khai cuộc cờ vua hiện đại , bìa màu đỏ ấy. Em để nó trong tủ đầu giường.”
Jolene lắc đầu. “Chịu.”
Đã mấy tuần rồi Beth chưa động tới cuốn sách, nhưng em nhớ rõ đã cất nó vào ngăn tủ thứ hai. Trên giường em là một chiếc va li cao su màu nâu, bên trong xếp ba chiếc váy và bốn bộ đồ lót, bàn chải đánh răng, lược, một bánh xà phòng Dial, hai chiếc kẹp tóc, vài cái khăn tay vải trơn. Tủ đầu giường của em giờ trống lốc. Em đã tìm quyển sách trong thư viện, nhưng không có. Không còn chỗ nào khác cả. Beth đã không chơi cờ vua ba năm nay, trừ những lúc tưởng tượng trong đầu, nhưng Khai cuộc cờ vua hiện đại là vật sở hữu duy nhất mà em quan tâm đến.
Em nheo mắt nhìn Jolene. “Chị có chắc là không thấy nó không?”
Trong một thoáng, Jolene có vẻ giận dữ. “Cẩn thận xem cưng đang nghi ngờ ai nhé. Cuốn sách đấy chị cần làm gì.” Rồi giọng chị ấy nhỏ lại. “Nghe nói cưng sắp đi hả?”
“Đúng vậy.”
Jolene cười to. “Sao thế? Không muốn đi à?”
“Em không biết nữa.”
Jolene chui xuống dưới ga trải giường và kéo nó lên tới vai. “Em chỉ việc nói ‘Vâng, thưa ông’ và ‘Vâng, thưa bà’ là sẽ ổn hết thôi. Nói là em rất biết ơn khi có một gia đình ngoan đạo như họ, biết đâu họ còn cho em ti vi trong phòng đấy.”
Cách Jolene nói chuyện có gì đó lạ lạ.
“Jolene à, em rất tiếc,” Beth nói.
“Rất tiếc chuyện gì?”
“Rất tiếc vì chị không được nhận nuôi.”
Jolene khịt mũi, “Khỉ thật. Chị ở đây có bị làm sao đâu.” Nói rồi Jolene quay lưng về bên kia và cuộn người vào chăn. Beth định với tay lay chị ấy, nhưng đúng lúc đó cô Furth bước vào. “Tắt đèn nào, các con!” và Beth quay trở về giường ngủ của mình, lần cuối cùng.
Ngày hôm sau, cô Deardorff đi cùng họ ra bãi đỗ xe và đứng cạnh ô tô trong khi ông Wheatley ngồi vào tay lái, còn bà Wheatley và Beth thì ở băng ghế sau. “Ngoan nhé, Elizabeth,” cô ấy bảo.
Beth gật đầu, em thoáng nhìn thấy một người ở phía sau cô Deardorff, nơi mái hiên của toà nhà hành chính. Bác Shaibel. Bác ấy đút tay vào túi bộ áo liền quần, mắt dõi về chiếc xe. Beth muốn bước xuống và đi về phía bác ấy, nhưng cô Deardorff đang đứng đó, nên em chỉ có thể bất lực ngả người vào ghế. Bà Wheatley bắt đầu nói chuyện, còn ông Wheatley khởi động xe.
Khi xe lăn bánh, Beth xoay người và vẫy tay chào bác Shaibel từ cửa sổ hậu, nhưng bác không đáp lại. Em không rõ bác ấy rốt cuộc có nhìn thấy mình hay không.
⚝ ✽ ⚝
“Con phải thấy mặt họ cơ,” bà Wheatley nói. Bà vẫn khoác chiếc áo cardigan xanh dương hôm trước, nhưng lần này mặc cùng với váy xám bạc màu bên dưới, tất da của bà kéo xuống đến tận mắt cá chân. “Họ kiểm tra hết các tủ quần áo của mẹ, còn soát qua cả tủ lạnh nữa. Mẹ nhìn là biết ngay họ ấn tượng với những đồ mẹ trữ sẵn trong ấy. Ăn thêm ít cá thu hầm đi con. Mẹ thích nhìn trẻ con ăn lắm.”
Beth cho thêm một ít vào đĩa của mình. Có một vấn đề là món này rất mặn, nhưng em chẳng hề lên tiếng nhận xét. Đây là bữa ăn đầu tiên của em ở nhà Wheatley. Ông Wheatley đã đi công tác ở Denver và sẽ không về trong nhiều tuần sắp tới. Một bức ảnh của ông được đặt trên chiếc piano, bên cửa sổ phòng ăn phủ rèm nặng trĩu. Ti vi đang được mở trong phòng khách không có ai xem, một giọng nam trầm đang quảng cáo về thuốc Anacin.
Sáng hôm ấy, ông Wheatley đã lái xe đưa họ về Lexington trong im lặng, rồi đi thẳng lên lầu. Vài phút sau, ông bước xuống với một chiếc va li, lơ đãng hôn má bà Wheatley, gật đầu chào Beth và rời đi.
“Họ muốn biết tất cả về chúng ta. Allston làm được bao nhiêu tiền một tháng. Sao chúng ta không có con. Họ còn hỏi”, bà Wheatley cúi người qua chiếc đĩa hiệu Pyrex và thì thầm, “rằng ta có từng được chăm sóc tâm thần hay không.” Bà ấy ngả người ra sau và thở dốc. “Con tưởng tượng được không? Tưởng tượng được không chứ?”
“Không, thưa mẹ,” Beth đáp lại, lấp đầy khoảng trống im lặng bất chợt. Em ăn thêm một nĩa cá thu và nuốt trôi nó với một ngụm nước.
“Họ kĩ càng cực kì.” Bà Wheatley nói tiếp. “Nhưng mà, con biết đấy, họ phải làm vậy.” Đĩa của bà vẫn còn nguyên. Trong vòng hai tiếng đồng hồ từ lúc họ về nhà, bà cứ nhảy nhổm khỏi mấy cái ghế ngồi để đi kiểm tra lò nướng, chỉnh bức họa Rosa Bonheur trên tường, hay đổ gạt tàn thuốc. Bà luyên thuyên không nghỉ, trong khi Beth thi thoảng chêm vào một câu “Vâng, thưa mẹ” hay “Không, thưa mẹ.” Beth vẫn chưa được thấy phòng của mình. Chiếc va li cao su nâu của em vẫn nằm yên cạnh cửa trước, bên chiếc kệ báo đầy tràn, y vị trí em đã để nó vào lúc mười giờ ba mươi sáng nay.
“Chúa biết! Chúa biết họ phải cẩn trọng nhường nào khi trao lại quyền hạn của mình. Không thể để đám du thủ du thực chịu trách nhiệm nuôi lớn một đứa trẻ được,” bà Wheatley vẫn tiếp tục.
Beth cẩn thận đặt nĩa xuống. “Con đi vệ sinh được không ạ?”
“Tất nhiên rồi.” Bà chỉ nĩa về phía phòng khách. Cả bữa trưa, bà Wheatley cầm nĩa trên tay mà không đụng đến món gì. “Phòng cửa màu trắng, bên trái sofa ấy.”
Beth đứng dậy, len người qua cây đàn piano choán gần hết phòng ăn nhỏ, bước qua phòng khách lắm bàn cà phê và bàn đèn cùng chiếc ti vi gỗ hồng to đùng đang chiếu phim bộ buổi chiều. Em bước cẩn thận qua tấm thảm dày Orion để vào phòng tắm. Phòng tắm nhỏ hin, tuyền một màu xanh trứng chim chào mào, hệt như màu áo khoác của bà Wheatley. Thảm màu xanh, khăn tắm cho khách màu xanh, và nắp bồn cầu màu xanh. Ngay cả giấy vệ sinh cũng màu xanh. Beth giở nắp bồn cầu lên, nôn thốc mớ cá thu rồi nhấn xả.
⚝ ✽ ⚝
Khi lên tới đầu cầu thang, bà Wheatley dừng lại nghỉ một lúc, tựa hông vào tay vịn rồi thở nặng nhọc. Rồi bà đi vài bước dọc theo hành lang lót thảm, trịnh trọng đẩy mở một cánh cửa. “Đây là phòng của con,” bà nói. Vì nhà không to lắm, nên Beth đã tưởng tượng phòng của mình cũng như vậy, nhưng em há hốc mồm khi bước vào. Căn phòng trống mới khổng lồ làm sao. Sàn nhà trơn nhẵn được sơn xám, với một tấm thảm tròn màu hồng đặt cạnh chiếc giường đôi. Beth chưa bao giờ có phòng riêng cả. Em đứng đó, tay ôm va li và cứ nhìn quanh. Có tủ quần áo, một chiếc bàn gỗ cam hợp tông, cùng một cây đèn ngủ thủy tinh màu hồng, ga trải giường sợi chenille trải trên chiếc giường thênh thang. “Con không biết tìm đồ nội thất bằng gỗ sồi tốt khó thế nào đâu, nhưng nếu tự nhận xét thì trông cũng được đấy chứ nhỉ,” bà Wheatley nói, nhưng Beth gần như không nghe thấy bà ấy nói gì. Căn phòng trước mặt là của em. Em nhìn sang cánh cửa trắng, bên dưới tay nắm là một chiếc chìa khóa. Em có thể khóa cửa, sẽ không ai vào được cả.
Bà Wheatley chỉ cho em phòng tắm ở cuối sảnh, rồi đóng cửa để em một mình dỡ quần áo. Beth đặt túi xuống và đi một vòng, chỉ dừng một lát để nhìn ra ngoài cửa sổ với hàng cây ven đường. Trong phòng có một tủ quần áo lớn hơn cả tủ của mẹ, và bàn ngủ cạnh giường với một chiếc đèn đọc sách nhỏ. Đẹp quá! Phải chi Jolene được nhìn thấy căn phòng này. Trong một khoảnh khắc, Beth cảm thấy muốn khóc thương cho Jolene, em muốn Jolene cũng ở đây, cùng em đi vòng quanh căn phòng này mà nhìn ngắm đồ đạc, rồi cùng nhau treo quần áo của Beth vào tủ.
Trong xe, bà Wheatley đã nói họ rất hài lòng khi được nhận nuôi một đứa trẻ lớn tuổi. Vậy tại sao không phải là Jolene? Beth đã nghĩ như vậy. Nhưng em không nói gì. Em nhìn ông Wheatley với xương hàm sắc cạnh và đôi bàn tay tái nhợt trên vô lăng, rồi nhìn sang bà Wheatley, em biết rằng họ sẽ không bao giờ nhận nuôi Jolene.
Beth ngồi trên giường và lắc đầu khỏi những kí ức. Giường mới êm làm sao, sạch sẽ và thơm tho. Em cúi người kéo giày khỏi chân rồi thả lưng xuống, duỗi tay chân trên diện tích thoải mái của chiếc giường, hạnh phúc ngoái đầu nhìn cánh cửa đang đóng chặt, cho em cả căn phòng của riêng mình.
Tối hôm đó, em cố gắng thức thật lâu, không muốn chìm vào giấc ngủ quá sớm. Ngoài cửa sổ phòng có một ngọn đèn đường, nhưng rèm cửa sổ rất dày và nặng, chỉ cần kéo xuống để che đi. Trước khi chúc ngủ ngon, bà Wheatley đã chỉ cho Beth phòng của bà, ở phía bên kia hành lang, cũng rộng bằng phòng Beth, nhưng có thêm một chiếc ti vi, vài chiếc ghế bọc vải và giường trải tấm phủ màu xanh. “Thật ra nó là gác xép trùng tu lại thôi,” bà nói.
Nằm trên giường, Beth có thể nghe thấy tiếng bà Wheatley ho vọng sang, rồi một lát sau, tiếng bàn chân trần của bà lạch bạch trên hành lang tới phòng tắm. Nhưng em không thấy phiền gì. Cửa phòng đang đóng và khóa. Không ai có thể đẩy nó ra và khiến ánh sáng rọi vào mặt em. Bà Wheatley ở một mình trong phòng, không có tiếng nói chuyện hay cãi nhau, chỉ có tiếng nhạc và tiếng người nói nghe giả tạo phát ra từ ti vi. Phải chi có Jolene ở đây, nhưng như vậy, Beth sẽ không có chỗ của riêng mình, sẽ không thể nằm một mình giữa chiếc giường rộng lớn này, duỗi thẳng người ngay chính giữa, với tấm ga giường mát lạnh và sự yên tĩnh chỉ cho mình em.
⚝ ✽ ⚝
Hôm thứ Hai, Beth đi học. Bà Wheatley đưa em đi bằng taxi, mặc dù trường cách nhà chưa tới một dặm. Beth đi vào dãy phòng lớp Bảy. Nơi này rất giống ngôi trường công lập ở thị trấn mà em đã có buổi trình diễn cờ vua. Quần áo của Beth không đúng qui định nhưng chẳng ai để ý đến em lắm. Vài đứa học sinh nhìn chằm chằm Beth một lúc khi giáo viên giới thiệu em với lớp, nhưng ngoài ra chẳng có gì khác. Em được nhận sách và gửi đến một lớp chủ nhiệm. Nhìn vào chồng sách và nghe những gì giáo viên nói trên lớp, em biết việc học ở đây cũng dễ thôi. Em rụt người một chút trước đám âm thanh huyên náo ngoài hành lang giữa các lớp học, thấy hơi chột dạ khi mấy đứa học sinh khác nhìn mình, nhưng cũng không khó khăn mấy. Beth cảm thấy mình có thể đương đầu với bất cứ thứ gì ở ngôi trường công lập đầy nắng và ồn ào này.
Giờ ăn trưa, Beth cố tình ngồi một mình trong căn tin với chiếc sandwich thịt nguội cùng hộp sữa, nhưng một đứa con gái đến ngồi đối diện em. Cả hai không nói với nhau tiếng nào một lúc lâu. Con bé kia nhìn khá nhàm chán, giống như Beth vậy.
Khi ăn hết nửa chiếc sandwich, Beth nhìn lên đối phương và hỏi, “Trường này có câu lạc bộ cờ vua không?”
Con bé kia giật mình ngẩng đầu. “Gì cơ?”
“Trường này có câu lạc bộ cờ vua không? Tớ muốn tham gia.”
“À. Tớ không nghĩ là có đâu. Cậu có thể thử vào đội cổ vũ tân binh,” nó đáp.
Beth ăn nốt chiếc sandwich.
⚝ ✽ ⚝
“Con dành nhiều thời gian để học quá nhỉ. Con không có thú vui nào à?” bà Wheatley nói. Thực ra, đâu phải Beth đang học. Em ngồi ở ghế bành cạnh cửa sổ trong phòng riêng, đọc một cuốn tiểu thuyết mượn từ thư viện trường. Bà Wheatley gõ cửa bước vào, trong chiếc áo choàng tắm vải sợi chenille viền hồng và dép sa-tanh cũng màu hồng. Bà đến ngồi ở mép giường của Beth, mỉm cười xa xăm, như thể bà đang nghĩ tới chuyện gì khác. Sống với bà Wheatley được một tuần, Beth để ý thấy bà ấy thường như vậy.
“Con từng chơi cờ vua,” Beth nói.
Bà Wheatley chớp mắt. “Cờ vua á?”
“Con thích môn ấy lắm.”
Bà Wheatley lắc đầu như thể đang cố hất thứ gì ra khỏi tóc. “À, cờ vua!” bà thốt lên. “Trò chơi quyền quí. Hay đấy.”
“Mẹ có chơi không ạ?” Beth hỏi.
“Ô, Chúa ơi, không!” Bà Wheatley đáp với một giọng cười như mỉa mai bản thân. “Ta làm gì đủ thông minh để chơi môn đó. Nhưng cha ta thì có đấy. Ông ấy là bác sĩ phẫu thuật, một người rất hoàn hảo. Ta khá chắc thời trẻ ông ấy chơi cờ vua rất cừ đấy.”
“Con chơi cùng ông ấy được không ạ?”
“Khó đấy. Ông mất vài năm trước rồi,” bà Wheatley đáp.
“Con có chơi cùng ai được không ạ?”
“Cờ vua á? Ta không biết nữa.” Bà Wheatley nhìn em một lúc. “Không phải trò đó thường dành cho con trai sao?”
“Con gái cũng chơi,” em đáp.
“Hay nhỉ!” Nhưng tâm trí bà ấy rõ ràng đã lại trôi dạt phương nào.
⚝ ✽ ⚝
Bà Wheatley dành hai ngày lau dọn nhà cửa đón cô Farley. Bà sai Beth đi chải tóc hẳn ba lần trong buổi sáng cô ấy đến.
Cô Farley bước qua cửa cùng một người đàn ông cao ráo vận áo bóng đá. Beth ngạc nhiên nhận ra đó là chú Fergussen. Chú ấy trông có chút xấu hổ. “Chào, Harmon! Chú đến xem tình hình thế nào thôi.” Nói rồi chú đi vào phòng khách nhà bà Wheatley, đứng đút tay vào túi.
Cô Farley mang theo bộ đơn từ và một bảng đánh dấu. Cô ấy muốn biết về chế độ ăn của Beth, việc học của em cũng như các kế hoạch cho mùa Hè. Bà Wheatley giành phần lớn việc đối đáp. Beth có thể thấy bà trả lời dài dòng hơn ở từng câu hỏi. “Cô không biết được đâu. Beth hòa nhập với môi trường tốt lắm. Giáo viên ai cũng ấn tượng với bài vở của con bé...”
Beth không nhớ bà Wheatley và các giáo viên ở trường trao đổi với nhau lúc nào, nhưng em không nói gì.
“Tôi cũng muốn gặp mặt ông Wheatley nữa. Ông ấy sắp về nhà chưa?” cô Farley hỏi.
Bà Wheatley mỉm cười. “Lúc nãy Allston có gọi điện để xin lỗi, anh ấy không về được. Anh ấy làm việc chăm chỉ lắm.” Bà nhìn sang Beth, nụ cười vẫn giữ trên môi. “Allston là trụ cột kinh tế tuyệt vời.”
“Ông ấy có dành nhiều thời gian cho Beth không?” cô Farley hỏi.
“Tất nhiên rồi! Allston là một người bố tuyệt vời,” bà Wheatley đáp lại.
Sững sờ, Beth nhìn xuống tay mình. Cả Jolene cũng chẳng thể nói dối tài như vậy. Trong một thoáng, chính em cũng tin lời nói ấy, như thể em nhìn thấy hình ảnh một Allston Wheatley đầy dáng vẻ người chồng người cha - một Allston Wheatley không hề tồn tại ngoài phạm vi câu chữ của bà Wheatley. Nhưng rồi em nhớ ra phiên bản thật của con người ấy, nghiêm trang, xa cách và im lặng. Người chẳng hề gọi điện về dù chỉ một lần.
Trong một giờ đồng hồ viếng thăm, chú Fergussen gần như chẳng nói câu nào. Khi họ đứng lên chuẩn bị về, chú chìa tay ra cho Beth và tim em chùng xuống. “Gặp em thật tốt, Harmon,” chú nói. Em bắt tay chú, thầm ước chú có thể ở lại với em.
⚝ ✽ ⚝
Vài hôm sau, bà Wheatley dắt em xuống phố mua quần áo. Khi xe buýt dừng ở góc đường họ đứng, Beth không ngại ngần mà bước lên ngay, dù đây là lần đầu tiên em đi xe buýt. Hôm ấy là một ngày thứ Bảy mùa Thu ấm áp, chiếc váy len Methuen đang mặc thật khó chịu, em thực sự háo hức mong chờ quần áo mới. Em bắt đầu đếm số tòa nhà cho đến lúc vào khu trung tâm.
Họ xuống xe ở góc đường thứ mười bảy. Bà Wheatley nắm lấy tay em dù chẳng cần thiết lắm, dẫn em qua vài thước lề đường tấp nập để đến cánh cửa xoay của Trung tâm thương mại Ben Snyder. Bây giờ là mười giờ sáng, các quầy hàng đầy các bà các cô một tay cầm ví tối màu, một tay xách túi hàng thật to. Bà Wheatley bước qua đám đông như một chuyên gia lão luyện. Beth đi theo.
Trước khi tìm quần áo, bà Wheatley dẫn em xuống cầu thang vào tầng hầm, nơi bà dành hai mươi phút ở một quầy với biển “Khăn ăn lẻ”, nhặt ra sáu chiếc màu xanh dương từ mớ khăn đủ màu sau khi đã loại ra cả tá. Beth đứng đợi trong lúc bà Wheatley thu gom bộ khăn của mình theo kiểu thử-sai như bị thôi miên, để rồi cuối cùng quyết định rằng bà chẳng cần đến khăn ăn. Họ tới một quầy khác với biển “Sách siêu hời”. Bà Wheatley đọc tên của nhiều quyển sách ba mươi chín xu và lướt qua vài trang, nhưng không mua gì.
Cuối cùng, họ lên thang cuốn quay trở lại sảnh chính. Họ dừng ở một quầy nước hoa để bà Wheatley xịt Evening in Paris vào một bên cổ tay và Emeraude vào bên còn lại. Cuối cùng bà nói, “Được rồi, con yêu, ta lên tầng bốn thôi. Tầng đồ nữ may sẵn.” Bà mỉm cười với Beth.
Giữa tầng ba với tầng bốn, Beth nhìn lại thì thấy một quầy hàng với biển “Sách và Trò chơi”, ngay cạnh chiếc biển đó, trên một tủ kính, là ba bộ cờ vua. “Cờ vua!” em kêu lên và kéo tay áo bà Wheatley.
“Gì vậy?” Bà Wheatley hỏi, khó chịu rõ rệt.
“Họ có bán cờ vua. Mình quay lại được không ạ?” Beth hỏi.
“Nhỏ mồm thôi! Trên đường về ta sẽ ghé qua,” bà Wheatley nói.
Nhưng không hề. Bà Wheatley dành phần còn lại của buổi sáng để bắt Beth thử áo khoác từ các quầy đồ hạ giá và xoay một vòng để bà xem gấu áo, đi lại phía cửa sổ để bà nhìn rõ chất liệu dưới “ánh sáng tự nhiên”. Cuối cùng bà cũng mua một chiếc và khăng khăng đòi đi xuống bằng thang máy.
“Mình không đi xem bộ cờ vua sao?” Beth hỏi, nhưng bà Wheatley không trả lời. Chân Beth đau mỏi, em còn đang đổ mồ hôi. Em không thích chiếc áo khoác trong hộp giấy đang ôm. Nó có màu xanh trứng chim chào mào hệt như chiếc áo len bà Wheatley mặc đi mọi nơi, mà nó còn không vừa nữa. Beth không biết nhiều về quần áo, nhưng em có thể thấy cửa tiệm này chuyên đồ rẻ tiền.
Khi thang máy dừng ở tầng ba, em định nhắc bà ấy về bộ cờ vua, nhưng rồi cửa thang máy đóng lại và họ đi xuống sảnh chính. Bà Wheatley cầm tay Beth và dắt em qua đường tới trạm xe buýt, than phiền về việc thời buổi bây giờ khó tìm mọi thứ như thế nào. Bà ấy triết lí khi xe buýt rẽ vào góc đường, “Nhưng dù sao thì, đến vì thứ gì thì chúng ta đã có được thứ đó rồi.”
Tuần tiếp theo, trong lớp Anh Ngữ, đám con gái phía sau Beth trò chuyện trước khi giáo viên vào. “Mày mua giày đó ở Ben Snyder hay sao vậy?” một đứa hỏi.
“Có chết tao cũng không vào Ben Snyder,” đứa còn lại đáp, cười lớn.
⚝ ✽ ⚝
Beth đi bộ tới trường mỗi ngày, dọc những con đường rợp bóng râm với mấy ngôi nhà yên ắng trồng đầy cây trong sân. Bọn học sinh khác cũng đi đường này, Beth nhận ra vài đứa nhưng em luôn đi một mình. Em vào học kì mùa Thu muộn hai tuần, và kì thi giữa kì bắt đầu sau tuần thứ tư em đến. Sáng thứ Ba, em không có buổi thi nào, đáng ra phải về phòng chủ nhiệm nhưng thay vào đó, em đi xe buýt xuống trung tâm, mang theo vở và bốn mươi xu tiết kiệm được từ khoản tiêu vặt hai-lăm-cent-mỗi-tuần được qui định. Em bước lên xe buýt, tiền lẻ sẵn sàng trong tay.
Bộ cờ vua vẫn ở trên quầy, nhưng nhìn gần mới thấy rằng nó không xịn lắm. Em nhặt quân hậu trắng lên và ngạc nhiên về độ nhẹ của nó.
Em lật nó lại. Bên trong nó trống rỗng và làm bằng nhựa. Em đặt nó lại chỗ cũ khi người bán hàng đến hỏi, “Cháu có cần giúp gì không?”
“Cô có Khai cuộc cờ vua hiện đại không ạ?”
“Chúng ta có cờ vua, trò ca-rô, cờ tào cáo, cùng nhiều bộ trò chơi khác cho trẻ em,” người phụ nữ nói.
“Đấy là một cuốn sách về cờ vua,” Beth nói.
“Quầy sách ở phía bên đối diện cơ.”
Beth tiến đến các kệ sách và bắt đầu nhìn lướt qua. Chẳng có cuốn nào nói về cờ vua cả. Cũng chẳng có nhân viên để hỏi. Beth quay trở lại với người phụ nữ ở quầy bán hàng và đợi một lúc lâu để được cô ta chú ý. “Cháu đang tìm sách về cờ vua,” Beth nói.
“Ở đây chúng tôi không bán sách,” cô ta nói và lại định quay đầu đi.
“Gần đây có hiệu sách không ạ?” Beth hỏi nhanh.
“Thử tiệm của Morris xem.” Cô ta bước đến một chồng hộp và bắt đầu chỉnh lại cho ngay ngắn.
“Ở đâu ạ?”
Người phụ nữ không đáp.
“Morris ở đâu ạ, thưa cô?” Beth lớn giọng.
Người phụ nữ quay lại nhìn em giận dữ. “Ở đường Upper”.
“Đường Upper là ở đâu ạ?”
Trong một thoáng, người phụ nữ như muốn hét lên. Rồi mặt cô ta giãn ra và cô ta nói, “Cách Main hai tòa nhà.”
Beth đi thang cuốn xuống lầu.
⚝ ✽ ⚝
Tiệm của Morris nằm ở góc đường, bên cạnh một hiệu thuốc. Beth đẩy cửa bước vào một căn phòng chứa nhiều sách nhất mà em từng được thấy. Một người đàn ông hói đầu đang ngồi phía sau quầy hút thuốc và đọc sách. Beth tiến đến gần, cất tiếng hỏi, “Bác có quyển Khai cuộc cờ vua hiện đại không?”
Người đàn ông rời mắt khỏi quyển sách và liếc nhìn Beth qua cặp kính. “Yêu cầu lạ nhỉ,” ông ấy nói với một chất giọng dễ nghe.
“Có không ạ?”
“Ta nghĩ là có.” Ông ấy đứng dậy và bước đến bên rìa cửa hiệu. Một lát sau ông quay lại với quyển sách trong tay. Vẫn là quyển sách dày với bìa đỏ quen thuộc. Beth nín thở khi nhìn thấy nó.
“Của cháu đây,” người đàn ông nói, tay đưa Beth quyển sách. Em lật ra trang nói về Phòng thủ Sicilian. Thật tốt làm sao khi lại được thấy các phương án: Levenfish, Dragon, Najdorf. Những cái tên ấy nghe như câu thần chú trong đầu Beth, hay như tên gọi của các vị thánh.
Một lúc lâu sau Beth nghe tiếng hỏi của ông Morris, “Cháu thật sự nghiêm túc về cờ vua à?”
“Đúng ạ,” em nói.
Ông ấy mỉm cười. “Ta tưởng đâu quyển sách ấy chỉ dành cho các Đại Kiện Tướng.”
Beth chần chừ. “Đại Kiện Tướng là gì ạ?”
“Một người chơi thiên tài. Như Capablanca chẳng hạn, nhưng thời đó xưa lắm rồi. Bây giờ hình như cũng có. Nhưng ta không biết tên của họ,” ông nói.
Em chưa bao giờ gặp ai như người đàn ông này. Ông rất thoải mái và nói chuyện với Beth như thể em cũng là một người lớn. Người có kiểu cách gần giống như vậy nhất là Fergussen, nhưng Fergussen thỉnh thoảng lại tỏ vẻ rất quan chức. “Quyển này bao nhiêu tiền ạ?” Beth hỏi.
“Hơi đắt đấy. Năm đô chín mươi lăm.”
Beth đã hơi sợ từ trước rằng nó sẽ đắt như vậy. Và sau hai chuyến xe buýt hôm nay thì trong túi em chỉ còn vỏn vẹn mười xu. Em đưa lại quyển sách cho ông ấy rồi nói, “Cảm ơn bác. Nhưng cháu không đủ tiền.”
“Tiếc nhỉ. Cháu cứ để nó lại trên kệ đi,” ông ấy nói.
Beth đặt quyển sách xuống. “Bác còn quyển nào khác về cờ vua không ạ?”
“Có đấy. Bên dưới kệ Giải Trí và Thể Thao. Cháu xem thử đi.”
Ở sâu bên trong cửa hiệu có một chiếc kệ đầy những đầu sách như Paul Morphi và niên đại vàng của cờ vua, Chiến thắng mọi bẫy cờ vua, Cải thiện kĩ năng chơi cờ , hay Những chiến lược cải biên . Beth lấy xuống một quyển có tên Tấn công và phản đòn trong cờ vua rồi bắt đầu đọc các ván cờ, tưởng tượng chúng trong đầu mà không cần đến sơ đồ. Beth nấn ná ở đó hồi lâu. Một vài vị khách đến và đi, nhưng không ai làm phiền em. Em say sưa đọc hết trận này đến trận khác, ngỡ ngàng vì những nước đi kiệt xuất trong một vài trận cờ - hậu hi sinh để dồn vua đối phương vào thế bí rồi mã chiếu hết ngay sau đó. Có tổng cộng sáu mươi trận đấu, mỗi trận có một tiêu đề đầu trang, như là “V.Smyslov - I.Rudakavsky: Moscow 1945” hay “A.Rbinstein - O.Duras: Vienaa 1908.” Trong trận đó, trắng đã phong cấp tốt thành hậu ở nước thứ ba mươi sáu, sau khi đe dọa một nước đi mở chiếu.
Beth nhìn bìa quyển sách. Nó nhỏ hơn quyển Khai cuộc cờ vua hiện đại và có một nhãn giá ghi 2,95 đô. Em bắt đầu nghiên cứu quyển sách một cách hệ thống. Đồng hồ trên tường đang chỉ mười giờ ba mươi, Beth sẽ phải rời hiệu sách trong vòng một tiếng nữa nếu muốn kịp giờ kiểm tra Lịch Sử ở trường. Ông Morris ở phía quầy sách vẫn đắm chìm trong việc đọc của ông và không màng gì đến em. Beth bắt đầu tập trung, đến mười một giờ ba mươi, em đã thuộc lòng mười hai trận cờ.
Beth đến lớp muộn năm phút nhưng cũng chẳng có ai quan tâm. Dù sao thì em cũng là người hoàn thành sớm nhất lớp. Trong hai mươi phút cuối giờ em chơi lại trận “P.Keres - A. Tarnowski: Helsinki 1952” trong đầu mình. Trận đấu sử dụng lối Khai cuộc Ruy Lopez, trong đó trắng đưa tượng ra theo một lối mà Beth có thể thấy rằng nó có ý nghĩa tấn công không trực tiếp lên con tốt vua đen. Ở nước thứ ba mươi lăm, trắng đưa xe xuống ô mã thứ bảy - một nước đi khiến Beth suýt khóc vì ngỡ ngàng.
⚝ ✽ ⚝
Trường Trung Học Fairfield có các câu lạc bộ xã hội tập trung một tiếng đồng hồ sau giờ học hoặc thỉnh thoảng trong tiết chủ nhiệm mỗi thứ Sáu. Hội Táo Pi, Hội Sub Debs và Hội Chị Em Thị Trấn. Khá giống với các hội nữ sinh tại trường đại học và ai muốn tham gia phải thực hiện tuyên thệ. Mấy đứa trong Táo Pi đến từ lớp Tám và Chín, hầu hết tụi nó đều mặc áo len cashmere sáng màu và giày oxford được chà nhám, đi cùng với những đôi tất đan hình con thoi thời trang. Vài đứa sống ở ngoại thành và còn sở hữu cả ngựa. Loại thuần chủng. Những đứa con gái như vậy không bao giờ chạm mắt đến ai khi đi trên hành lang, cũng sẽ không cười với ai. Áo len của tụi nó thường có màu vàng hoặc xanh dương đậm hoặc xanh lá mạ, tất thì kéo lên đến dưới đầu gối, tất cả đều được dệt từ một trăm phần trăm sợi len nguyên chất nhập từ Anh.
Đôi lúc Beth tự nhìn mình trong gương nhà vệ sinh nữ. Mái tóc thẳng băng màu nâu, bờ vai hẹp, đôi mắt mờ cũng màu nâu và đám tàn nhang phủ lên sống mũi. Em lại nếm được vị chua gắt như dấm trong miệng mình. Những đứa con gái trong các hội nhóm kia tô son và vẽ mắt, còn Beth thì mỗi một gương mặt mộc với chiếc mái ngố che mất cả trán. Beth không nghĩ mình có thể thuộc về một hội nhóm nào, hay thuộc về bất kì ai.
⚝ ✽ ⚝
“Tuần này chúng ta sẽ bắt đầu học Định lí Nhị thức. Có trò nào biết Nhị thức là gì không?” cô MacArthur nói.
Từ phía cuối lớp, Beth giơ tay. Đó là lần đầu em làm việc đó.
“Mời em.”
Beth rụt rè đứng dậy. “Nhị thức là một cách diễn đạt toán học mang hai giá trị.” Beth đã được học bài này ở Methuen năm ngoái. “X cộng Y là một nhị thức”.
“Tốt lắm,” cô MacArthur nói.
Ngồi trước Beth là Margaret, một con bé có mái tóc vàng óng ả, mặc chiếc áo len cashmere màu tím lavender thanh tao đắt tiền. Khi Beth vừa ngồi xuống, nó rướn nhẹ người về phía sau và gằn giọng, “Trí tuệ! Siêu trí tuệ ghê cơ!”
⚝ ✽ ⚝
Beth lúc nào cũng đi một mình trên hành lang trường. Chẳng có cách nào khác. Mấy đứa con gái khác luôn đi theo cặp hoặc nhóm ba đứa. Chỉ có mỗi Beth luôn một mình.
Một chiều nọ khi vừa bước ra khỏi thư viện, Beth bất ngờ nghe một tiếng cười vang vọng. Em ngóng về phía cuối hành làng và thấy thấp thoáng trong nắng chiều bóng lưng của một đứa con gái da đen to lớn. Ở chỗ đài phun nước, hai đứa thấp hơn đứng bên cạnh con bé da đen, ngước nhìn lên lúc nó đang cười lớn. Beth nheo mắt, ánh nắng làm hình ảnh chúng nó nhoè đi. Con bé cao lớn khẽ quay người lại và Beth thấy như tim mình hụt một nhịp trước dáng vẻ nghiêng đầu quen quen kia. Beth vội vã bước dọc hành lang về phía ba đứa ấy.
Nhưng đó không phải Jolene như Beth đã mong đợi. Ba đứa con gái rời đài phun nước và đẩy cửa ra khỏi tòa nhà một cách ồn ã. Beth đứng lặng nhìn theo một lúc lâu.
⚝ ✽ ⚝
“Con đến tiệm của Bradley và mua cho mẹ vài điếu thuốc nhé? Mẹ nghĩ mẹ bị cảm rồi,” bà Wheatley nói.
“Vâng thưa mẹ,” Beth trả lời. Lúc đó là chiều thứ Bảy và Beth đang ôm một quyển tiểu thuyết trên đùi mà không đọc. Tâm trí Beth đang bận ôn lại trận cờ giữa P.Morphi và một người nào đó với tên gọi đơn giản “Đại Kiện Tướng”. Có gì đó kì lạ ở nước đi thứ mười tám của Morphi, mã đến tượng năm. Đó là một lối tấn công tốt, nhưng Beth cảm thấy Morphi có thể tiêu diệt triệt để hơn nữa với con xe cánh hậu của ông ấy.
“Ta sẽ viết cho con một tờ ghi chú, vì con còn khá nhỏ để tự mua thuốc lá.”
“Vâng thưa mẹ.” Beth ngoan ngoãn.
“Ba gói Chesterfield nhé”.
“Vâng thưa mẹ.”
Beth chỉ mới đến tiệm của Bradley một lần cùng với bà Wheatley. Bà ấy cho Beth một tờ giấy ghi bút chì cùng với một đô la hai mươi xu. Beth đưa tờ ghi chú cho ông Bradley ở quầy. Phía sau em là một dãy kệ dài đầy tạp chí. Khi đã cầm thuốc lá trên tay, Beth bắt đầu dòm ngó đến dãy tạp chí ấy. Thượng nghị sĩ Kennedy đang ở trang bìa tờ Time và Newsweek , ông ấy đang tranh cử tổng thống nhưng chắc sẽ thua cuộc vì là người theo đạo Công giáo.
Trên một hàng kệ khác thì trưng đầy những tờ tạp chí phụ nữ, với những gương mặt giống Margaret và Sue Ann cùng mấy đứa con gái khác trong Hội Táo Pi. Tóc họ óng ánh còn môi thì đỏ mọng.
Vừa định bỏ đi thì mắt Beth chạm phải một thứ gì đó. Ở góc phải bên dưới, chỗ để tạp chí nhiếp ảnh, tắm nắng và thủ công, một tờ tạp chí có hình quân cờ lấp ló hiện ra. Beth liền tiến tới chộp lấy nó. Bìa quyển tạp chí in tên Bình luận cờ vua cùng giá tiền. Beth mở quyển tạp chí ra, bên trong tràn ngập các trận cờ và hình ảnh kì thủ. Một trong số các bài báo có tiêu đề Ngẫm lại về Khai cuộc Vua và một bài khác thì ghi Những điều kiệt xuất mang tên Morphi . Beth vừa mới học thuộc một trận cờ của ông ấy xong! Tim Beth đập loạn xạ. Em giở trang liên hồi. Một bài báo khác nói về cờ vua ở nước Nga, từ “giải đấu” cứ lặp đi lặp lại. Còn có cả một góc báo nói về Cuộc sống ở giải đấu . Beth chưa từng được biết có thứ gọi là giải đấu cờ vua. Em cứ nghĩ cờ chỉ là một thú vui thường ngày, như bà Wheatley thường hay đan thảm hay chơi xếp hình.
“Này cô gái trẻ, cháu phải mua, không thì hãy cất tạp chí lại,” ông Bradley nói vọng đến.
Beth giật mình, lí nhí, “Một chút thôi được không ạ...?”
“Đọc biển đi,” ông Bradley lạnh lùng.
Ngay trước mặt Beth là một tấm bảng viết tay với dòng chữ: Muốn Đọc Phải Mua. Trong túi Beth chỉ có năm mươi xu không hơn. Vài hôm trước, bà Wheatley thông báo với em về việc cắt tiền tiêu vặt một khoảng thời gian vì gia đình đang khá thiếu thốn, ông Wheatley thì vẫn đang bị kẹt ngoài miền Tây. Beth bỏ lại quyển tạp chí và rời khỏi cửa hàng.
Đi được đến nửa khu nhà, Beth dừng chân suy nghĩ và quyết định quay lại. Có một chồng nhật báo trên quầy bên cạnh ông Bradley. Beth đưa ông một đồng xu và rút một tờ. Ông ấy đang bận bịu với một bà cô mua thuốc tây. Beth mon men lại gần dãy tạp chí với tờ báo kẹp dưới cánh tay, im lặng chờ đợi.
Vài phút sau, ông Bradley lên tiếng, “Loại này chúng tôi có mấy cỡ.” Beth nghe tiếng ông ấy cùng với bà cô đi về phía sau cửa hiệu. Em lập tức vớ lấy tờ Bình luận cờ vua và giấu dưới tấm nhật báo.
Em bước một mạch với tờ báo vẫn kẹp chặt dưới cánh tay. Đến ngã tư đầu tiên, em dừng lại, lấy tờ tạp chí ra và nhét nó vào trong lớp thun của chiếc váy đang mặc, phủ lên nó lớp áo màu xanh vỏ trứng làm bằng len tái chế mua ở tiệm Ben Snyder. Em cẩn thận kéo áo che chắn tờ tạp chí và quẳng tờ nhật báo vào sọt rác gần đó.
Vừa sải bước với quyển tạp chí áp sát vào chiếc bụng lép kẹp, Beth vừa nghĩ về nước cờ xe mà đáng lẽ Morphi đã phải đi. Tờ tạp chí viết rằng ông ấy “có lẽ là Kiện Tướng kiệt xuất nhất trong lịch sử cờ vua.” Rõ ràng con xe có thể tiến đến tượng bảy, và tốt nhất là vua không nên chiếm nó với con mã của mình vì... Beth dừng lại giữa đường. Có tiếng chó sủa đâu đó, bên kia đường phía một bãi cỏ, hai thằng con trai đang chơi đuổi bắt và cười đùa ầm ĩ. Nếu con tốt thứ hai đi đến ô mã năm cánh vua, con xe còn lại có thể trượt qua, còn nếu bên đen ăn con tốt ấy, tượng có thể được giải phóng, nếu không thì...
Beth nhắm mắt. Nếu bên đen không ăn con tốt, Morphi có thể chiếu hết trong hai nước, bắt đầu với con tượng thí bản thân nó với một nước chiếu. Nếu bên đen ăn con tốt, con tốt trắng sẽ đi thêm một nước, rồi con tượng sẽ đi đường còn lại và đen sẽ vào thế bí. Đúng rồi nhỉ. Một trong hai thằng con trai bên kia đường bắt đầu khóc nheo nhéo. Đen hoàn toàn bí. Trận đấu sẽ kết thúc trong nhiều nhất là hai mươi sáu nước cờ. Ông ấy không thấy được nước cờ đó. Nhưng Beth thấy.
Mặt trời chói chang trên bầu trời không một gợn mây. Con chó vẫn sủa. Thằng nhỏ vẫn ré lên. Nhưng Beth rảo bước về nhà một cách khoan thai, trong đầu vẫn chơi đi chơi lại ván cờ. Tâm trí em sáng rõ như một viên kim cương toàn vẹn, tuyệt mĩ.
⚝ ✽ ⚝
“Ba Allston đáng lẽ đã phải về từ mấy tuần trước rồi nhỉ,” bà Wheatley than thở. Bà ấy ngồi trên giường với trang ô chữ trên báo đặt bên cạnh, ti vi vẫn bật nhưng bị tắt tiếng. Beth đi vào, tay cầm một cốc cà phê hòa tan lấy từ trong bếp. Bà Wheatley đang khoác chiếc áo choàng ngủ quen thuộc, gương mặt phủ đầy thứ bột gì trăng trắng.
“Thế bố sắp về chưa ạ?” Beth hỏi hờ hững. Em không hào hứng nói chuyện lắm mà chỉ muốn quay lại với tờ Bình luận cờ vua .
“Có vẻ như ông ấy không tránh được việc bị giữ lại ở miền Tây.”
Beth gật đầu rồi nói, “Con muốn đi làm thêm sau giờ học.”
Bà Wheatley chớp chớp mắt. “Làm thêm sao?”
“Có lẽ con có thể làm việc ở một cửa hàng nào đó, như rửa bát chẳng hạn.”
Bà Wheatley nhìn Beth chăm chú một lúc lâu trước khi cất tiếng. “Con mới chỉ mười ba tuổi mà?” Bà ấy khụt khịt mũi vào một tờ khăn giấy rồi gấp nó lại. “Mẹ nghĩ con đang được chu cấp đầy đủ rồi.”
“Con muốn kiếm ít tiền.”
“Để mua quần áo à, mẹ đoán vậy?”
Beth im lặng.
Bà ấy tiếp tục nói, “Những đứa duy nhất phải đi làm ở tuổi này là mấy đứa da màu.” Cái cách mà bà ấy nói chữ “da màu” khiến Beth không buồn tiếp tục bàn về chủ đề này nữa.
Để đăng kí tham dự giải Liên bang Cờ vua Mĩ phải mất sáu đô la. Thêm bốn đô nữa để được mua báo dài hạn. Thú vị hơn nữa, trong mục Đời sống ở giải đấu có những vùng được đánh số, số một cho Ohio, Illinios, Tenessee cùng Kentucky, và bên dưới có một mẩu tin như sau: “Giải vô địch Bang Kentucky, cuối tuần dịp Lễ Tạ ơn, khán phòng Trung học Henry Clay, Lexington, thứ Sáu, thứ Bảy và Chủ nhật” kèm thông tin hấp dẫn: “Giải thưởng 185 đô la. Phí tham dự: 5 đô la. Chỉ dành cho thành viên Liên đoàn Cờ vua Mĩ.”
Mất sáu đô la để tham dự và năm đô la để đăng kí vào giải đấu. Nếu đi xe buýt xuống Main thì sẽ gặp ngay trường Henry Clay, cách Janewell Drive khoảng mười một dãy nhà. Và năm tuần nữa là đến Lễ Tạ ơn.
⚝ ✽ ⚝
“Có ai lặp lại chính xác được điều cô vừa giảng không?” cô MacArthur hỏi.
Beth giơ tay.
“Mời em Beth.”
Beth đứng dậy phát biểu. “Ở bất kì hình tam giác nào, bình phương của cạnh huyền là tổng bình phương của hai cạnh còn lại.” Nói rồi em ngồi xuống ngay.
Con Margaret cười khúc khích rồi dựa vào người thằng Gordon, đứa ngồi kế bên thi thoảng hay nắm tay nó. “Siêu trí tuệ là đây!” Nó thì thầm với chất giọng ẽo ợt bánh bèo đậm màu khinh thường. Thằng Gordon cười lớn. Beth quay mặt nhìn ra những chiếc lá thu ngoài cửa sổ.
⚝ ✽ ⚝
Bà Wheatley ta thán,“Mẹ không hiểu tiền đi đâu mất! Tháng này mẹ chỉ mua lặt vặt, vậy mà tiền cứ bốc hơi. Bốc hơi hết cả!” Bà ấy ngồi phịch xuống chiếc ghế bành bọc vải hoa rồi nhìn lên trần nhà, mắt mở trừng trừng như thể đang chờ một cái đoạn đầu đài trên đó. “Mẹ chỉ trả tiền điện nước và mua những thứ nhu yếu phẩm rất cơ bản. Mẹ đã cắt xén bớt sữa trong cà phê sáng, không mua bất kì thứ gì cho bản thân, không bước chân đến rạp chiếu phim hay cả chợ đồ cũ ở First Methodist. Vậy mà chỉ còn lại bảy đô la, trong khi ít ra phải còn đến hai mươi.” Bà đặt lên bàn tờ một đô rúm ró vừa tìm được trong ví. “Chỉ còn tờ này cho cả hai ta đến tận cuối tháng Mười. Sợ còn không đủ để mua cổ gà và cháo trắng.”
“Trường Methuen không gửi trợ cấp cho mẹ ạ?” Beth hỏi.
Bà Wheatley đưa ánh mắt đang dán lên trần nhà quay sang nhìn Beth, rồi nói với giọng lãnh đạm, “Năm đầu tiên thôi. Cứ như thể chi phí nuôi con không đốt hết khoản ấy.”
Beth biết điều đó không đúng. Tờ ngân phiếu ấy trị giá bảy mươi đô la và bà Wheatley không dùng nó cho Beth nhiều đến thế.
Bà ấy tiếp tục than vãn, “Nếu tiết kiệm tuyệt đối, ta vẫn cần hai mươi đô la để sống hết tháng này. Mẹ đang thiếu đến mười ba đô.” Mắt bà cứ di chuyển lần lượt từ Beth đến trần nhà. “Có lẽ mẹ phải theo dõi chi tiêu tốt hơn.”
“Có thể là do lạm phát,” Beth cố gắng nói chút sự thật. Thật ra em đã lấy sáu đô la để đăng kí hội viên.
“Có thể lắm,” bà Wheatley nói, giọng có vẻ nguôi ngoai.
Rắc rối cho Beth ở chỗ, em vẫn cần năm đô la cho phí tham dự giải đấu. Trong giờ tự học ngày hôm sau, Beth xé giấy trong vở và bắt đầu viết một lá thư gửi đến “Bác Shaibel, Thợ bảo dưỡng ở Mái ấm Methuen, Mount Sterling, Kentucky”. Bức thư nài nỉ:
Gửi Bác Shaibel:
Có một giải đấu cờ vua ở đây với giải Nhất một trăm đô la, giải Nhì là năm mươi. Có cả những giải khác nữa. Phí tham dự là năm đô la, nhưng cháu không có ngần ấy tiền.
Nếu bác cho cháu mượn, cháu sẽ trả lại bác mười đô la nếu cháu thắng bất kì giải nào.
Rất cảm ơn bác,
Elizabeth Harmon.
Sáng hôm sau Beth lấy phong thư và tem từ chiếc bàn lộn xộn ở phòng khách trong khi bà Wheatley còn đang ngủ. Em gửi nó trên đường đến trường.
Đến tháng Mười Một, Beth lại nhón thêm một đô la nữa từ ví bà Wheatley. Đã hơn một tuần từ khi em gửi thư, bác Shaibel vẫn bặt vô âm tín. Lần này, Beth dùng một phần của tờ một đô la đó để mua ấn bản mới Bình luận cờ vua . Beth tìm thấy kha khá trận cờ mà em có thể sửa lại để tốt hơn. Một trong số đó thuộc về Đại Kiện Tướng có tên Benny Watts - Đương kim Vô địch Cờ vua Mĩ.
⚝ ✽ ⚝
Bà Wheatley bị cảm lạnh liên tục. “Mẹ thân với vi-rút, hoặc chúng rất thân với mẹ.” Bà đưa cho Beth một đơn thuốc để mua ở tiệm Bradley và một hào để mua Coca.
Ông Bradley nhìn Beth một cách lạ lùng khi em bước vào, nhưng lại chẳng nói gì. Ông ấy cầm đơn thuốc Beth đưa, đi ra phía sau cửa tiệm, và em cẩn thận không đứng gần quầy tạp chí. Khi em trộm từ Bình luận cờ vua tháng trước, đó là tờ duy nhất trên quầy. Chắc ông ấy đã nhận ra ngay.
Ông Bradley quay lại với một hộp thuốc tròn dán nhãn. Ông ấy đặt nó xuống quầy trong lúc với tay tìm túi giấy trắng. Beth nhìn chăm chú vào hộp thuốc trong suốt. Những viên thuốc bên trong hình con nhộng và có màu xanh lá.
⚝ ✽ ⚝
“Đây là thuốc an thần. McAndrews đã quyết định kê đơn này cho mẹ,” bà Wheatley nói.
“McAndrews là ai ạ?”
“Bác sĩ của mẹ ấy,” bà ấy trả lời, tay vặn nắp hộp và lấy ra hai viên. “Cho mẹ một li nước nhé con yêu.”
“Dạ thưa mẹ,” Beth ngoan ngoãn. Khi vào phòng tắm rót nước, em nghe tiếng bà Wheatley thở dài. “Sao người ta chẳng bao giờ cho đầy hộp nhỉ?”
⚝ ✽ ⚝
Trong ấn bản tháng Mười Một của tờ tạp chí, có cả thảy hai mươi hai trận đấu trong một mùa giải tuyển chọn ở Moscow. Những kì thủ với tên gọi như Botvinnik, Petrosian và Laev, nghe cứ như bước ra từ truyện cổ tích. Một bức ảnh trong tạp chí cho thấy hai trong số họ gồng tấm lưng dài bên cạnh bàn cờ, với mái tóc đen nhánh còn môi thì mím chặt. Cả hai đều mặc vest đen chỉnh tề. Mờ ảo phía sau họ là một khán đài lớn chật kín người.
Trong một ván đấu giữa Petrosian và Benkowitz tại bán kết, Beth nhận ra một quyết định sai lầm từ Petrosian. Ông ấy đã bắt đầu một nước tấn công với con tốt mà đáng lẽ không nên. Một Đại Kiện Tướng Mĩ đã bình luận về trận đấu này, cho rằng những nước đi tốt này là khôn ngoan. Nhưng Beth nhìn xa hơn vậy. Sao Petrosian lại có thể không nhận ra điều đó? Sao Đại Kiện Tướng người Mĩ lại không thấy điểm yếu rõ ràng này? Tất cả bọn họ chắc hẳn đã nghiên cứu bàn cờ ấy rất lâu, vì bài báo viết rõ rằng trận đấu kéo dài đến năm giờ đồng hồ.
⚝ ✽ ⚝
Margaret chỉ cài khóa tủ phòng gym một cách sơ sài và còn chẳng buồn vặn chốt an toàn. Hai đứa đang tắm trong những buồng cạnh nhau, Beth có thể tia thấy cặp ngực khủng của Margaret. Trông chúng như những chiếc bánh tròn đầy đặn. Ngực của Beth vẫn còn phẳng lì như con trai, còn lông xoăn chỉ vừa mọc lên lún phún. Margaret không hề để mắt đến Beth. Nó vừa hát ngâm nga vừa thoa xà phòng lên người. Beth bước ra khỏi buồng tắm và quấn khăn. Mặc kệ cơ thể vẫn còn nhỏ nước, Beth trở lại phòng đựng đồ. Chỉ có mình em ở đó.
Beth lập tức lau khô tay và quẹt chiếc then khóa tủ của Margaret trong lúc bọc nó bằng chiếc khăn lông của mình. Nước từ tóc em vẫn nhỏ xuống, nhưng không sao, cả sàn nhà đều ướt sũng sau khi bọn con trai tắm xong. Beth chậm rãi kéo khóa và mở cửa tủ, thật cẩn thận không để phát ra tiếng. Tim em đập loạn xạ như một con thú đang nhảy tưng bừng trong lồng ngực.
Ví của Margaret màu nâu, được làm từ da thật. Beth lau khô tay lần nữa và nhấc nó ra khỏi kệ. Em lắng nghe thật kĩ. Chỉ có tiếng cười đùa và la hét trong phòng tắm nữ, ngoài ra thì hoàn toàn yên ắng. Bởi em đã cố tình đi tắm đầu tiên và chọn buồng ngoài cùng để có thể xong sớm nhất. Beth mở ví.
Trong đó có mấy chiếc bưu thiếp màu sắc, một cây son mới tinh, một chiếc lược ngà cùng chiếc khăn tay vải lanh tao nhã. Beth đưa tay sâu vào trong ví, và chạm phải một chiếc kẹp nhỏ bằng bạc đang ôm lấy những tờ tiền. Em kéo chúng ra. Hai tờ năm đô. Beth chần chừ một chốc rồi quyết định lấy cả hai cùng với cả chiếc kẹp. Em bỏ lại chiếc ví và khóa tủ.
Beth mở cửa tủ của mình, cánh cửa mà trước đó em cố tình đóng kín lại nhưng không khóa. Beth nhét chiếc kẹp tiền vào quyển sách Đại Số rồi khóa tủ. Rồi em quay trở lại phòng tắm và ở đó cho đến khi đám con gái lần lượt rời khỏi.
Beth cũng ở lại cuối cùng trong phòng thay đồ. Margaret vẫn chưa phát hiện. Beth thở dốc, cái cách mà em thường thấy bà Wheatley làm. Tim em vẫn đập thình thịch. Em lấy chiếc kẹp ra khỏi quyển sách Đại Số rồi thả nó lại trong tủ đồ của Margaret. Sẽ trông như là nó rơi ra từ ví của Margaret, bất cứ ai cũng có thể nhặt được số tiền ấy. Em gấp hai tờ tiền lại và nhét vào giày. Rồi em lấy từ tủ ra chiếc ví nhựa màu xanh của mình, đưa tay vào ngăn nhỏ đựng gương lôi ra hai viên con nhộng màu xanh lá. Beth cho cả hai vào miệng, nuốt chúng xuống với nước từ vòi phòng tắm.
Bữa tối hôm ấy có mì Ý và thịt viên hộp, với thạch Jell-O làm tráng miệng. Trong lúc Beth đang rửa bát và bà Wheatley thì vặn lớn ti vi trong phòng khách, bỗng bà ấy nói vọng vào, “À, mẹ quên mất.”
Beth vẫn đang tiếp tục kì cọ chiếc chảo nấu mì Ý thì bà Wheatley bước vào với một phong thư trên tay. “Con có thư này,” bà ấy nói rồi quay lại với chương trình Điểm tin Huntley-Brinkley .
Địa chỉ trên phong thư được viết lem nhem. Beth lau khô tay trước khi mở nó. Năm tờ một đô la và không lời nhắn gửi nào khác. Beth đứng lặng người bên cạnh bồn rửa bát, tay nắm chặt những tờ tiền ấy.
⚝ ✽ ⚝
Hộp thuốc an thần năm mươi viên có giá bốn đô la. Trên nhãn in dòng chữ: “Ba lần châm thêm.” Beth đã dùng bốn tờ một đô để mua nó. Em nhanh chân đi về nhà và trả lại đơn thuốc trên bàn của bà Wheatley.