CHƯƠNG 5
Khi Beth đến được chỗ quầy giao dịch thì họ đã sắp đóng cửa. Ấy là vì em phải đợi xe buýt sau giờ tan học và đợi thêm lần nữa để chuyển xe đi tiếp xuống Main. Mà đây đã là ngân hàng thứ hai rồi.
Em mang tờ ngân phiếu theo bên mình cả ngày trời, gấp lại trong túi sơ mi dưới lớp áo nỉ. Beth nắm chặt nó trong tay khi cái ông trước mặt nhặt nhạnh mấy chuỗi đồng năm xu, nhét vào túi áo khoác rồi rời đi, để lại chỗ cho em. Em tì tay lên nền đá cẩm thạch lạnh ngắt, đưa ra tờ ngân phiếu, kiễng chân để cố thấy mặt nhân viên giao dịch. “Tôi muốn mở tài khoản”, Beth dõng dạc.
Giao dịch viên liếc nhìn tờ phiếu, “Cháu bao nhiêu tuổi, thưa quí cô?”
“Mười ba.”
“Rất tiếc”, chú ta nói, “Nhưng cần phải có ba mẹ hoặc người bảo hộ.”
Chẳng nói chẳng rằng, Beth cất tờ phiếu vào túi rồi rời đi.
Bốn chai bia Pabst Blue Ribbon rỗng đang ở trên cái bàn nhỏ cạnh nơi bà Wheatley ngồi. Ti vi không bật. Beth nhặt tờ báo buổi chiều trước hiên, mở nó ra trong lúc bước vào phòng khách.
“Trường học thế nào, con yêu?” Giọng bà Wheatley nghe mờ mịt và xa xăm.
“Cũng ổn ạ.” Khi đặt tờ báo lên bụi cỏ bằng nhựa xanh cạnh ghế bành, Beth thoáng kinh ngạc khi thấy ảnh của mình trên trang nhất, ở dưới cùng. Phía trên tờ báo là khuôn mặt của Nikita Khrushchev, còn góc bên dưới là một cột lớn in vẻ mặt cau có của Beth dưới dòng tiêu đề: Thiên tài địa phương tham gia giải đấu .
Ngay sau đó là một dòng chữ nhỏ hơn, in đậm: Đấu thủ mười hai tuổi khiến các Kiện Tướng kinh ngạc . Em vẫn còn nhớ người đàn ông hôm đó đã chụp ảnh trước khi họ trao em cúp cùng tờ ngân phiếu. Em cũng nhớ đã nói rõ rằng mình mười ba tuổi.
Beth cúi xuống đọc mẩu tin.
Cuối tuần rồi, một bé gái địa phương đã khiến giới Cờ vua Kentucky phải ngỡ ngàng với lối chơi xuất chúng, em đã vượt qua cả những tay chơi đầu bảng để giành Chức vô địch Bang Kentucky. Elizabeth Harmon, một học sinh lớp Bảy Trung học Fairfield đã cho thấy “trình độ làm chủ cuộc chơi mà không đấu thủ nữ nào bì kịp”, trích theo lời nhận xét của Harry Beltik, người mà Harmon đã đánh bại để giành chức vô địch bang.
Beth nhăn mặt, em rõ là ghét bức ảnh này. Nó làm nổi bật những vết tàn nhang và cái mũi nhỏ tí của em.
“Con muốn mở một tài khoản ngân hàng,” em nói.
“Tài khoản ngân hàng?”
“Mẹ phải đi cùng con mới được.”
“Nhưng con ơi,” bà Wheatley nói, “con định mở tài khoản bằng gì?”
Beth thò tay vào túi áo cánh và lấy ra tấm ngân phiếu. Bà Wheatley bật dậy trên ghế và cầm tấm phiếu trong tay như thể đó là một Cuộn sách Biển Chết . Bà ấy im lặng một lúc, đọc thật kĩ tấm phiếu. Rồi bà thì thào: “Một trăm đô la.”
“Con cần đi cùng cha mẹ hoặc người giám hộ. Ngân hàng nói vậy.”
“Một trăm đô la.” Bà Wheatley lặp lại. “Con thắng được chừng này ư?”
“Vâng. Trên phiếu có ghi ‘Giải Nhất’ mà mẹ.”
“Mẹ hiểu,” bà Wheatley nói. “Chỉ là mẹ chưa từng nghĩ người ta có thể kiếm được tiền từ cờ vua.”
“Một số giải đấu khác còn thưởng nhiều hơn thế cơ.”
“Chúa ơi!” Bà Wheatley vẫn không thể rời mắt khỏi tấm phiếu.
“Mình có thể đến ngân hàng sau giờ học ngày mai không ạ.”
“Chắc chắn rồi,” bà Wheatley đáp.
Đằng sau ngân hàng có một phòng chờ dành cho khách khi cả hai đến vào ngày hôm sau, trên băng ghế dài đặt trước tràng kỉ là một ấn bản của tờ Bình luận cờ vua . Bà Wheatley treo áo khoác vào tủ quần áo ở sảnh, nhặt tờ tạp chí lên và bắt đầu nói, “Lúc con đi học, mẹ đã đọc qua cái này. Sẽ có một giải đấu lớn ở Cincinnati vào trung tuần tháng Mười Hai. Giải nhất tới năm trăm đô la.”
Beth im lặng một lúc lâu, cố đoán ý bà. Em ngập ngừng “Con còn phải đi học mà. Cincinnati lại cách đây khá xa.”
“Đi xe buýt Greyhound thì chỉ mất hai giờ thôi,” bà Wheatley khẳng định. “Mẹ đã gọi hỏi rồi.”
“Còn trường học thì sao?” Beth hỏi.
“Mẹ có thể viết đơn xin nghỉ ốm, viện cớ bị bạch cầu đơn nhân.”
“Cái gì đơn nhân cơ?”
“Bệnh nhiễm trùng bạch cầu đơn nhân. Theo như tờ Nhà của Quí Cô thì đó là một căn bệnh thường gặp ở cỡ tuổi con.”
Beth nhìn bà Wheatley chằm chằm, cố không tỏ ra quá kinh ngạc. Sự thiếu trung thực này của bà ấy lại rất ăn rơ với em. Em hỏi tiếp, “Chúng ta sẽ ở đâu?”
“Khách sạn Gibson, trong phòng đôi giá hai mươi hai đô la một đêm. Vé xe buýt Greyhound là mười một đô tám mươi mỗi người, tất nhiên còn chi phí ăn uống nữa. Nhưng mẹ đã tính cả rồi. Dù con chỉ thắng giải ba thôi thì mình vẫn lời to.”
Với hai mươi đô la tiền mặt, cùng mười tờ ngân phiếu được bọc trong cái ví nhựa, Beth nói chắc nịch, “Con cần mua mấy quyển sách cờ vua.”
“Mua bao nhiêu cũng được,” bà Wheatley mỉm cười. “Nếu con đổi luôn tờ phiếu lấy hai mươi ba đô la và sáu mươi xu, mẹ sẽ mua vé xe ngay ngày mai.”
⚝ ✽ ⚝
Sau khi mua Khai cuộc cờ vua hiện đại và một quyển khác về chiến thuật tàn cuộc ở tiệm Morris, Beth băng qua đường đến Thương xá Purcell. Từ những gì em nghe được khi mấy đứa con gái tám chuyện ở trường, thì hàng hóa ở Purcell xịn hơn Ben Snyder. Em tìm được ngay những thứ mình cần trên tầng bốn: Một bộ bàn cờ gỗ gần như y hệt với bộ của ông Ganz, các quân mã được chạm khắc bằng tay, kích thước quân tốt to vừa phải, những quân xe thì tròn trịa, chắc nịch. Em đắn đo một lúc rất lâu về bàn cờ, khi gần như đã quyết định mua bộ gỗ thì em phát hiện ra một bàn cờ gấp bằng vải lanh, với các ô vuông xanh lá và be. Sẽ dễ bỏ túi mang đi hơn.
Về đến nhà, Beth dọn sạch bàn và trải bộ cờ mới ra ngay. Em xếp chồng những quyển sách mới mua một bên và đặt chiếc cúp làm bằng bạc có hình quân vua bên còn lại. Em bật đèn rồi ngồi xuống bên bàn, mê mải nhìn những quân cờ, cái cách đường cong của chúng phản chiếu lại ánh sáng. Em ngồi đó rất lâu, tâm trí tuyệt nhiên tĩnh lặng. Rồi Beth cầm cuốn Khai cuộc cờ vua hiện đại lên. Lần này, em đọc từ đầu.
⚝ ✽ ⚝
Em chưa từng thấy bất cứ nơi nào như khách sạn Gibson. Vẻ ngoài bề thế cùng không khí náo nhiệt, đèn chùm treo ở sảnh sáng đến lóa mắt, tấm thảm đỏ trải dài, những bông hoa khoe sắc và cửa xoay ba cánh, đến cả người gác cửa trong bộ đồng phục cũng làm Beth choáng ngợp. Từ trạm xe buýt, cả hai đã xách hành lí và đi bộ đến đây. Sau khi từ chối sự giúp đỡ từ người gác cửa, bà Wheatley tự kéo chiếc va li mới tinh đến quầy lễ tân và đăng kí phòng cho hai người, mặc kệ cái nhìn của nhân viên dẫn phòng dành cho hai mẹ con.
Căn phòng này khiến Beth thật thư giãn. Có hai cửa sổ lớn nhìn ra Đường Số Bốn đang trong giờ cao điểm, hôm đó ngoài trời lạnh buốt. Họ ở trong một căn phòng được trải thảm dày, với nhà tắm rộng sơn trắng làm bật lên chiếc khăn tắm bồng bềnh màu đỏ cùng tấm gương lớn choán cả một bên tường. Trên đầu tủ có một cái ti vi màu. Mỗi chiếc giường đều được trải ga màu đỏ.
Bà Wheatley đang dò xét khắp phòng, kiểm tra từng ngăn kéo tủ quần áo, bật rồi tắt ti vi, sau đó phủi nếp nhăn trên góc ga trải giường. Bà gật gù, “Chà, mẹ đã yêu cầu một căn phòng thật dễ chịu, ít nhất họ cũng y lời.” Nói rồi bà thả người vào chiếc ghế dựa lưng cao thời Victoria cạnh giường, trông như thể đã sống cả đời mình ở khách sạn Gibson này.
Giải đấu diễn ra trên tầng lửng trong phòng Taft, tất cả những gì Beth phải làm chỉ là nhấn nút thang máy. Bà Wheatley tìm được một quán ăn dưới phố bán thịt xông khói và trứng cho bữa sáng, sau đó bà về lại giường với tờ Cincinnati Enquirer và một gói Chesterfields trong khi Beth xuống dưới đăng kí tham gia giải đấu. Beth vẫn chưa có thứ hạng, nhưng lần này một người ở đó nhận ra em và họ không còn cố xếp em vào Bảng Mới Bắt Đầu nữa. Sẽ có hai trận đấu mỗi ngày với thời gian kiểm soát là 120/40, nghĩa là người chơi sẽ có hai tiếng cho bốn mươi nước đi.
Đang đăng kí thì em nghe thấy một giọng trầm vọng ra từ chỗ ô cửa đôi đang mở của phòng Taft, nơi các trận đấu sẽ diễn ra. Em nhìn theo hướng đó, thấy một góc khán phòng với dãy dài bàn trống và vài người đàn ông đứng xung quanh.
Lúc bước vào, em thấy một người đàn ông lạ mặt đang ngồi trên ghế sofa, chân mang ủng đen gác lên bàn cà phê. “... và xe tới hàng ngang thứ bảy,” anh ta khoái chí. “Như cái xương mắc ngang cổ vậy, ở cái con xe ấy. Gã chỉ biết nhìn nó lần cuối, rồi chung tiền.” Anh ta ngả đầu vào lưng ghế sofa, cười lớn với chất giọng trầm đặc trưng. “Hai mươi đô.”
Vẫn còn sớm nên chỉ có độ nửa tá người trong phòng, và không có ai đứng chỗ bàn dài có xếp mấy bộ cờ giấy cả. Tất cả đều tụm lại chỗ anh chàng này. Anh ta khoảng hai mươi tuổi và trông không khác gì cướp biển. Quần jeans bẩn, áo cổ lọ đen và mũ len cũng đen nốt, kéo xuống đến tận hàng lông mày rậm. Ria mép anh ta dày và rõ ràng là cần được cạo. Mu bàn tay thì rám nắng và xù xì. Đột nhiên, anh ta cười lớn, “Phòng thủ Caro-Kann đúng là hạng bét.”
“Có vấn đề gì với Phòng thủ Caro-Kann?” một anh ăn vận gọn gàng với áo nỉ màu lông lạc đà hỏi.
“Chỉ toàn tốt và cơ may bằng 0.” Anh ta thả chân xuống sàn rồi ngồi dậy. Trên bàn là một bàn cờ màu be và xanh lá lấm bẩn, với những quân cờ đã sờn cũ. Quân vua mất đầu đã được dán lại bằng một mảnh băng dính sạn li ti. “Tôi sẽ chỉ cho cậu,” anh ta đẩy bàn cờ sang. Beth bây giờ đã đứng ngay bên cạnh. Em là cô gái duy nhất trong phòng. Anh ta cúi người và bằng sự tinh tế đáng ngạc nhiên, nhặt con tốt vua trắng với đầu ngón tay, thả nhẹ nhàng nó đến ô vua bốn. Rồi anh ta nhặt quân tốt đen tượng cánh hậu và thả xuống ô tượng ba, đặt tốt hậu trắng vào hàng ngang thứ tư trước khi lặp lại y hệt với quân đen. Anh ta nhìn lên đám đông xung quanh mình, tất cả đều chú ý theo dõi.
“Kiểu Caro-Kann nhỉ?”
Beth biết những nước đi này, nhưng chưa bao giờ thấy chúng được chơi. Đúng như em dự đoán, tiếp theo anh ta đi quân mã cánh hậu trắng. Tiếp đó là đi tốt đen để ăn trắng, sau đó dùng mã trắng để ăn lại quân tốt vừa rồi. Anh ta đi mã cánh vua đen đến ô tượng ba và ăn được nốt quân mã còn lại của bên trắng. Beth nhớ nước đi này. Nhưng giờ nhìn lại, nó có vẻ nhạt nhẽo. Em thấy mình cần phải lên tiếng. “Là tôi thì tôi sẽ ăn mã.”
Anh chàng nhìn cô, nhướn mày. “Nhóc là cô bé đến từ Kentucky phải không, người đã hạ đo ván Harry Beltik?”
“Đúng vậy,” Beth nói. “Nếu ăn mã, sẽ chồng đôi tốt đối thủ...”
“Chả quan trọng,” anh ta cười khẩy. “Toàn tốt và 0 cơ may. Muốn quân đen thắng thì đây mới là cách”. Nói đoạn anh ta để im con mã ở khu trung tâm và mang tốt đen đến ô vua thứ tư. Vẫn với sự khéo léo đó, anh chàng tiếp tục thiết lập các nước đi mới, xáo trộn các quân, thỉnh thoảng chỉ ra những cái bẫy ẩn. Thế trận ván cờ giờ đã cân bằng ở khu trung tâm. Như kiểu nhiếp ảnh khắc họa thời gian trôi mà người ta hay xem trên ti vi vậy. Một chồi non xanh nhạt nhú lên từ mặt đất, cao lớn, chín muồi rồi nở bung ra thành một đoá mẫu đơn hoặc hoa hồng. Kiểu như vậy.
Thêm vài người nữa vào phòng và tham gia quan sát. Beth thấy hưng phấn khác thường trước màn trình diễn này, trước sự hiểu biết, tinh anh và liều lĩnh của anh chàng đội mũ đen kia. Giờ thì anh ta bắt đầu trao đổi tốt ở trung tâm, luôn tay nhặt ra các quân ăn được trên bàn cờ chỉ bằng đầu ngón tay, nhẹ nhàng phủi ruồi, đồng thời không quên diễn giải những nước quan trọng, ưu nhược điểm và cả những cái bẫy với chất giọng trầm nhẹ của mình. Trong một khắc, khi buộc phải di chuyển xe từ ô nhà của nó, anh chàng rướn người qua bàn cờ và Beth rất đỗi ngạc nhiên khi thấy một con dao dắt bên hông. Loại dao mũi kim loại cán da, lận ngay trên thắt lưng. Anh chàng này trông như thể vừa bước ra từ quyển Đảo kho báu vậy, con dao kia thật ra không hề lạc quẻ chút nào. Ngay lúc đó, anh ta dừng lại tuyên bố, “Giờ thì xem nhé,” rồi mang xe đen lên ô vua thứ năm, đặt nó xuống với gương mặt như nở hoa. Anh ta khoanh tay trước ngực, nhìn quanh và hỏi, “Bây giờ trắng làm gì nhỉ?”
Beth cân nhắc thế trận. Trắng có đi đường nào cũng sẽ dính bẫy. Một người trong đám đông lên tiếng, “Hậu ăn tốt chăng?”
Anh chàng lắc đầu, cười khùng khục. “Xe sẽ đi đến ô thứ tám ở cột vua. Chiếu tướng. Mất hậu.”
Beth lường trước được điều này. Quân trắng toi toàn tập. Nhưng Beth vừa mở miệng định nói thì một anh chàng khác đã lên tiếng. “Nước cờ Mieses-Reshevsky. Lừng danh những năm ba mươi.”
Anh chàng cướp biển ngước lên xác nhận, “Đúng thế. Ở Margate, năm một nghìn chín trăm ba mươi lăm.”
“Trắng có thể đi xe đến ô hậu thứ nhất,” anh thanh niên ban nãy đề xuất.
“Được thôi,” cướp biển nhún vai. “Trắng còn gì để mất đâu”, và anh ta đi nước cờ theo yêu cầu. Đã quá rõ ràng rằng trắng đang thua. Có vài pha trao quân chớp nhoáng và một tàn cuộc thoạt trông có vẻ dài, nhưng quân đen đã có một nước thí tốt thông táo bạo thế là bỗng nhiên mối liên kết của phong cấp tốt-hậu cho thấy rõ đen sẽ ăn hậu sớm hơn trắng đến hai nước. Một ván cờ tuyệt đỉnh, như những ván hay nhất mà Beth từng đọc qua trong sách.
Cướp biển đứng dậy, cởi mũ ra và vươn vai. Anh ta nhìn xuống Beth một chốc. “Reshevsky đã chơi như vậy khi ông ấy cỡ tuổi em đấy, nhóc ạ. Thậm chí còn nhỏ hơn.”
⚝ ✽ ⚝
Khi Beth về phòng, bà Wheatley vẫn đang đọc tờ Enquirer . Qua cặp kính, bà nhìn thấy Beth mở cửa đi vào, liền hỏi. “Đã xong rồi cơ à?”
“Vâng ạ.”
“Con chơi tốt chứ?”
“Con thắng.”
Bà Wheatley nở một nụ cười đầy ấm áp. “Con yêu, con đúng là một báu vật đấy.”
⚝ ✽ ⚝
Bà Wheatley đã thấy qua tờ quảng cáo giảm giá của Shillito’s - một thương xá cách khách sạn chỉ vài dãy nhà. Còn bốn tiếng nữa mới đến trận đấu tiếp theo của Beth nên họ quyết định đến đó, băng qua làn tuyết nhẹ. Bà Wheatley loay hoay dưới tầng hầm một lúc lâu cho đến khi Beth nói, “Con muốn đi xem áo len.”
“Áo len loại nào nhỉ, con yêu?”
“Len Cashmere ạ.”
Bà Wheatley nhướn mày. “Cashmere? Con chắc là mình mua nổi chứ?”
“Chắc ạ.”
Beth tìm được một chiếc áo len màu xám nhạt giá hai mươi bốn đô la, nó cực vừa vặn. Qua tấm gương dựng cao, Beth hình dung mình là thành viên của Câu lạc bộ Táo Pi, như con nhỏ Margaret vậy, nhưng khuôn mặt này vẫn là của em, tròn xoe và lấm tấm tàn nhang, mái tóc thì nâu và thẳng đuột. Em nhún vai rồi thanh toán bằng tờ ngân phiếu du lịch. Trên đường đến đây, cả hai có đi ngang qua một cửa hiệu giày nhỏ nhắn thanh lịch với những đôi Oxfords bày trên bệ cửa sổ. Beth đưa bà Wheatley quay lại đó để mua cho mình một đôi. Đi kèm cặp vớ kẻ ô con thoi, gắn mác “100% len. Sản xuất tại Anh quốc.” Họ trở về khách sạn khi trời bắt đầu nổi gió, thổi những bông tuyết li ti dính cả lên người. Beth không thấy phiền, em còn bận nhìn xuống đôi giày cùng bộ tất kéo cao mới tinh của mình. Em thích mê cảm giác dưới chân lúc này, thích cái cách đôi tất bó chặt vào bắp chân và nhất là trông chúng thật đắt tiền làm sao. Em cứ cúi nhìn mãi không chán.
⚝ ✽ ⚝
Chiều hôm đó, Beth được xếp với một người đàn ông trung niên hạng 1910 đến từ Ohio. Em chơi Sicilia và buộc ông ta phải bỏ cuộc sau một tiếng rưỡi. Beth thấy tâm trí của mình rõ ràng hơn bao giờ hết, em thậm chí còn dùng một vài chiêu mới học được từ quyển sách đang nghiền ngẫm suốt mấy tuần qua, viết bởi Kiện Tướng người Nga Boleslavski.
Khi đến bàn nộp lại bảng điểm, em thấy Sizemore đang ở gần đó cùng một vài gương mặt thân quen nữa từ giải đấu lần trước. Beth thấy vui khi gặp lại họ thế này, nhưng người em muốn gặp nhất là Townes thì lại không có ở đây, dù em đã đỏ mắt tìm kiếm.
Trong phòng tối hôm đó, bà Wheatley xem từ Kẻ quê mùa ở Beverly Hills đến Dick Van Dyke trong lúc Beth mải miết chơi lại hai ván đấu, cố gắng để tìm ra điểm yếu trong cách chơi của mình. Nhưng chẳng có gì cả. Vậy là em lôi cuốn sách của Reuben Fine ra và bắt đầu nghiên cứu về tàn cuộc. Tàn cuộc trong cờ vua có cảm xúc riêng của nó, như thể nó là hẳn một cuộc thi riêng vậy, giây phút khi cả hai bên chỉ còn một, hai quân cờ, và vấn đề duy nhất chỉ là làm sao để tốt hóa hậu. Chỉ thuần về sự tinh vi và khéo léo, không có chỗ cho những lối tấn công bạo lực mà Beth yêu thích.
Nhưng em dần thấy chán Reuben Fine, chỉ đọc thêm một lúc rồi gấp sách lại đi ngủ. Beth có hai viên thuốc nhỏ xanh lá trong túi bộ pijama đang mặc, em uống ngay sau khi tắt đèn. Em không muốn mạo hiểm ngày mai vì một đêm thức trắng.
Ngày thứ hai cũng dễ dàng như ngày đầu vậy, mặc dù đối thủ quả đúng là mạnh hơn. Phải mất một lúc để Beth lấy lại tỉnh táo từ tác dụng của mấy viên thuốc, nhưng khi bắt đầu chơi thì tâm trí em vẫn trở lại với sự nhạy bén. Em thậm chí còn xử lí được từng quân cờ với sự tự tin tuyệt đối, bình tĩnh nhặt chúng lên và đặt chúng xuống thật hoàn hảo.
Giải đấu lần này không có phòng Bảng Đầu, và Bàn Một chỉ đơn giản là chiếc bàn đầu tiên. Trận thứ hai của Beth thuộc Bàn Sáu, mọi người bu quanh theo dõi khi em buộc đối thủ vào đường cùng sau khi tước đi một quân xe của anh ta. Giữa tràng pháo tay chúc mừng, em nhìn lên và thấy bà Alma Wheatley đang đứng ở cuối phòng kia, cười thật tươi.
Trong trận cuối ở Bàn Một, Beth đấu với một Kiện Tướng tên Rudolph. Đến độ giữa trận, anh ta đã tráo đổi được quân ở khu trung tâm, còn Beth những tưởng mình đã vào thế kẹt khi chỉ còn lại một xe, một mã cùng ba tốt. Rudolph cũng còn chừng ấy, nhưng tượng thay vì mã. Con tượng rõ ràng là lợi thế, Beth không thích điều này chút nào. Nhưng cuối cùng em đã ghim được quân đó và đổi mã của mình lấy được nó, rồi chơi thật cẩn trọng trong suốt một tiếng rưỡi sau, đến khi Rudolph mắc phải sai lầm chết người thì Beth thừa nước xông lên. Em chiếu bằng một quân tốt, đổi xe và thông được một quân tốt với sự bảo vệ của vua. Rudolph trông vô cùng giận dữ với bản thân nhưng không còn cách nào khác ngoài đầu hàng.
Một tràng vỗ tay nổ ra. Beth nhìn đám đông quanh mình, ở tít đằng sau vẫn là bà Wheatley đang cổ vũ nhiệt liệt trong bộ đầm xanh.
Trên đường về phòng, bà Wheatley đi trước mang chiếc cúp nặng trịch, Beth theo ngay sau với tờ ngân phiếu trong túi áo. Bà đã viết mọi thứ xuống một tờ giấy ghi chú của khách sạn, để sẵn trên đầu ti vi: Sáu mươi sáu đô la cho ba ngày ở Gibson, thêm ba mươi đô tiền thuế, hai mươi ba đô sáu mươi xu cho xe buýt, cuối cùng là giá tiền ăn mỗi bữa, đã bao gồm tiền boa.
“Để ăn mừng, bữa tối nay mình sẽ chi hẳn mười hai đô la, thêm hai đô cho bữa sáng mai nữa. Vậy tổng chi phí lần này sẽ là một trăm bảy mươi hai đô ba mươi xu cho tất cả.”
“Chúng ta vẫn còn lời ba trăm đô hơn,” Beth xác nhận.
Em im lặng nhìn tờ giấy chi chít những phép tính trước mặt. Tuy hiểu chúng rất rõ, em thoáng phân vân không biết có nên đề nghị chia đôi số tiền với bà Wheatley không. Em không muốn vậy chút nào. Đây là khoản tiền em tự kiếm được bằng sức mình.
Bà Wheatley chủ động phá vỡ sự im lặng một cách vui vẻ. “Có lẽ mẹ chỉ nên nhận mười phần trăm thôi nhỉ. Xem như phí hoa hồng của quản lí.”
“Tức là ba mươi hai đô la và bảy mươi bảy xu.” Beth tính nhanh.
“Hèn gì khi xưa Methuen khoe với mẹ là con học Toán rất cừ.”
“Vâng,” Beth gật đầu. “Quyết định vậy đi ạ.”
⚝ ✽ ⚝
Cả hai ăn tối ở nhà hàng Ý với một món gì đó làm từ bê. Bà Wheatley gọi cho mình một bình vang, nốc rượu và phì phèo Chesterfield liên tục suốt bữa ăn. Beth thích bánh mì ăn cùng bơ lạt ướp lạnh ở đó. Em thích cả chậu cây cam nhỏ đặt trên quầy bar gần chỗ cả hai ngồi nữa.
Bà Wheatley lau cằm bằng khăn ăn khi đã uống hết rượu, rồi châm nốt điếu thuốc cuối cùng. “Beth ạ,” bà mở lời, “sẽ có một giải đấu ở Houston ngày hai mươi sáu tới, ngay dịp lễ. Và tất nhiên, vì mọi người đã túm tụm ăn bánh pudding mận hay làm hoạt động gì đó khác rồi nên việc đi lại lúc này sẽ rất dễ dàng.”
“Con có biết,” Beth gật đầu. Em đã đọc qua tin này trên tờ Bình luận cờ vua và đang rất muốn đi. Nhưng so với mức thưởng sáu trăm đô la thì Houston lại ở quá xa.
“Mẹ nghĩ chúng ta có thể đi máy bay,” Bà Wheatley phấn khởi. “Ta sẽ được tận hưởng một kì nghỉ Đông dưới ánh mặt trời.”
Vẫn đang ăn dở món tráng miệng, Beth gật đầu, “Vâng,” rồi quay lại với đĩa kem của mình. “Vâng, thưa mẹ.”
⚝ ✽ ⚝
Bữa tối Giáng sinh của họ là món gà tây nấu bằng lò vi sóng trên máy bay, đi kèm một li sâm-panh miễn phí cho bà Wheatley và nước cam đóng hộp cho Beth. Đó là Giáng sinh tuyệt vời nhất em từng có. Họ bay qua Kentucky phủ đầy tuyết và vòng lên phía trên Vịnh Mexico vào gần cuối chuyến đi. Họ hạ cánh dưới ánh mặt trời ấm áp. Trên đường về từ sân bay, họ đi qua hết công trường này đến công trường khác, mấy chiếc cần cẩu và máy ủi lớn màu vàng dựng sừng sững đầy biếng nhác gần những khung nhà xây dở. Một trong số chúng được còn được treo cả vòng hoa Giáng sinh.
Một tuần trước khi họ rời Lexington, số mới nhất của Bình luận cờ vua đã được bỏ vào thùng thư. Khi lật ra, Beth thấy hình mình trên đó, ngay sau là Beltik cùng dòng tiêu đề: Cô bé học sinh nẫng giải vô địch từ Kiện Tướng . Trận đấu giữa cả hai cũng được in lên kèm dòng bình luận: “ Tất cả người xem đều kinh ngạc trước khả năng làm chủ và tư duy chiến lược của cô gái nhỏ. Cô bé thể hiện lối chơi vững chắc không hề kém cạnh những đấu thủ gấp đôi tuổi mình. ” Beth đọc bài báo tận hai lần trước khi khoe với bà Wheatley, người thậm chí còn ngây ngất hơn cả em. Trước đó với tờ Lexington, bà đọc to từng chữ một rồi hô vang “Tuyệt vời!”. Nhưng lần này, bà ấy đọc trong im lặng, rồi thì: “Con yêu, đây là một sự công nhận tầm quốc gia đấy.” Bà thốt lên trong hơi thở.
Bà Wheatley mang tờ báo theo lên máy bay, và cả hai dành một phần thời gian của chuyến bay để đánh dấu những giải đấu mà Beth sẽ tham gia trong mấy tháng tới.
Họ nhất trí với một giải mỗi tháng. Bà Wheatley sợ rằng sớm muộn gì họ cũng dùng hết các loại bệnh trên đời này, và như bà hay nói, dùng hết “sự đáng tin” nếu cứ tục cáo bệnh nhiều hơn như thế. Beth tự hỏi nếu họ xin phép đúng sự thật thì sao, vì lũ con trai cũng toàn được phép nghỉ vì bóng rổ bóng đá, nhưng em đủ khôn ngoan để giữ suy nghĩ đó trong đầu. Ngược lại, bà Wheatley có vẻ vô cùng thích thú với kế hoạch này. Cứ như một kiểu một âm mưu gì đó vậy.
Beth thắng Houston dễ như bỡn. Hay theo cách nói của bà Wheatley là em đã “bắt đầu quen cách thắng”. Dù bị buộc phải hòa ván thứ ba, em đã thắng trận cuối cùng bằng một pha phối hợp xuất sắc và đánh bại nhà vô địch bốn mươi tuổi khu vực Tây Nam, dễ dàng như thể ông ta chỉ mới tập chơi. Sau giải đấu, họ ở lại hai ngày nữa để sưởi thêm chút nắng mặt trời, tham quan Bảo tàng Mĩ Thuật và Vườn Thú. Hình Beth xuất hiện trên mặt báo chỉ một ngày sau giải, lần này Beth thấy hài lòng khi nhìn thấy nó. Mẩu tin đã gọi em là “Thần đồng”. Bà Wheatley như mọi lần đã mua hẳn ba tờ: “Chắc mẹ phải bắt đầu làm một quyển sổ lưu niệm mất thôi.”
⚝ ✽ ⚝
Đến tháng Giêng, bà Wheatley lại gọi cho trường để báo rằng bệnh nhiễm bạch cầu của Beth lại tái phát, dịp đó họ đến Charleston. Qua tháng Hai thì là Atlanta cùng lí do cảm lạnh, tháng Ba lại chuyển sang cảm cúm để đi Miami. Thường bà Wheatley sẽ nói chuyện với Trợ lí hiệu trưởng, đôi khi là Trưởng khu nữ sinh. Không ai thắc mắc gì những lí do ấy cả. Có vẻ như một vài đứa học sinh đã biết việc của Beth qua mấy bài báo, nhưng cũng chẳng thấy những vị có chức có quyền trong trường nói gì. Xen kẽ giữa các giải đấu, Beth dành ra ba giờ mỗi tối để luyện cờ vua. Em chỉ thua một trận ở Atlanta, nhưng cuối cùng vẫn đạt giải Nhất, còn ở hai thành phố còn lại, Beth vẫn là cái tên bất bại. Beth thích du ngoạn cùng bà Wheatley thế này, dù đôi lúc bà có hơi quá trớn bởi mấy li Martini phục vụ trên máy bay, nhưng ngoài chuyện đó ra thì họ nói đủ thứ chuyện và khúc khích suốt chuyến bay. Những câu chuyện cười về tiếp viên, về những chiếc áo ủi phẳng và lớp trang điểm dày cui của họ, hoặc là về những người hàng xóm ngớ ngẩn của bà ở Lexington. Hầu như bà luôn ở trong trạng thái phấn khích, tự tin và rất mực vui vẻ, còn Beth cứ cười ngặt nghẽo rồi nhìn qua cửa sổ ngắm những đám mây bên dưới, thấy mình hạnh phúc hơn bao giờ hết. Hơn cả cảm giác thỏa mãn lúc uống năm, sáu viên thuốc xanh lá dành dụm trong bí mật ở Methuen.
Càng ngày Beth càng thích các khách sạn và nhà hàng, cùng với đó là mỗi giải đấu với men chiến thắng của chúng. Leo thang thứ hạng qua từng trận đối đầu, và đám đông reo hò dày đặc hơn sau mỗi lần thắng. Mọi người giờ đã biết Beth là ai. Em luôn là người trẻ nhất, đôi khi còn là nữ đấu thủ duy nhất. Vậy nên khi trở lại trường học, mọi thứ trở nên thật buồn tẻ. Vài đứa đã bắt đầu nói về lựa chọn trường đại học sau khi tốt nghiệp, một số khác thì đã định sẵn nghề nghiệp trong đầu. Có hai đứa mà Beth quen biết muốn trở thành y tá. Tất nhiên Beth không bao giờ muốn tham gia vào những cuộc trò chuyện kiểu đó, em đã biết chắc mình muốn làm gì. Nhưng em tuyệt nhiên chẳng hề kể với ai về việc du đấu, hay về danh tiếng mà mình đang xây dựng trong làng cờ vua.
Khi họ trở về từ Miami vào tháng Ba cũng là lúc phong bì của Liên đoàn Cờ Vua gửi đến. Trong đó là thẻ hội viên mới cóng cùng xếp hạng của Beth: 1881. Beth từng nghe nói rằng sẽ mất chút thời gian để thứ hạng nói lên thực lực của em, nhưng thế này cũng đủ để hài lòng, vì cuối cùng em đã trở thành một đấu thủ chuyên nghiệp với xếp hạng thực thụ. Em sẽ đẩy con số lên sớm thôi. Nấc quan trọng tiếp theo sẽ là Kiện Tướng, ở điểm 2200. Sau nấc 2000, một người sẽ được gọi là Chuyên Gia, một danh hiệu khá vô nghĩa. Em muốn cái danh Đại Kiện Tướng Quốc Tế, nghe mới kêu làm sao.
⚝ ✽ ⚝
Mùa Hè đó họ đến New York cho giải đấu tại Khách sạn Henry Hudson.
Trái ngược với bữa tối ở nhà chỉ toàn đồ ăn chế biến sẵn, những chuyến đi này lại khiến khẩu vị ăn uống của hai người xa xỉ hơn hẳn. Tại New York, họ đi xe buýt xuyên phố để đến các nhà hàng Pháp như Le Bistro và Cafe Argenteuil. Trước khi đi, bà Wheatley đến một trạm xăng ở Lexington và mua một quyển Hướng dẫn du lịch bỏ túi , đánh dấu những địa điểm ba sao trở lên rồi họ sẽ dò đường đến bằng bản đồ. Giá tiền đương nhiên đắt khủng khiếp, nhưng chẳng ai màng nói lời nào. Beth luôn chọn ăn cá hồi hun khói thay vì tươi, em vẫn không quên được cái món mình phải ăn vào mỗi thứ Sáu ở Methuen. Em quyết định năm học tới sẽ đăng kí môn Tiếng Pháp ở trường.
Rắc rối duy nhất trong chuyến đi là việc Beth uống thuốc của bà Wheatley để dễ ngủ, nhưng nó khiến em mất hơn cả tiếng để bắt đầu tỉnh táo vào buổi sáng. May là các trận đấu không bao giờ bắt đầu trước chín giờ cả, vậy nên em có thể dậy sớm để nạp kha khá cà phê phục vụ tận phòng. Bà Wheatley không hề biết chuyện đó, cũng như chẳng quan ngại gì khi Beth đột nhiên yêu thích cà phê đến vậy, bà luôn đối xử với em như một người lớn. Mà đôi khi giữa hai người, Beth còn là bên cư xử chững chạc hơn.
Beth yêu New York vô cùng. Em thích đi xe buýt, thích cả tàu điện ngầm bởi cái sự ồn ào và tiếng bánh xe nghiến vào đường ray. Em thích lượn quanh khắp các phố mua sắm khi có cơ hội, thích nghe mọi người trên đường nói chuyện bằng tiếng Tây Ban Nha và Do Thái.
Beth không để tâm lắm cái cảm giác nguy hiểm thường trực ở thành phố này, như kiểu lái xe ngu ngốc của mấy gã tài xế taxi, hay đám vụn kim tuyến bẩn thỉu trên Quảng trường Thời Đại. Đêm cuối ở New York, họ đến Hội trường Âm nhạc Radio City để xem Chuyện phía Tây và nhóm Rockettes. Ngồi ở hàng ghế cao gần mái vòm, trên chiếc ghế bọc nhung, Beth sướng mê người.
⚝ ✽ ⚝
Beth đã nghĩ phóng viên đến từ tờ Life sẽ là kiểu người trên áo nồng khói thuốc lá và trông giống Lloyd Nolan, nhưng người xuất hiện trước cửa nhà em lại là một phụ nữ nhỏ nhắn trong chiếc váy sẫm màu và màu tóc xám lạnh. Người đàn ông đi cùng bà mang theo một chiếc máy ảnh. Bà ấy tự giới thiệu mình là Jean Balke, trông già hơn bà Wheatley. Bằng những bước chân nhanh nhẹn, bà rảo quanh phòng khách, ngó nghiêng loạt sách trên giá và nghiên cứu màu giấy dán tường. Rồi bà bắt đầu đặt câu hỏi với phong thái thẳng thắn và dễ chịu. “Mặc dù không phải dân chơi cờ nhưng tôi thực sự rất ấn tượng. Mọi người đều nói em là hàng xịn đấy,” bà cười.
Beth thấy hơi ngượng.
“Cảm giác của em thế nào? Khi là cô gái duy nhất trong bộ môn toàn cánh đàn ông?”
“Em không quan tâm lắm ạ.”
“Chắc cũng hơi sợ chứ?” Họ đang ngồi đối diện nhau khi bà Balke nghiêng người về phía trước, chăm chú nhìn Beth.
Beth lắc đầu. Ông thợ ảnh tiến đến ghế sofa và bắt đầu chụp với đồng hồ đếm.
“Khi còn là một cô bé, ta luôn bị cấm tiệt việc thi thố hay cạnh tranh,” người phóng viên bộc bạch, “chỉ toàn được chơi với búp bê thôi.”
Ông thợ nhiếp ảnh lùi ra sau và bắt đầu nhìn Beth chăm chú qua ống kính. Em nhớ lại con búp bê mà ông Ganz đã tặng cho mình, “Cờ vua không phải lúc nào cũng mang tính cạnh tranh”.
“Nhưng em chơi để giành chiến thắng mà, đúng chứ?”
Beth những muốn nói gì đó, chẳng hạn như bản chất của môn cờ vua đẹp đẽ thế nào, nhưng nhìn vào ánh mắt sắc nhọn, đầy tò mò của Balke, em không nghĩ ra được từ nào phù hợp.
“Em có bạn trai chưa?”
“Chưa ạ. Em mới mười bốn tuổi thôi.” Lúc này người thợ chụp bắt đầu bấm máy.
Phóng viên Balke châm một điếu thuốc, sau đó rướn người tới trước và bập nó vào một trong mấy cái gạt tàn của bà Wheatley. “Em có hứng thú với các bạn trai không?” bà hỏi thẳng thừng.
Beth càng lúc càng thấy bất an. Em chỉ muốn nói về việc mình học cờ vua như thế nào, về các giải đấu mình đã thắng và về những tên tuổi như Morphi hay Capablanca. Em không thích người phụ nữ này lẫn những câu hỏi của bà ta. “Em chỉ hứng thú với cờ vua.”
Bà Balke đột ngột toét miệng cười. “Ừ, vậy kể ta nghe về nó đi. Em bắt đầu chơi từ năm mấy tuổi và em học từ đâu?”
Beth bắt đầu chia sẻ để cô Balke đó ghi chú lại, nhưng em có cảm giác rằng bà ta không thực sự để tâm đến lời nào của em. Thế nên càng nói, em càng nhận ra mình chẳng có mấy chuyện để nói cả.
Trong giờ học Đại Số trên trường tuần sau đó, Beth thấy thằng con trai ngồi trước mình đưa cho hai đứa nữ bên cạnh một tờ Life , sau đó cả hai cùng quay lại nhìn Beth như thể chưa từng thấy em bao giờ. Sau giờ học, đứa con trai lúc nãy, người chưa từng nói chuyện với Beth đột nhiên chặn ngang và hỏi xin chữ kí của em lên tờ tạp chí. Beth hơi ngạc nhiên. Em cầm lấy tờ tạp chí, mở ra và thấy trọn một trang viết về mình. Một bức ảnh em đang tập trung nhìn vào bàn cờ, bên cạnh một bức khác chụp Mái ấm Methuen. Trên cùng là dòng tiêu đề: Mozart phiên bản nữ khiến giới cờ vua kinh ngạc . Beth kí tên của mình bằng cây bút bi mượn từ cậu bạn trai rồi đặt lại tờ tạp chí lên bàn.
Vừa về đến nhà, em đã thấy bà Wheatley ôm cuốn tạp chí ban nãy vào lòng. Bà bắt đầu đọc lớn:
“Đối với một số người, cờ vua nhiều khi chỉ là trò tiêu khiển, với số khác, đôi khi nó lại mang tính cưỡng chế, hay thậm chí như một cơn nghiện vậy. Và thỉnh thoảng lại có người được sinh ra với cờ vua là tài năng thiên bẩm. Chúng ta đã quen với việc một cậu bé xuất hiện và khiến cả thế giới trầm trồ bởi sự kiệt xuất trong môn thể thao khó nhằn này. Nhưng nếu đó không phải là cậu bé thì sao, nhỡ đâu đó là một cô bé trẻ trung, nghiêm nghị với mái tóc và đôi mắt nâu, khoác lên mình một chiếc váy xanh đậm?
Chuyện chưa từng xảy ra trong lịch sử đã trở thành sự thật trong những ngày vừa qua. Ở Lexington, Ở Kentucky và Cincinnati. Đến Charleston, Atlanta, Miami, hay mới đây nhất là New York. Trong thế giới cờ vua cấp quốc gia mà xưa nay chỉ được thống trị bởi phái nam bỗng xuất hiện một cô bé mười bốn tuổi với đôi mắt sáng cương nghị, là học sinh lớp Tám ở trường Trung học Fairfield, Lexington, Kentucky. Một cô bé trầm tĩnh và ngoan ngoãn. Nhưng luôn sẵn sàng cho cuộc đi săn của mình...” “Quá tuyệt vời!” Bà Wheatley thốt lên. “Con muốn mẹ đọc tiếp không?”
“Phần sau toàn nói về mái ấm.” Beth đã mua một bản và đọc hết. “Trong đây viết duy nhất về một trận đấu của con. Còn lại chỉ bình luận về việc con là một đứa con gái.”
“Thì đúng là vậy mà.”
“Nhưng đó đâu phải điểm quan trọng nhất,” Beth tức tối. “Họ chẳng hề nhắc đến một nửa những điều con kể. Không có gì về bác Shaibel. Càng không có gì về cách con chơi Phòng thủ Sicilian.”
“Nhưng Beth ơi,” Bà Wheatley dịu dàng, “quan trọng là giờ con thành siêu sao rồi!”
Beth nhìn bà trầm ngâm, “Vâng, chủ yếu vì việc là con gái.”
⚝ ✽ ⚝
Ngày hôm sau đến lượt Margaret chặn Beth lại trên hành lang. Margaret mặc một cái áo màu lông lạc đà và để tóc xõa vừa chạm vai, trông còn đẹp hơn năm ngoái lúc bị Beth lấy trộm mười đô la trong ví. “Những hội viên Táo Pi khác muốn mình mời cậu đến bữa tiệc tuyên thệ vào tối thứ Sáu ở nhà mình,” Margaret hỏi một cách thận trọng.
Hội Táo Pi. Thật lạ lùng làm sao. Beth đồng ý và hỏi địa chỉ, em nhận ra đây là lần đầu tiên mình nói chuyện với Margaret.
Chiều hôm đó, em dành cả tiếng đồng hồ để thử hết các kiểu áo váy ở Purcell, trước khi chọn mua một chiếc váy xanh hải quân có cổ màu trắng từ dòng sản phẩm đắt tiền nhất. Khi em khoe nó với bà Wheatley và thông báo rằng mình sẽ đến bữa tiệc của Hội Táo Pi, bà tỏ ra vô cùng phấn khởi. “Ôi trông con như một tiểu thư sắp ra mắt vậy.” Bà trầm trồ khi ngắm Beth thử bộ váy mới.
⚝ ✽ ⚝
Phòng khách nhà Margaret sáng lấp lánh với nội thất gỗ trắng tuyệt đẹp và những bức tranh sơn dầu đắt tiền mà hầu hết đều vẽ ngựa. Mặc dù đó là một tối tháng Ba mát mẻ, một ngọn lửa to vẫn bập bùng dưới chiếc lò sưởi cũng màu trắng. Khi Beth tiến vào trong bộ váy mới, mười bốn đứa con gái đang ngồi đều trên băng sofa trắng và những chiếc ghế dựa màu. Hầu hết bọn nó đều mặc áo len và chân váy. “Việc cậu làm thật sự ấn tượng đấy,” một đứa trong nhóm khen ngợi, “một gương mặt từ Trung học Fairfield xuất hiện trên tờ Life . Mình mém té ngửa luôn!” Thế nhưng khi Beth bắt đầu kể về giải đấu thì bọn nó liên tục ngắt lời để hỏi về các chàng trai ở đó. Họ có đẹp trai không? Cậu có hẹn hò với ai trong số đó không? Khi Beth trả lời “Mình không có thời gian cho việc ấy,” thì bọn nó liền đổi chủ đề.
Trong hơn một tiếng đồng hồ, cả bọn chỉ nói về con trai, chuyện hẹn hò và quần áo, cứ xoay vòng từ nói chuyện thanh lịch tinh tế sang cười khúc khích, để mặc Beth nhấp nhổm ngồi ở rìa ghế sofa, tay cầm cốc Coca-Cola, hoàn hoàn không thể nghĩ ra được gì để nói. Đến chín giờ, Margaret bật chiếc ti vi lớn cạnh lò sưởi và tất cả đều im lặng để theo dõi Phim điện ảnh của Tuần , ngoại trừ vài tiếng khúc khích thỉnh thoảng vẫn bật ra.
Beth ngồi đó, bỏ ngoài tai những chuyện phiếm và cười đùa ở mỗi chặp quảng cáo, cho đến khi phim kết thúc vào lúc mười một giờ. Em rất đỗi ngạc nhiên khi biết một buổi tối có thể buồn tẻ nhường ấy. Không thể tin nổi đây là Câu lạc bộ Táo Pi lừng danh mà Beth khao khát khi mới đến Lexington, tất cả những gì bọn họ làm trong mấy bữa tiệc cầu kì hóa ra chỉ là xem phim của Charles Bronson. Cao trào duy nhất tối hôm ấy là khi Felicia nói “Mình tự hỏi liệu anh ta có ‘khoai to’ như nhìn bên ngoài không nhỉ”. Beth bật cười trước câu đó, câu duy nhất trong cả đêm mà em thấy buồn cười.
Khi tiệc tàn lúc mười một giờ, không ai nài nỉ Beth ở lại thêm hay tỏ ý mời em tham gia Hội cả. Beth thấy nhẹ nhõm làm sao khi được lên taxi đi về, và ngay lập tức em lên phòng đọc Trung Cuộc trong Cờ Vua , dịch từ bản tiếng Nga của Tiến sĩ Luchenko.
⚝ ✽ ⚝
Đến giải đấu tiếp theo, trường học đã phần nào biết chuyện của Beth, bây giờ em không cần dùng bệnh tật làm cái cớ nữa. Bà Wheatley đã thẳng thắn trao đổi với hiệu trưởng, thế là Beth được đường hoàng miễn các lớp học. Không ai nói gì về những lần cáo bệnh giả vờ trước đó. Thậm chí Beth còn được lên báo tường và bọn học sinh nhận ra em khi đi dọc hành lang. Giải đấu lần này diễn ra ở Kansas. Sau khi giành chiến thắng, vị giám đốc đã đưa hai mẹ con đi ăn tối tại một nhà hàng bít tết, và không ngừng bày tỏ niềm vinh dự khi có em tham gia. Người này là một thanh niên trẻ, anh đối xử với cả hai vô cùng lịch sự.
“Em muốn chơi ở Giải Mĩ Mở Rộng,” Beth nói khi họ đang dùng tráng miệng và cà phê.
“Hẳn rồi,” anh đồng tình. “Có khi em sẽ thắng đấy.”
“Nếu thắng thì con bé sẽ được thi đấu ở nước ngoài chứ?” Bà Wheatley sốt sắng hỏi. “Châu Âu chẳng hạn?”
“Không có lí nào không được cả,” vị giám đốc khẳng định. Anh ta tên Nobile, đeo mắt kiếng dày cộp và uống rất nhiều nước đá. “Nhưng muốn họ mời em thì trước hết họ phải biết về em đã.”
“Liệu giành chiến thắng ở Giải Mở Rộng có đủ không?”
“Chắc chắn rồi. Như Benny Watts đấu ở châu Âu suốt, từ lúc anh ta có danh hiệu quốc tế.”
“Tiền thưởng thế nào?” Bà Wheatley châm một điếu thuốc.
“Tôi nghĩ là khá cao đấy.”
“Còn Nga thì sao?” Beth hỏi.
Nobile chợt im lặng, nhìn chằm chằm như thể em vừa nói gì đó phạm pháp vậy. “Người Nga là lũ sát nhân,” cuối cùng anh ta cũng lên tiếng. “Họ ‘ăn’ đấu thủ Mĩ thay cho bữa sáng đấy.”
“Thật sao...” Bà Wheatley thấy khó tin.
“Đó là sự thật,” Nobile chắc như đinh đóng cột. “Tôi không nghĩ rằng có một đấu thủ Mĩ nào dám mong ước thắng người Nga suốt hai mươi năm nay. Cũng giống ba lê vậy. Những con người đó được trả tiền để chơi cờ.”
Beth nghĩ về những bức ảnh trong Bình luận cờ vua , những người đàn ông với khuôn mặt dữ tợn, đăm chiêu nhìn xuống bàn cờ - Borgov và Tal, Laev và Shapkin, cau có trong những bộ vest sẫm màu. Cờ vua ở Nga là một thứ gì đó hoàn toàn khác ở Mĩ. Nhưng cuối cùng em chỉ hỏi, “Làm thế nào để được tham gia Giải Mĩ Mở Rộng?”
“Chỉ cần đóng một khoản phí tham gia,” Nobile nói thêm. “Cũng giống mọi giải đấu khác thôi, trừ việc sát phạt hơn.”
⚝ ✽ ⚝
Em đã đóng phí tham dự, nhưng lại không chơi ở Giải Mĩ Mở Rộng năm đó. Một loại vi-rút đã khiến bà Wheatley phải nằm liệt giường những hai tuần, và Beth - người vừa bước qua sinh nhật lần thứ mười lăm không muốn đi một mình. Em đã cố gắng hết sức để che giấu cảm xúc, nhưng sự thực là em thấy tức giận với cái bà Alma Wheatley này vì đã ốm không đúng thời điểm. Em giận cả bản thân vì đã sợ phải đi một mình đến Los Angeles. Tất nhiên Giải Mở Rộng không quan trọng bằng chức Vô địch Quốc Gia, nhưng đã đến lúc Beth cần bắt đầu chơi thứ gì đó nghiêm túc hơn là các sự kiện được chọn dựa trên mức tiền thưởng. Những giải đấu như Giải Vô Địch Mĩ hay Giải Khách Mời Merriwether thuộc về một thế giới nhỏ hẹp mà em từng tình cờ nghe được thông qua những cuộc trò chuyện và các bài báo trong Bình luận cờ vua . Đã đến lúc em dấn thân vào đó, và tiếp theo sẽ là cờ vua quốc tế. Đôi lúc em hình dung bản thân trở thành con người mà mình muốn: Một nữ kì thủ chuyên nghiệp và nổi danh trong giới cờ vua toàn thế giới, tự đi du đấu trên khoang hạng nhất của máy bay, thật cao ráo, ăn vận thật hoàn hảo, đẹp đẽ và đĩnh đạc, đại loại như phiên bản da trắng của Jolene vậy. Beth thường tự nhủ sẽ gửi cho Jolene một tấm thiệp hoặc một lá thư gì đó, nhưng em chưa bao giờ làm vậy. Thay vào đó, em sẽ tự soi mình trong gương phòng tắm, tìm kiếm những dấu hiệu của người phụ nữ đĩnh đạc và xinh đẹp mà mình muốn trở thành.
⚝ ✽ ⚝
Ở tuổi mười sáu, Beth đã trở nên cao ráo và xinh đẹp hơn, đã biết cách cắt tóc và tạo kiểu để nó tôn lên đôi mắt mình, nhưng trông cô vẫn như một nữ sinh. Cô vẫn tham gia các giải đấu khoảng sáu tuần một lần ở các bang như Illinois và Tennessee, đôi khi là New York. Hai mẹ con vẫn chọn những giải đủ chi trả các khoản phí và có lời cho cả hai. Số dư trong tài khoản ngân hàng của cô dần tăng lên, đó là niềm vui rõ ràng nhất. Thế nhưng sự nghiệp của Beth cũng đã chạm đến một ngưỡng bằng phẳng. Cô cũng đã quá già để được gọi là thần đồng rồi.