← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 9

“Cho tôi một Tequila Sunrise,” Beth nói. Đồng hồ trên quầy bar điểm mười hai rưỡi, ở chiếc bàn gần cuối phòng, một nhóm bốn bà cô người Mĩ đang ăn trưa. Beth còn chưa ăn sáng nhưng cũng chẳng muốn ăn trưa lắm.

“Hân hạnh được phục vụ,” nhân viên pha chế đon đả.

Lễ trao giải diễn ra lúc hai giờ rưỡi. Beth sẽ uống cho qua cái giờ đó. Có lẽ cô đạt hạng bốn hoặc năm gì đấy. Trận hòa của hai Đại Kiện Tướng sẽ nâng họ lên cao hơn cô khoảng năm điểm rưỡi. Borgov có sáu điểm. Còn cô thì năm. Cô uống đâu chừng ba li Tequila Sunrise, ăn hai quả trứng luộc rồi chuyển sang bia. Loại bia Dos Equis. Phải đến chai thứ tư thì cơn đau trong dạ dày cô mới biến mất, cũng như cơn thịnh nộ pha lẫn xấu hổ dần phai mờ đi. Nhưng kể cả khi chúng đã dịu xuống, Beth vẫn nhìn thấy gương mặt u ám, đen xì của Borgov và thấy rõ sự ê chề trong suốt trận đấu. Cô đã chơi cờ như một tay mơ, một đứa ngốc thụ động và lúng túng.

Beth uống rất nhiều nhưng không thấy chóng mặt, cũng không lè nhè khi gọi món. Như thể có một lớp tĩnh điện nào đó xung quanh giúp cô giữ khoảng cách với mọi thứ vậy. Cô ngồi bàn ở phía trong với ly bia trên tay, hoàn toàn tỉnh táo.

Lúc ba giờ đúng, có hai người chơi từ giải đấu bước vào quán bar, khe khẽ trò chuyện. Nhưng Beth vẫn đứng dậy đi thẳng lên phòng.

Trên giường, bà Wheatley đang nằm gối tay, vài ngón luồn vào tóc như đang bị đau đầu. Beth bước lại gần hơn. Trông bà ấy có vẻ không ổn, cô nắm lấy tay bà. Nhưng bà Wheatley đã chết.

Trông như thể Beth không cảm thấy gì. Nhưng suốt năm phút sau đó cô mới có thể buông đôi tay lạnh ngắt của bà Wheatley để nhấc điện thoại lên.

Quản lí khách sạn biết rõ cần phải làm gì. Trên chiếc ghế bành, Beth ngồi ôm tách cà phê sữa từ phục vụ phòng trong lúc hai người đàn ông khiêng cáng đến dưới sự chỉ dẫn của quản lí. Cô nghe hết những gì anh ta nói, nhưng tuyệt nhiên không nhìn mà chỉ hướng mắt ra cửa sổ. Một lúc sau, cô quay lại và thấy một phụ nữ trung tuần trong bộ âu phục xám đang dùng ống nghe để kiểm tra bà Wheatley trên giường, ngay dưới là cáng cứu thương. Hai người đàn ông trong bộ đồng phục xanh lá đứng cạnh giường, vô cùng bối rối. Người phụ nữ tháo ống nghe ra, gật đầu với viên quản lí rồi tiến đến chỗ Beth. Mặt đầy căng thẳng, bà ta nói, “Tôi rất tiếc.”

Beth quay mặt đi chỗ khác. “Chuyện gì đã xảy ra?”

“Khả năng cao là viêm gan. Ngày mai chúng ta sẽ biết.”

“Ngày mai,” Beth bần thần. “Cô có thể cho cháu loại thuốc an thần nào đó không?”

“Ừ, ta có thuốc ngủ...”

“Cháu không muốn thuốc ngủ,” Beth từ chối. “Cô có thể kê toa Librium cho cháu không?”

Nữ bác sĩ nhìn cô chăm chú một giây rồi nhún vai. “Cháu không cần toa thuốc để mua Librium ở Mexico. Ta khuyên cháu nên dùng thuốc chống lo lắng. Trong khách sạn có hiệu thuốc đấy.”

⚝ ✽ ⚝

Beth lấy tờ bản đồ kẹp trong cuốn sách du lịch bỏ túi của bà Wheatley, viết ra tên những thành phố kẹp giữa hai vùng Denver, Colorado và Butte, Montana. Viên quản lí đã căn dặn kĩ càng rằng trợ lí của anh ta sẽ sẵn sàng giúp cô bất kì điều gì, từ gọi điện, kí giấy tờ đến làm việc với chính quyền. Mười phút sau khi bà Wheatley được mang đi, Beth gọi trợ lí, đọc danh sách các thị trấn và để lại một cái tên. Anh ta hứa sẽ gọi lại sau. Cô gọi tiếp một chai Coca-Cola cỡ đại và thêm nhiều cà phê, rồi tranh thủ cởi quần áo đi tắm. Trong phòng tắm cũng có điện thoại, nhưng không gọi được. Kì lạ thay, cô vẫn chẳng cảm thấy gì.

Cô thay quần jeans mới và áo phông trắng. Trên bàn nhỏ cạnh giường có một bao thuốc Chesterfield rỗng đã bị bà Wheatley vò nát. Gạt tàn kế bên đầy tràn tàn thuốc. Một điếu thuốc dang dở đang tựa lên mép gạt tàn, đầu tro dài và lạnh ngắt, điếu cuối cùng mà bà Wheatley hút. Trong một lúc, Beth không thể thôi nhìn chằm chằm vào nó. Nhưng rồi cô quay vào phòng tắm để lau khô tóc.

Cậu trai mang đến cho Beth chai Coca cùng bình cà phê tỏ ra vô cùng lịch sự và nằng nặc xua tay khi cô định kí vào hóa đơn. Chuông điện thoại reo, Beth nghe người quản lí thông báo: “Có cuộc gọi cho cô, từ Denver.”

Ống nghe phát ra một chuỗi tiếng lách cách, ngay sau đó là một giọng đàn ông, vang lên to rõ đến đáng ngạc nhiên. “Allston Wheatley đây.”

“Là Beth đây, bố Wheatley.”

Có một khoảng lặng ở đầu dây kia. “Beth?”

“Con gái bố. Elizabeth Harmon.”

“Con ở Mexico à? Con đang gọi từ Mexico sao?”

“Là về mẹ Wheatley.” Cô nhìn vào điếu thuốc chưa hẳn đã được chạm môi đang nằm dang dở trên gạt tàn.

“Alma thế nào?” giọng nói ấy hỏi. “Có đang ở đó với con không? Ở Mexico ấy?” Một giọng điệu quan tâm đầy gượng ép. Cô có thể hình dung được vẻ mặt của ông ta lúc này cũng hệt như hồi ở Methuen, vẻ mặt như đang ước rằng mình ở nơi nào đó khác. Mọi thứ về ông đều toát ra cái vẻ đó: Không muốn dính líu gì đến ai, chỉ muốn đi thật xa.

“Mẹ mất rồi, bố Wheatley. Mẹ đã qua đời vào sáng nay.”

Sự im lặng chiếm lấy đầu dây bên kia. Cuối cùng cô đành lên tiếng, “Bố Wheatley...”

“Con có thể giúp ta lo liệu chứ?” ông cắt ngang. “Ta không thể đi Mexico được.”

“Ngày mai họ sẽ khám nghiệm tử thi và con phải mua cặp vé máy bay mới. À không, con phải mua một vé mới cho con...” Giọng cô bỗng yếu và nghe lạc lối làm sao. Cô cầm cốc cà phê lên và uống một ngụm dài. “Con không biết phải chôn mẹ ở đâu.”

Giọng ông Wheatley quay lại, lần này nghe thật sắc nhọn. “Gọi cho anh em nhà Durgin ở Lexington. Có một khoảnh đất gia đình để sẵn tên thời con gái của bà ấy. Benson.”

“Thế còn ngôi nhà?”

“Nghe này,” giọng nói trở nên to hơn, “ta không muốn dính líu gì đến vụ này cả. Đã có đủ chuyện đau đầu ở Denver rồi. Đưa cô ấy tới Kentucky để chôn cất, còn ngôi nhà là của con. Chỉ cần trả khoản thế chấp. Con cần tiền không?”

“Con không biết. Đâu biết được sẽ tốn bao nhiêu.”

“Nghe kể con kiếm rất khá. Nhờ vụ thần đồng gì đấy. Con không kêu ai đó lo chi phí được à?”

“Con có thể hỏi quản lí khách sạn.”

“Tốt. Cứ làm thế đi. Ta đang hơi căng với việc tiền nong, nhưng con cứ lấy cái nhà lẫn vốn sở hữu. Hãy gọi cho Ngân hàng Quốc Gia Đệ Nhị và hỏi ông Erlich. E-r-l-i-c-h. Bảo ông ấy rằng ta muốn ngôi nhà thuộc về con. Ông ấy sẽ tự biết cách liên hệ với ta.”

Lại thêm một khoảng lặng nữa. Và rồi bằng giọng điệu mạnh mẽ nhất có thể, Beth hỏi, “Bố không muốn biết vì sao mẹ chết ư?”

“Vì sao thế?”

“Viêm gan, chắc thế. Mai ta sẽ biết.”

“Phải rồi,” ông Wheatley thừa nhận, “bà ấy đúng là ốm đau nhiều.”

⚝ ✽ ⚝

Viên quản lí và bác sĩ đã lo liệu mọi thứ kể cả tiền hoàn vé máy bay của bà Wheatley. Beth phải kí một số giấy tờ miễn trách nhiệm cho khách sạn và điền đơn từ của chính phủ. Một trong số đó ghi “Hải Quan Mĩ - Vận Chuyển Thi Thể.” Người quản lí cũng đã liên lạc được với anh em nhà Durgin ở Lexington. Ngày hôm sau, ông cũng sắp xếp cho trợ lí của mình đưa Beth đến sân bay, trong một chiếc xe tang kín đáo đi qua các cung đường Thành phố Mexico và dọc theo cao tốc. Cô chỉ nhìn cái quan tài kim loại đó duy nhất một lần từ khung cửa sổ phòng chờ hãng bay Trans World Airlines. Dưới ánh mặt trời chói chang, chiếc xe tang chạy đến số 707 ở cổng rồi được vài người đàn ông dỡ xuống. Họ đặt nó lên xe nâng, và cô có thể lờ mờ nghe được tiếng động cơ rền rĩ qua lớp kính khi quan tài được nâng lên độ cao của hầm chứa hàng. Trong một khắc, nó rung lắc trong ánh nắng chói lọi ấy, khiến Beth có một viễn tưởng kinh hoàng rằng nó sẽ rớt khỏi thang và lao xuống đường băng, làm rơi xác người phụ nữ trung niên Wheatley lên trên mặt đường nhựa xám nóng hổi. Nhưng chuyện đó đã không xảy ra. Chiếc quan tài được nhẹ nhàng kéo vào hầm chứa.

Trên máy bay, Beth từ chối đồ uống từ tiếp viên. Khi cô ta quay đi rồi, Beth mở ví và lấy ra một trong những lọ thuốc màu xanh lá cây mới mua. Hôm trước sau khi kí đống giấy tờ, cô đã dành ra hẳn ba tiếng đồng hồ để lượn qua hết thảy hiệu thuốc và mua đến một trăm viên mỗi lọ.

⚝ ✽ ⚝

Lễ tang diễn ra đơn giản và ngắn gọn. Nửa tiếng trước khi bắt đầu, Beth uống bốn viên thuốc xanh lá. Cô ngồi một mình trong nhà thờ, say thuốc và im lặng, trong khi vị mục sư nói những điều mà mục sư nào cũng nói. Trên lễ đài có hoa, và cô hơi ngạc nhiên khi thấy hai người đàn ông khiêng nó xuống ngay khi bài điếu văn kết thúc. Có sáu người đến, nhưng Beth chẳng biết ai trong số họ. Một bà già sau đó đã ôm cô và nói, “Tội nghiệp con quá.”

Chiều đó, khi dỡ xong hành lí, Beth xuống dưới nhà pha chút cà phê. Trong khi đợi nước sôi, cô vào phòng tắm nhỏ ở tầng dưới để rửa mặt, đột nhiên thấy mình đang đứng giữa một rừng màu xanh mà bà Wheatley để lại. Tấm thảm phòng tắm xanh, khăn tắm xanh, cục xà phòng xanh, áo choàng xanh. Bụng cô bùng lên một cảm giác nóng rực và mắt thì đẫm nước. Cô giật cái khăn tắm từ giá treo xuống, áp mặt vào đó nức nở “Ôi Chúa ơi” rồi tựa người vào bồn rửa, khóc rất lâu.

Khi cô vẫn đang lau khô mặt thì điện thoại reo.

Một giọng nam vang lên. “Beth Harmon phải không?”

“Vâng.”

“Harry Beltik đây. Từ Giải đấu Bang.”

“Tôi nhớ.”

“Ừ. Nghe nói em thua Borgov một ván. Tôi muốn gửi lời chia buồn.”

Khi đặt khăn tắm lên lưng chiếc sofa quá khổ, cô thấy một gói thuốc lá dở dang của bà Wheatley trên tay ghế. “Cảm ơn,” cô nói trong khi nhặt gói thuốc lên và giữ chặt nó.

“Em đã chơi gì? Trắng à?”

“Đen.”

“Ồ vậy à?” Và rồi một khoảng lặng. “Có gì không ổn sao?”

“Không có gì.”

“Như thế thì tốt hơn.”

“Cái gì tốt hơn cơ?”

“Thua khi chơi quân đen sẽ đỡ đau hơn.”

“Chắc vậy.”

“Em đã chơi gì? Sicilian?”

Cô nhẹ nhàng đặt gói thuốc trở lại tay ghế. “Ruy Lopez. Về cơ bản, tôi đã cho phép ông ta làm vậy với mình.”

“Sai lầm thật sự,” Beltik nói. “Nghe này, Hè tới tôi sẽ ở Lexington. Em có muốn luyện tập không?”

“Luyện tập?”

“Tôi biết em giỏi hơn tôi. Nhưng nếu em sắp đấu với những kì thủ Nga, em sẽ cần chút trợ giúp đấy.”

“Anh đang ở đâu?”

“Khách sạn Phoenix. Tôi sẽ chuyển sang ở căn hộ từ thứ Năm này.”

Cô nhìn quanh phòng một lúc, nhìn vào chồng tạp chí phụ nữ đang chất trên ghế dài, tấm rèm xanh nhạt buông thõng trên bệ cửa sổ, mấy chiếc đèn gốm quá khổ với lớp giấy kính vẫn còn nguyên, bao quanh ánh sáng vàng của chúng. Cô hít một hơi dài và lặng lẽ thở ra. “Anh có thể qua đây ngay bây giờ”.

Hai mươi phút sau, anh ta đến trên chiếc Chevrolet đời 1955, sơn ngọn lửa đỏ-đen trên thanh chắn bùn và đèn pha thì hỏng. Chiếc xe tấp vào ngay cuối lối đi lát gạch hoa văn. Cô quan sát anh ta từ cửa sổ và đứng đợi sẵn nơi hiên nhà khi anh vừa ra khỏi xe. Anh vẫy tay với cô rồi vòng qua cốp xe. Beltik mặc một chiếc áo sơ mi đỏ và quần dài màu xám, đôi giày thể thao màu ăn rơ với áo. Có vẻ gì đó bí ẩn và liến thoắng ở anh ta, nhưng Beth vẫn còn nhớ rõ hàm răng xấu xí lẫn lối chơi sát phạt ấy và thấy hơi sờ sợ trước cuộc hội ngộ này.

Beltik cúi người nhấc ra từ trong cốp một cái thùng giấy carton trông rõ nặng, hất mớ tóc lòa xòa trước mắt và bước lên lối vào nhà. Cái thùng mở toang, đề chữ HEINZ TOMATO KETCHUP đỏ thẫm. Bên trong chứa đầy sách.

Anh ta đặt nó lên tấm thảm trong phòng khách, thản nhiên lấy mấy cuốn tạp chí của bà Wheatley trên bàn cà phê đem nhét hết lên kệ. Sau đó bắt đầu lấy từng cuốn một ra khỏi thùng, đọc tên và xếp chúng trên bàn. A. L. Deinkopf, Chiến thuật trung cuộc; J. R. Capablanca, Sự nghiệp cờ vua của tôi; Fornaut, những ván đấu của Alekhine 1938 - 1945; Meyer, tàn cuộc xe và tốt.

Một số quyển Beth đã từng đọc qua, một vài quyển khác cô cũng có. Nhưng hầu hết đều mới, chúng trông cứ nặng nề và chán nản kiểu gì. Cô biết có rất nhiều thứ mình cần phải học. Nhưng như Capablanca ấy, gần như chẳng bao giờ học gì cả, chỉ chơi bằng trực giác và năng khiếu thiên bẩm, trong khi các kì thủ dưới cơ như Bogolubov hay Grünfeld lại ghi nhớ nước cờ như những người Đức thích khoe mẽ lí thuyết. Lúc tham gia giải đấu, cô đã nhiều lần thấy các kì thủ ở lại sau trận đấu, ngồi bất động trong chiếc ghế cứng ngắc và không màng gì đến thế giới xung quanh, chỉ chăm chăm tìm hiểu các biến thể khai cuộc, chiến thuật trung cuộc hoặc giả thuyết tàn cuộc. Cứ bất tận như thế. Nhìn Beltik đều đặn lấy ra hết cuốn này đến cuốn khác, cô thấy thật mệt mỏi và mất phương hướng. Beth liếc nhìn ti vi, một phần trong cô muốn bật nó lên và quên đi cờ vua mãi mãi.

“Chương trình đọc mùa Hè của tôi đấy,” Betltik nói.

Cô lắc đầu cáu kỉnh. “Tôi có đọc sách. Nhưng luôn cố gắng chơi bằng trực giác.”

Beltik dừng lại, trên tay đang cầm ba bản sao của Shakhmatni Byulleten mà bìa bên ngoài đã mòn hết cả, rồi cau mày nhìn cô. “Giống như Morphi ấy à,” anh hỏi, “hay Capablanca?”

Cô hơi xấu hổ khi thừa nhận. “Đúng vậy.”

Anh gật đầu rồi xếp chồng báo dưới sàn lại cạnh bàn cà phê.

“Nhưng Capablanca đánh bại được Borgov.”

“Đâu phải mọi ván.”

“Mọi ván quan trọng nhất,” Beltik lấn lướt.

Cô nhìn anh, gương mặt này còn trẻ hơn trong trí nhớ của cô. Nhưng giờ cô đã lớn hơn. Còn anh thì trở thành một thanh niên không biết khoan nhượng, mọi điểm ở anh đều như vậy. “Hẳn anh nghĩ tôi chảnh lắm nhỉ?”

Anh tự cho phép mình nở một nụ cười mỉm. “Chúng ta đều chảnh cả thôi. Đây là cờ vua mà.”

Đêm đó, sau khi đặt đồ ăn làm sẵn vào lò nướng, họ lấy hai bàn cờ và thiết lập chúng theo thế trận tàn cuộc: Anh dùng bàn cờ có các ô vuông màu xanh lá và kem, với những quân cờ nhựa nặng tay, cô thì dùng một bàn cờ gỗ, với những quân cờ làm từ gỗ hồng và phong. Cả hai bộ đều được thiết kế theo kiểu Staunton, một dạng mà hầu hết kì thủ chuyên nghiệp sử dụng. Chiều cao của hai quân vua đều khoảng mười centimet. Cô không mời anh ở lại ăn trưa hay tối, nhưng họ đã ngầm hiểu với nhau. Anh đến cửa hàng tạp hóa cách đó vài con phố để mua thức ăn trong khi cô ngồi nhà, thích thú suy ngẫm về những nước mà quân xe có thể đi, cố tránh phải hòa trong một trận đấu đậm chất lí thuyết như vầy. Khi cô làm bữa trưa, anh ngồi giảng đạo về việc giữ thể chất tốt và ngủ đủ giấc. Anh cũng mua sẵn hai phần ăn đông lạnh cho bữa tối.

“Em phải giữ mình cởi mở,” Beltik thao thao. “Nếu em bị bó buộc vào một ý tưởng thôi, ví dụ con tốt cánh mã vua này đây, thì em chết chắc. Nhìn này...” Cô quay sang bàn cờ anh đặt trên quầy bếp. Anh đứng đó, một tay cầm cốc cà phê, nhíu mày nhìn bàn cờ vua trong khi tay còn lại chống cằm.

“Nhìn cái gì cơ?” cô hỏi, cảm thấy bị đả kích.

Anh đưa tay, nhặt mã trắng và đưa nó băng qua bàn cờ đến ô xe số một cánh vua ở góc dưới bên phải. “Giờ thì tốt xe đã bị ghim.”

“Vậy thì sao?”

“Buộc phải dời vua đi ngay, nếu không sẽ rơi vào thế kẹt.”

“Tôi hiểu,” cô nói, giọng đã nhỏ nhẹ hơn. “Nhưng tôi không thấy...”

“Nhìn đằng này đi, chỗ mấy con tốt cánh hậu đằng này này.” Anh chỉ về phía kia bàn cờ, nơi ba con tốt trắng liên kết với nhau. Cô bước lại gần để nhìn rõ hơn. “Đối thủ có thể làm thế này,” cô nói và chuyển xe đen lên hai ô vuông.

Beltik ngước nhìn cô. “Thử xem.”

“Được thôi.” Cô ngồi xuống sau những quân cờ.

Chỉ với khoảng sáu nước đi, Beltik đã thành công mang tốt tượng cánh hậu lên hàng bảy và dĩ nhiên sẽ phong cấp cho nó. Để trả giá cho chuyện này, Beth phải chịu mất xe và có khi là thua luôn cả ván. Anh ta nói đúng, việc di chuyển vua khi con xe băng ngang bàn cờ là cấp thiết. Cô thừa nhận,“Thôi được, anh đã đúng. Anh tự tìm ra đấy à?”

“Là từ Alekhine,” anh nói. “Nhờ đọc sách đấy.”

Beltik trở về khách sạn sau nửa đêm, còn Beth thức nhiều giờ liền để đọc quyển sách về trung cuộc trong ván cờ, dùng trí tưởng tượng để vẽ ra thế trận. Có một chuyện nữa khiến cô phiền lòng dù đã cố không bận tâm: Cô không thể hình dung ra những quân cờ dễ dàng như hồi tám, chín tuổi nữa. Tất nhiên vẫn được nhưng khó khăn hơn nhiều, và đôi khi cô không thể chắc chắn vị trí của tốt hay tượng, buộc phải truy vết lại để kiểm tra. Ngồi trên ghế bành cũ kĩ trước ti vi của bà Wheatley, trong bộ quần jeans áo phông, Beth chơi đi chơi lại thâu đêm chỉ bằng một quyển sách và tâm trí của mình. Thỉnh thoảng, cô lại chớp mắt và nhìn quanh, những mong lại được thấy bà Wheatley ngồi ngay cạnh với đôi tất chân cuộn xuống tận mắt cá, cùng đôi giày cao gót đen lăn lóc trên sàn.

Beltik quay lại lúc chín giờ sáng hôm sau với hơn nửa tá sách nữa. Họ cùng uống cà phê và chơi vài ván cờ nhanh năm phút trên quầy bếp. Beth thắng tất, đầy quyết đoán, nhưng sau trận thứ năm thì Beltik nhìn cô và lắc đầu. “Harmon, em chơi rất hay. Nhưng em vẫn đang ứng biến.”

Cô nhìn anh chằm chằm. “Anh nói cái quái gì vậy, tôi vừa hạ anh cả năm ván đấy.”

Từ bên kia bàn, anh lạnh lùng nhìn cô và nhấp một ngụm cà phê. “Tôi là một Kiện Tướng, và tôi chưa từng chơi khá hơn trong đời mình. Nhưng tôi chắc chắn kém xa cái người em sẽ chạm trán ở Paris.”

“Nỗ lực chút nữa là tôi sẽ thắng được Borgov.”

“Nỗ lực nhiều chút nữa em mới thắng nổi Borgov. Nỗ lực nhiều năm trời nữa. Em nghĩ ông ta là ai chứ? Một cựu vô địch bang Kentucky như tôi?”

“Vô địch Thế giới. Nhưng...”

“Thôi nào, ngưng lại đi!” Beltik thốt lên. “Borgov có thể dễ dàng đánh bại cả hai ta khi mới mười tuổi. Em biết về sự nghiệp của ông ta chứ?”

Beth nhìn anh. “Không, tôi không biết.”

Beltik đứng dậy và đi vào phòng khách. Anh lôi ra từ chồng sách cạnh bàn cờ của Beth một cuốn đóng bìa màu xanh, mang vào bếp và ném xuống trước mặt cô. Vasili Borgov: Đời tôi với cờ vua . “Tối nay đọc đi,” anh dặn. “Đọc về các ván ở Leningrad năm 1962, xem cách ông ta chơi tàn cuộc xe-tốt. Xem các trận đấu với Luchenko và Spassky nữa.” Anh cầm cốc cà phê sắp cạn của mình. “Em có thể học được vài thứ đấy.”

⚝ ✽ ⚝

Đó là tuần đầu tiên của tháng Sáu. Ngay ngoài cửa sổ nhà bếp, cây hoa mộc qua nở rộ một màu san hô rực rỡ. Hoa đỗ quyên của bà Wheatley cũng bắt đầu bung nở, còn cỏ thì đã đến lúc cần cắt. Thậm chí còn có cả chim nữa. Một tuần tuyệt đẹp trong mùa Xuân đẹp nhất ở Kentucky.

Thỉnh thoảng vào đêm muộn sau khi Beltik rời đi, Beth sẽ ra sân sau để cảm nhận hơi ấm vương trên má và hít đầy một hơi bầu không khí trong lành ấm áp ấy. Nhưng trừ lúc đó ra, thời gian còn lại Beth hoàn toàn bỏ lơ thế giới ngoài kia. Giờ đây cô đã bị cuốn vào cờ vua theo một cách thật mới. Trên đầu giường, thuốc an thần mua từ Mexico vẫn chưa được đụng đến, mấy lon bia vẫn còn nguyên đai trong tủ lạnh. Sau vài phút đứng ở sân sau, cô sẽ vào nhà và dành hàng giờ liền để đọc mấy cuốn sách về cờ vua của Beltik, rồi cuối cùng lên lầu, mệt mỏi lăn đùng ra giường.

Chiều thứ Năm, Beltik đột nhiên nói, “Ngày mai tôi phải chuyển sang căn hộ ở thôi. Hóa đơn khách sạn mắc chết người.”

Họ đang chơi dở Phòng thủ Benoni. Cô vừa thực hành thế P-K5 anh dạy, chính xác là ở nước đi thứ tám, một nước đi bắt nguồn từ kì thủ có tên Mikenas theo như lời Beltik nói. Cô rời mắt khỏi thế trận. “Căn hộ đó ở đâu?”

“Đường New Circle. Chắc tôi sẽ không đến thường xuyên được nữa.”

“Chỗ đó cũng đâu cách xa đây lắm.”

“Không xa. Nhưng tôi phải đi học vài lớp. Cũng nên kiếm việc làm thêm nữa.”

“Anh có thể chuyển đến đây,” cô ngỏ lời. “Miễn phí.”

Anh nhìn cô một lúc và mỉm cười. Răng của anh cũng không tệ như cô nhớ. “Tôi cứ nghĩ em sẽ chẳng bao giờ mời chứ.”

⚝ ✽ ⚝

Đã rất lâu rồi cô mới lại đắm chìm vào cờ vua thế này. Beltik đi học ba lớp chiều và hai lớp sáng mỗi tuần, còn cô dành thời gian đó để nghiên cứu sách anh cho. Cô dùng trí tưởng tượng chơi hết ván này đến ván khác, tìm hiểu các biến thể mới, nhìn vào những kiểu dạng khác nhau trong tấn công và phòng thủ, đôi khi lại cắn trúng môi khi tìm ra được một nước đi ăn tiền hoặc một thế trận tinh vi nào đó, nhưng lắm lúc cũng mệt mỏi trước sự bất tận đến vô vọng của cờ vua, hết nước đi này đến nước đi khác, cứ đe dọa rồi lại đe dọa, sự phức hợp cứ thế chồng lên nhau. Cô từng nghe về mã gen di truyền có thể tạo nên mắt hoặc tay người bằng việc trao đổi protein. Axit deoxyribonucleic. Nó chứa toàn bộ những chỉ dẫn để xây nên hệ hô hấp và tiêu hóa, cho đến cái nắm tay của trẻ sơ sinh. Cờ vua cũng thế. Vị trí của một thế trận có thể được đọc đi đọc lại mà không bao giờ cạn kiệt khả năng phát sinh. Ta có thể nhìn sâu vào một lớp cắt của vấn đề, nhưng sẽ luôn có một lớp khác ẩn sâu hơn, và cứ thêm nhiều lớp khác nữa.

Còn tình dục tuy mang tiếng là rất phức tạp, nhưng hóa ra lại vô cùng đơn giản. Ít nhất là đối với Beth và Harry. Họ lên giường với nhau vào đêm thứ hai anh chuyển đến nhà cô. Chuyện kéo dài chừng mười phút và được điểm xuyết bởi vài hơi thở hổn hển. Cô không đạt cực khoái, còn anh thì bị kiềm lại. Sau đó anh về giường của mình vốn là phòng cũ của cô, còn cô thì ngủ ngon lành, chìm vào giấc mộng của những đòn phản công trên bàn cờ gỗ thay vì tình yêu. Sáng hôm sau họ chơi cờ vào bữa sáng, những đòn phối hợp cứ thế nảy mầm từ ngón tay cô và vươn ra khắp bàn cờ như một bông hoa đẹp đẽ. Cô đánh bại Beltik cả bốn ván cờ nhanh, nhường anh chơi quân trắng và còn chẳng thèm nhìn đến bàn cờ.

Trong lúc rửa bát, anh kể về Philidor, một trong những người hùng của mình. Philidor là một nhạc sĩ người Pháp, đồng thời là kì thủ cờ vua nổi danh với màn chơi cờ mù bịt mắt ở Paris và London.

“Đôi khi đọc về những kì thủ ngày xưa, tôi cứ thấy mọi thứ lạ lẫm làm sao,” cô bộc bạch. “Thật khó để tin rằng đó là cờ vua.”

“Đừng vội phán xét,” Beltik nhướng mày. “Bent Larsen luôn chơi Phòng thủ Philidor đấy.”

“Thế đó quá tù túng. Tượng cánh vua bị khóa cả lại.”

“Cũng đúng,” anh phản đối. “Nhưng điều mà tôi đang định kể là Diderot từng viết cho Philidor một lá thư. Em biết Diderot chứ?”

“Cuộc Cách mạng Pháp à?”

“Ừ. Philidor chơi cờ mù liên tục trong các trận diễn đấu đến khi đầu óc phát nổ, hoặc gì đó tương tự mà họ hay gán cho người khác ở thế kỉ mười tám. Diderot đã viết cho ông ta và nói thế này: ‘Thật là ngu ngốc khi mạo hiểm để mình phát điên để đổi lại chút phù hoa.’ Thỉnh thoảng tôi lại nhớ về câu nói ấy mỗi khi thấy mình ngồi mòn mông phân tích bàn cờ.” Rồi anh lặng lẽ nhìn cô một giây và nói, “Đêm qua thật tuyệt.”

Beth có cảm giác như anh đang cố cứu vớt cái đêm nhạt nhẽo hôm qua, điều đó làm cô bối rối. Cô đánh trống lảng, “Không phải Koltanowski cũng chơi cờ mù suốt đấy sao? Nhưng ông ấy đâu có phát điên.”

“Ừ. Morphi mới là người đã phát điên. Cả Steinitz nữa. Morphi luôn nghi ngờ người ta ăn trộm giày của ổng.”

“Có lẽ ông ấy tưởng mấy chiếc giày đó là quân tượng.”

“Chắc vậy,” anh tán đồng. “Ta chơi cờ nào.”

⚝ ✽ ⚝

Đến cuối tuần thứ ba, cô đã xem qua bốn chồng báo Shakhmatni và gần hết các thùng sách của Beltik. Một ngày nọ, sau khi anh trở về từ lớp đào tạo kĩ sư buổi sáng, họ cùng nhau nghiên cứu một thế trận. Cô đang cố gắng giải thích cho anh vì sao một nước đi của mã lại mạnh hơn so với thoạt nhìn.

“Nhìn này,” cô nói và bắt đầu di chuyển các quân xung quanh thật nhanh. “Mã ăn quân và đối phương phải lên tốt. Tốt mà không lên, tượng sẽ bị khóa chặt. Khi tốt lên thì con tốt khác sẽ bị hạ. Xong.” Rồi cô nhặt lấy quân tốt.

“Tượng còn lại bên này thì sao?”

“Ôi Chúa ơi,” cô thốt lên. “Tốt đi rồi thì tôi sẽ chiếu và đổi mã. Anh không thấy à?”

Anh hơi sững người. “Không. Tôi không thể thấy nhanh vậy.”

Một cách lạnh lùng, cô ngước lên và đáp. “Ước gì anh có thể.”

“Em quá sắc bén so với tôi.”

Cô có thể thấy sự tổn thương đang nén dưới cơn giận ấy nên liền dịu giọng. “Thỉnh thoảng tôi cũng không nhìn ra mà.”

Anh lắc đầu. “Không đâu, em không bị như vậy. Không còn nữa.”

⚝ ✽ ⚝

Vào thứ Bảy, cô bắt đầu chơi nhường anh một quân mã. Dù cố tỏ ra bình thường, cô vẫn thấy rõ là anh ghét cay việc này. Chẳng có cách nào để họ chơi một trận thực sự cả. Bởi kể cả khi đã nhường quân và để anh chơi trắng, cô vẫn hạ anh hai ván và hòa một.

Đêm đó anh không tìm đến giường cô, đêm sau nữa cũng vậy. Beth không nhớ chuyện ân ái mấy, nó không thật sự có ý nghĩa với cô, nhưng cô nhớ nhung điều gì đó khác. Giấc ngủ bồn chồn hơn vào đêm thứ hai và cô giật mình dậy lúc hai giờ sáng. Beth mở tủ lạnh lấy một lon bia của bà Wheatley, sau đó ngồi xuống trước bàn cờ và chậm rãi di chuyển các quân trong lúc nhấm nháp lon bia. Cô chơi qua vài ván Khai cuộc Gambit Hậu: Alekhine - Yates; Tarrasch - von Scheve; Lasker - Tarrasch. Ván đầu tiên là cô nhớ được từ quyển sách ở tiệm Morris mấy năm trước, hai ván còn lại thì phân tích cùng Beltik trong tuần đầu tiên anh ở lại đây. Ở ván cuối, tốt đã di chuyển tuyệt đẹp và đáp xuống ô xe bốn cánh hậu ở nước đi thứ mười lăm, đẹp chết người theo cái cách tuyệt nhất mà một quân tốt có thể đi. Cô để nó ở đó suốt lúc uống lon bia thứ hai và cứ ngắm nghía mãi. Đêm khá oi và cửa sổ bếp đang mở toang, bướm đêm lạch tạch lao vào cửa kính và xa xa đâu đó có tiếng chó sủa. Beth ngồi ở bàn, khoác chiếc áo choàng nhung hồng của bà Wheatley, uống lon bia của bà ấy, cảm thấy thật thư thái và dễ chịu. Cô thấy vui khi được ở một mình. Trong tủ lạnh còn ba lon bia nữa, cô uống hết sau đó về giường đánh một giấc ngon lành đến chín giờ sáng.

⚝ ✽ ⚝

Đến sáng thứ Hai, anh đột ngột nói, “Beth này, tôi đã dạy em mọi điều tôi biết rồi.”

Cô định nói gì đó nhưng cuối cùng im lặng.

“Tôi phải bắt đầu việc học. Tôi phải thành một kĩ sư điện chứ không phải một con mọt cờ vua.”

“Được thôi,” cô nói. “Nhưng anh đã dạy cho tôi rất nhiều thứ đấy.”

Họ im lặng trong vài phút. Cô ăn hết trứng và mang đĩa của mình đến bồn rửa. “Tôi sẽ chuyển đến căn hộ đó,” Beltik nói. “Nó gần trường đại học hơn.”

“O.K.” Beth ậm ừ, không ngoái đầu lại.

Anh rời đi vào giữa trưa. Cô lấy một phần đồ ăn sẵn từ tủ đông để ăn trưa, nhưng lại không bật lò nướng. Chỉ có một mình trong nhà, cô thấy dạ dày mình quặn thắt và chẳng có nơi nào để đi. Không bộ phim nào cô muốn xem, chẳng có ai cô muốn gọi, và không quyển sách nào cô buồn đọc. Beth lên lầu, bước ngang qua hai phòng ngủ. Váy của bà Wheatley vẫn được treo trong tủ quần áo, thuốc an thần cũng còn nguyên trên đầu tủ cạnh chiếc giường bừa bộn. Sự căng thẳng không chịu rời bỏ Beth. Bà Wheatley đã qua đời, đang nằm đâu đó ở nghĩa trang ngoài rìa thị trấn, và Harry Beltik đã lái xe đi mất, mang theo bàn cờ cùng những quyển sách của anh, thậm chí còn không vẫy tay chào. Trong một giây phút, cô đã muốn thét lên kêu anh ở lại với mình, nhưng cuối cùng đã lặng im nhìn anh đi xuống bậc thềm và bước vào xe. Beth lấy lọ thuốc trên tủ đầu giường, lắc ra ba viên màu xanh lá, rồi thêm một viên nữa. Cô ghét ở một mình. Cô nuốt bốn viên thuốc mà không cần uống nước, như cái cách vẫn thường làm hồi còn bé.

Đến chiều, Beth mua cho mình một miếng bít tết và một phần khoai tây nướng lớn ở tiệm Kroger. Trước khi đẩy xe đến quầy tính tiền, cô đến quầy rượu bia và lấy năm chai vang đỏ. Tối đó, cô nằm xem ti vi trong bộ dạng say khướt và ngủ luôn trên ghế sofa, gom chút sức lực cuối cùng để rướn người tắt màn hình.

Đôi khi giữa đêm, Beth thức giấc với cảm giác căn phòng đang quay cuồng. Cô nôn thốc nôn tháo. Nhưng sau đó khi lên lầu đi ngủ, cô lại thấy tỉnh rụi và đầu óc thì hoàn toàn rõ nét. Dạ dày có nóng rát khó chịu, mắt mở to giữa căn phòng tối tăm như thể đang cố tìm chút ánh sáng. Sau gáy dậy lên một cơn đau dữ dội. Thế là cô với tay tìm lọ thuốc, uống thêm mấy viên nữa, rồi lại rơi vào giấc ngủ vùi.

Beth thức dậy sáng hôm sau với cơn đau đầu như búa bổ cùng một quyết tâm tiếp tục sự nghiệp. Bà Wheatley đã chết. Harry Beltik cũng đã đi. Và Giải Vô Địch Mĩ sẽ diễn ra trong ba tuần nữa. Cô đã được mời tham dự trước cả chuyến đi đến Mexico, lần này nếu muốn giành chiến thắng, cô sẽ phải đánh bại Benny Watts. Trong khi đợi lọc cà phê trong bếp, Beth đổ bỏ chỗ rượu vang đỏ còn lại từ đêm trước, ném chai rỗng đi và lôi ra hai quyển sách tìm được trong hiệu Morris vào cái ngày thư mời tham dự gửi đến. Một là quyển tường thuật các trận đấu từ Giải Vô Địch Mĩ năm trước, hai là quyển Benny Watts: Năm mươi ván đỉnh nhất của tôi. Trên bìa sách bám bụi là khuôn mặt tựa như Huckleberry Finn của anh ta. Nhìn lại gương mặt ấy, Beth cau mày vì kí ức trận thua lũ lượt ùa về, kí ức về sự nỗ lực ngu ngốc chết tiệt của cô để chồng đôi tốt. Cô rót cho mình một cốc cà phê và giở sách ra, hoàn toàn quên bẵng cơn đau đớn sau say của mình.

Đến trưa, cô đã phân tích được sáu trận cờ và đang thấy đói cồn cào. Cách hai con phố có một nhà hàng nhỏ, kiểu nhà hàng có mấy món như gan kèm hành tây trong thực đơn, trên quầy thu ngân thì trưng bày đủ loại hộp quẹt lửa. Cô mang sách của Benny Watts theo, tranh thủ chơi thêm được hai ván nữa trong khi thưởng thức đĩa hamburger kèm khoai chiên nhà làm. Khi món bánh chanh được mang ra nhưng lại quá đặc và ngọt, cô chợt thấy nhớ bà Wheatley cũng như thèm mấy món tráng miệng kiểu Pháp mà họ đã ăn ở Cincinnati và Houston. Cô lắc đầu rũ bỏ những kí ức ấy, gọi tách cà phê cuối cùng và kết thúc ván cờ dang dở: Phòng thủ King Indian, với tượng đen phát triển về hướng góc trên tay phải của bàn cờ, canh me đường chéo để chờ cơ hội vồ lấy quân đối phương. Quân đen chủ yếu chơi cánh vua trong khi trắng lại theo cánh hậu sau khi tượng đi vào góc. Thật văn minh làm sao. Trong sách, Benny dù là chơi quân đen cũng đã dễ dàng chiến thắng.

Cô trả bằng ngân phiếu rồi rời đi. Suốt cả ngày lẫn đêm cho đến tận một giờ sáng hôm sau, cô đã chơi qua hết tất cả các trận đấu trong sách. Đến đó, cô đã hiểu nhiều về Benny Watts và lối cờ vua chuẩn xác nhiều hơn gấp bội. Cô uống hai viên thuốc an thần Mexico, chìm ngay vào giấc ngủ rồi tỉnh dậy với cảm giác khoan khoái vào chín rưỡi sáng. Trong lúc chờ trứng sôi, cô lôi ra quyển Paul Morphi và Kỉ nguyên vàng của cờ vua . Quyển này khá xưa, về nhiều mặt thì đã lỗi thời. Các biểu đồ lem màu mực xám và hơi lộn xộn, khó mà phân biệt các quân đen quân trắng. Thế nhưng chỉ cần cái tên Paul Morphi thôi cũng đã đủ sức khiến cô rùng mình, cùng với ý nghĩ về một thần đồng kì lạ ở New Orleans, xuất thân vọng tộc, là luật sư và là con của thẩm phán tòa án tối cao, người đã khiến cả thế giới kinh ngạc từ khi còn rất trẻ bởi tài năng cờ vua của mình nhưng sau đó lại đập bỏ tất cả, gạt phăng sự nghiệp mà rơi vào những cơn lảm nhảm hoang tưởng cho đến hết cuộc đời ngắn ngủi. Khi Morphi chơi Khai cuộc Gambit Vua, ông sẽ thí mã và tượng, sau đó áp sát vua đen với tốc độ chóng mặt. Cả trước đó lẫn sau này đều không có ai như ông ấy. Chỉ cần mở quyển sách, cột sống của Beth đã tê rần trước danh sách các trận đấu: Morphi - Lowenthal; Morphi - Harrwitz; Morphi - Anderssen, theo cùng với ngày tháng trải dài những năm một tám năm mươi. Trước mỗi trận đấu ở Paris, Morphi sẽ thức cả đêm trong quán cà phê và bắt chuyện với những người lạ, để rồi ngày hôm sau sẽ chơi như một con cá mập bén ngót, vô cùng lịch lãm, ăn vận phẳng phiu với nụ cười duyên dáng, di chuyển những con cờ nặng nề với đôi bàn tay nhỏ nhắn và làn da mỏng đến nổi cả gân xanh. Nhưng chính đôi tay mỏng manh như phụ nữ đó đã nghiền nát không biết bao nhiêu Kiện Tướng châu Âu. Có người từng gọi ông là “Niềm tự hào và nỗi sầu muộn của cờ vua”. Giá như ông và Capablanca sống cùng thời và chơi với nhau nhỉ! Cô bắt đầu xem một trận đấu khác giữa Morphi với người tên Paulsen vào năm 1857. Giải Vô Địch Mĩ sẽ diễn ra trong ba tuần nữa, đã đến lúc một nữ nhân ngồi vào chiếc ghế này. Đó là lúc mà cô trở thành đương kim vô địch.