CHƯƠNG 13
Không tìm thấy tên Jolene trong danh bạ Lexington. Beth cũng đã tìm cả Louisville và Frankfort, nhưng không có cái tên nào là Jolene DeWitt. Có lẽ chị ấy đã kết hôn và đổi tên. Cũng có thể chị ấy ở đâu đó như Chicago hay Kondike cũng nên. Hai người đã bặt vô âm tín từ ngày Beth rời Methuen. Giờ nếu muốn tìm đến nơi đến chốn, chỉ còn có một cách: Hồ sơ nhận con nuôi nằm trong ngăn tủ của bà Wheatley. Cô lôi tập hồ sơ ra và tìm thấy một lá thư với cái tên Methuen cùng dòng khẩu hiệu được in mực đỏ trên góc. Có cả số điện thoại. Beth bồn chồn ôm phong thư rõ lâu. Phía góc dưới là một dòng kí tay gọn gàng nhỏ nhắn: Helen Deardorff, Hiệu Trưởng.
Đã gần trưa nhưng Beth vẫn chưa đụng đến ly rượu nào. Trong thoáng chốc, cô nghĩ đến việc ổn định tâm trí với chút Gibson, nhưng rồi cũng tự nhận ra sự xuẩn ngốc trong ý nghĩ ấy. Một chút Gibson lúc này thôi cũng đủ đặt dấu chấm hết cho nỗ lực vực dậy của Beth. Dù nghiện rượu thật đấy, nhưng cô không phải con ngốc. Cô đành lên lầu và uống hai viên Librium Mexico, đợi cho căng thẳng dịu xuống rồi bước ra khu vườn đã được cậu nhóc ủi cỏ sạch sẽ vào hôm trước. Hoa hồng trà cuối cùng cũng đã nở bung. Cánh hoa rơi rụng gần hết, để lại dưới gốc cuống vài chiếc nụ hình cầu như đang bầu bí. Cô chưa bao giờ để mắt đến mấy gốc hồng trà này lúc chúng nở rộ vào tháng Sáu và Bảy.
Khi trở lại bếp, cô đã thấy vững vàng hơn đôi chút. Thuốc đã ngấm. Bao nhiêu tế bào não đã bị chúng tiêu diệt với mỗi miligram thuốc nhỉ? Chắc không thể tệ bằng rượu được. Cô tiến vào phòng khách và nhấc điện thoại lên gọi Methuen.
Tổng đài cho cô vào chế độ chờ. Beth với lấy lọ thuốc, lắc ra thêm một viên nữa và nuốt chửng. Cuối cùng thì một giọng nói cũng vang lên trong ống nghe, sắc bén đến hoảng hồn. “Helen Deardorff nghe đây.”
Trong thoáng chốc Beth nghẹn cả họng. Cô chỉ muốn cúp máy. Nhưng rồi cô hít sâu và lên tiếng, “Cô Deardorff, là con đây, Beth Harmon.”
“Thật sao?” Giọng nói nghe rất đỗi ngạc nhiên.
“Vâng.”
“Ôi chà.” Quãng lặng dài theo sau đó cho Beth biết cô Deardorff chẳng biết phải nói gì. Cô cũng đang bối rối vì cuộc gọi này như Beth vậy. “Chà,” cuối cùng thì cô ấy cũng mở lời, “chúng ta đọc về con suốt đấy.”
“Bác Shaibel sao rồi ạ?”
“Bác Shaibel vẫn ở cùng mái ấm thôi. Con gọi vì chuyện này à?”
“Con gọi vì Jolene Dewitt. Con muốn liên lạc với chị ấy.”
“Ta xin lỗi. Methuen không thể tiết lộ địa chỉ hay số điện thoại của những trẻ em mà chúng ta chịu trách nhiệm.” Cô Deardorff đáp.
“Cô Deardorff,” giọng Beth như muốn vỡ ra trong mớ cảm xúc hỗn độn. “Cô Deardorff ơi, hãy giúp con việc này đi mà. Con rất cần được nói chuyện với chị ấy.”
“Nhưng luật pháp...”
“Xin cô đấy, cô Deardorff.” Beth van nài.
Giọng cô Deardorff bỗng đổi sang một tông khác. “Thôi được, Elizabeth. DeWitt sống ở Lexington. Số điện thoại em ấy đây.”
⚝ ✽ ⚝
“Trời đất ơi!” Jolene hét lên trong điện thoại. “Ôi thánh thần thiên địa ơi!”
“Chị sao rồi, Jolene?” Beth như muốn khóc nấc, nhưng cô ráng giữ giọng mình không run.
Jolene vẫn không ngừng cười lớn. “Lạy Chúa! Nhóc ơi, thật quá tốt khi được nghe giọng em. Em còn xấu gái không vậy?”
“Chị còn da đen không?”
“Chị giờ là một quí cô da đen rồi nhé,” Jolene lém lỉnh. “Còn em thì rõ là đã hết xấu rồi. Chị thấy em trên tạp chí còn nhiều hơn Barbra Streisand. Cô bạn nổi tiếng của tôi ạ.”
“Sao chị chẳng bao giờ gọi em?”
“GATO chứ còn gì.”
“Jolene này,” Beth ngại ngùng, “cuối cùng chị có được nhận nuôi không?”
“Khỉ gió, làm gì có. Chị tốt nghiệp từ cái nơi đó. Thế quái nào mà cưng không gửi nổi cho chị một tấm thiệp hay thậm chí một hộp bánh qui vậy?”
“Tối nay em đãi chị ăn nhé. Chị đến quán Toby ở Đường Chính lúc bảy giờ được không?”
“O.K cưng, chị sẽ cắt bớt một tiết học,” Jolene đồng ý. “Khỉ thật. Em là Vô Địch Mĩ ở bộ môn cờ vua huyền thoại. Một nhà vô địch thực thụ đấy.”
“Em đang muốn nói về chuyện đó đây.” Beth ỉu xìu.
Lúc họ gặp được nhau ở quán Toby, nỗi phấn khích trong Beth cũng không còn nhiều. Beth đã trải qua cả ngày dài mà không có lấy một giọt rượu, đi cắt tóc ở tiệm Roberta và lau dọn xong nhà bếp. Niềm hân hoan khi được nói chuyện lại với Jolene cũng đã vơi đi. Cô đến Toby sớm mười lăm phút, hồi hộp từ chối một lời mời phục vụ rượu từ người bồi bàn. Beth ngoan ngoãn ngồi cùng một chai Coca trước mặt và chờ Jolene đến.
Ban đầu Beth còn không nhận ra chị ấy. Người phụ nữ trong bộ vest có vẻ là từ nhà mốt Coco Chanel và một mái tóc Afro to chảng đang bước đến trông mới cao ráo làm sao, đến mức Beth chẳng thể tin đó là Jolene. Trông cô ấy như một ngôi sao màn bạc, một công chúa rock-and-roll, đầy đặn hơn cả Diana Ross và ngầu như thể Lena Horne vậy. Nhưng khi đã nhận ra đó đúng là Jolene nhờ nụ cười và đôi mắt quen thuộc trong kí ức, Beth ngượng ngùng đứng dậy và ôm chầm lấy chị. Mùi nước hoa của Jolene thật nồng. Beth cảm nhận rõ sự khác biệt của mình. Jolene vỗ về lưng Beth trong cái ôm và thỏ thẻ, “Beth Harmon. Nàng Beth trưởng thành đây rồi.”
Họ ngồi xuống, nét ngượng ngùng vẫn còn trong ánh mắt. Beth quyết định mình cần một ly gì đó để có thể ngồi hết đêm nay. Nhưng rồi người phục vụ đến, kịp thời phá vỡ sự im lặng. Jolene kêu một lon soda, và Beth cũng gọi cho mình một chai Coca nữa.
Jolene đặt một bìa hồ sơ giấy nâu lên bàn. Khi tháo phong bì ra, Beth nhận ra ngay quyển sách trong ấy. Khai cuộc cờ vua hiện đại . Chính là quyển sách cũ sờn của cô xưa kia.
“Chính chị đây chôm nó đấy, để trả đũa vụ em được nhận nuôi.” Jolene thú tội.
Beth nhăn mặt, lật quyển sách ra đến trang bìa. Vẫn dòng chữ trẻ con ấy: “Elizabeth Harmon, Mái ấm Methuen.” Beth nhắc lại, “Còn vụ em là da trắng thì sao?”
“Cũng chưa bao giờ hết ghim đâu nhé.”
Beth ngắm nhìn gương mặt đẹp đẽ của Jolene với mái tóc ấn tượng, hàng mi đen rậm và đôi môi dày. Sự tự ti trong Beth biến mất và thay vào đó là một nỗi nhẹ lòng đơn sơ. Cô cười tươi và nói, “Thật tốt khi được gặp lại chị,” trong khi thực sự lòng cô vang lên ba chữ, “Em yêu chị.”
Suốt nửa đầu của bữa ăn, Jolene kể chuyện về Methuen, về chuyện chị ấy đã ngủ gục suốt những giờ học giáo lí và ghét cay đồ ăn ở đó, về thầy Schell, cô Graham và những bộ phim đạo vào mỗi thứ Bảy. Chị ấy mới buồn cười làm sao mỗi khi đụng đến chủ đề Deardorff, nhái theo tông giọng cứng ngắc và cái hất đầu kinh điển của bà cô ấy. Đã lâu lắm rồi Beth mới được cười nhiều như vậy, cô cũng chưa từng cảm thấy dễ chịu với ai đến mức này, ngay cả bà Wheatley. Jolene gọi một ly rượu trắng kèm với món thịt bê còn Beth lưỡng lự đôi chút trước khi gọi thêm nước lọc.
“Em chưa đủ tuổi hay sao?” Jolene nhìn ra được sự lưỡng lự ấy.
“Không phải. Em mười tám rồi.”
Jolene nhướn mày, rồi chẳng nói chẳng rằng quay lại với món bê. Sau vài giây thì chị lại bắt đầu liến thoắng. “Sau khi em cất cánh đến ngôi nhà hạnh phúc của mình, chị bắt đầu chơi bóng chuyền một cách nghiêm túc. Rồi chị tốt nghiệp lúc mười tám tuổi và được trường đại học cấp cho một suất học bổng ngành Giáo dục Thể chất.”
“Chị thích không?”
“Cũng tạm,” Jolene nói nhanh. Nhưng rồi chị xả một tràng, “Khỉ thật, dĩ nhiên là không rồi. Thật nhảm nhí. Chị đâu muốn trở thành một đứa huấn luyện viên thể hình.”
“Chị có thể làm thứ khác mà.”
Jolene buồn bã lắc đầu. “Chị không nhận ra điều đó cho đến khi tốt nghiệp hồi năm ngoái.” Từ nãy giờ chị ấy vừa nói vừa nhồm nhoàm thức ăn, nhưng giờ thì đã nuốt xong và trầm ngâm chống cùi chỏ lên bàn. “Đáng lẽ chị nên theo học luật hay hành chính gì đấy. Thời này đang rất hợp cho những đứa như chị, thế mà chị lại lãng phí thời gian vào động tác bật nhảy và các múi cơ chính vùng khoang dưới ngực.” Càng lúc giọng chị ấy càng hằn học. “Chị là người da đen. Và là cô nhi. Đáng lẽ chị phải ở Harvard. Đáng lẽ chị phải xuất hiện trên tờ Time như em vậy.”
“Chị sẽ trông rất tuyệt bên cạnh Barbara Walters, ngồi đó và nói về sự thiếu thốn cảm xúc của trẻ mồ côi.”
Jolene tán đồng. “Chứ gì nữa. Chị sẽ rất vui lòng ‘bốc phốt’ Helen Deardroff và đống thuốc an thần của bà ta.”
Beth ngập ngừng một lát. “Chị còn uống chúng chứ?”
Jolene cười lớn, “Không, dĩ nhiên là không. Chị chẳng bao giờ quên được cảnh em khui hàng cái lọ đầy nhóc thuốc ấy. Ngay giữa phòng Đa năng, trước mặt toàn bộ cái mái ấm chết tiệt. Mụ Helen già thì như chết đứng đến nơi, còn đám nhóc thì muốn rớt luôn cả hàm.” Tràng cười của chị ấy vẫn không dừng lại. “Vụ đó biến em thành người hùng. Chị ‘truyền bá’ em khắp nơi cho những đứa vào sau.” Jolene đã ăn xong bữa, thoải mái dựa lưng ra ghế và đẩy chiếc đĩa không về giữa bàn. Rồi chị ấy lấy ra một gói Kents từ túi áo và nhìn nó trong giây lát. “Khi ảnh của em được in trên tờ Life , chính chị đã ghim nó lên bảng tin. Theo như chị biết thì nó vẫn còn ở đó.” Jolene đốt điếu thuốc bằng chiếc hộp quẹt nhỏ xinh màu đen, rít một hơi sâu. “‘ Mozart Phiên Bản Nữ Làm Sửng Sốt Thế Giới Cờ Vua ’. Ối chà chà.”
“Em vẫn còn dùng thuốc. Hơi bị nhiều.” Beth thú tội.
“Trời ạ, đứa nhóc tội nghiệp này,” Jolene nói một cách chua xót, mắt vẫn nhìn điếu thuốc.
Beth im lặng một lúc. Sự im lặng thật như thể sờ chạm được. Rồi cô cũng lên tiếng, “Ăn tráng miệng thôi.”
“Bánh kem xốp sô cô la,” Jolene nói ngay. Trong lúc họ nhâm nhi tráng miệng, chị ấy nhìn sang Beth và nói, “Trông em không ổn, Beth ạ. Người em trông sưng lắm.” Beth gật đầu tán thành và ăn nốt chỗ kem xốp của mình.
Jolene đưa Beth về trên chiếc VW bạc của mình. Khi đến đường Jan-well, Beth nói, “Vào chơi một lát nhé. Em cho chị xem nhà của em.”
“Được thôi,” Jolene gật đầu. Beth chỉ cho Jolene chỗ tấp, và chị ấy há hốc mồm, “Cả căn nhà này thuộc về em hả?”. “Vâng,” Beth đáp.
Chị ấy cười lớn. “Em mà là cô nhi gì chứ. Không còn nữa đâu.”
Nhưng khi họ bước vào lối đi nhỏ bên kia cánh cửa chính, một mùi ẩm thấp thối rữa xộc lên. Beth chưa từng để ý đến nó trước đây. Sự im lặng xấu hổ lan tỏa khi Beth bật đèn phòng khách lên và nhìn quanh. Cô cũng chưa từng để ý đến vết bụi dày đang đóng trên ti vi hay những vết ố trên chiếc ghế gỗ đựng dụng cụ. Góc phòng nơi cầu thang thì giăng đầy mạng nhện. Vẻ tối tăm và mốc meo bao trùm cả ngôi nhà.
Jolene đảo mắt một vòng, “Có vẻ như em uống nhiều thứ hơn là thuốc đấy, cưng à.”
“Ừ, em có uống rượu.”
“Chắc rồi.”
Beth pha cà phê cho cả hai. Ít nhất thì sàn nhà bếp vẫn còn sạch sẽ. Cô mở cửa sổ cho chút không khí trong lành từ vườn tràn vào nhà.
Bàn cờ của cô vẫn nằm trên bàn, Jolene nhặt con hậu trắng lên và ngắm nghía một lúc. “Chị dễ phát chán với các thể loại trò chơi, và cũng chưa bao giờ thử qua món này.”
“Muốn em dạy chị không?”
Jolene cười lớn, “Chuyện đó mà là cổ tích chắc hay lắm”, và đặt con hậu trở lại bàn cờ. “Chị đã được huấn luyện bóng ném, bóng vợt và bóng quần. Chị biết chơi cả quần vợt, gôn, bóng né và đấu vật. Không có chỗ cho cờ vua đâu cưng à. Thứ chị muốn nghe em nói là về tất cả chỗ rượu kia kìa.”
Beth chuyền cà phê cho Jolene.
Chị ấy đặt chiếc cốc xuống và rút ra một điếu thuốc. Trong gian bếp xám xịt này, chị ấy như trở thành tâm điểm với mái tóc xù và bộ vest xanh hải quân sáng màu.
“Tất cả bắt đầu với mấy viên thuốc ấy phải không?” Jolene hỏi.
“Hồi trước em thích chúng vô cùng,” Beth thành thật. “Nghiện luôn.”
Jolene lắc đầu.
“Hôm nay em chưa uống giọt nào,” Beth chen ngang cái lắc đầu của chị ấy. “Em sẽ đến Nga thi đấu vào năm sau.”
“Luchenko và Borgov,” Jolene đột nhiên nói.
Beth ngạc nhiên khi thấy chị ấy biết về họ. “Em sợ lắm.”
“Vậy thì đừng đi.”
“Nếu không đi, em chẳng còn biết làm gì khác. Sẽ chỉ tu ừng ực.”
“Đằng nào thì em chẳng tu ừng ực.”
“Em cần bỏ rượu, bỏ thuốc và dọn dẹp nơi này lại cho đàng hoàng tử tế. Chị nhìn đống dầu mỡ kia kìa.” Beth chỉ vào nơi bếp lò. “Em phải nghiên cứu cờ tám giờ mỗi ngày và phải tham gia vài giải đấu. Họ muốn em chơi ở San Francisco và muốn em xuất hiện trên Chương Trình Tối Nay . Phải làm tất cả mớ việc ấy.”
Jolene nhìn cô chăm chú.
Beth ngán ngẩm. “Em chỉ muốn uống rượu. Nếu chị không ở đây, em đã khui một chai rồi.”
“Em nói cứ như Susan Hayward trong mấy bộ phim của bà ấy vậy.”
“Nhưng đây là đời thực chị à?” Beth tiếp tục than vãn.
“Vậy thì ngưng ngay cái lối nói kịch sĩ ấy đi. Để chị cho em biết phải làm gì. Sáng mai hãy đến phòng tập cựu sinh viên trên Đại lộ Euclid vào đúng mười giờ. Đó là giờ tập của chị. Mang giày tập và mặc quần ngắn nhé. Em cần phải trục xuất cái vẻ phù nề này ra khỏi cơ thể trước khi lập thêm bất cứ kế hoạch nào.”
Beth nhìn chị ấy trân trối. “Nhưng em ghét phòng tập từ đó đến giờ mà...”
“Chị nhớ chuyện đó,” Jolene gật đầu.
Beth suy nghĩ một lúc. Những chai vang đỏ và trắng trong tủ bếp phía sau xâm chiếm tâm trí, và trong một khoảnh khắc Beth chỉ muốn Jolene về xừ đi để cô có thể lôi một chai ra mà vặn nút bần rồi rót đầy cho mình một ly. Cô gần như có thể cảm nhận được vị tê rần sướng mê của nó trong cổ họng mình.
“Không tệ đến thế đâu,” Jolene an ủi. “Chị sẽ lấy cho em vài chiếc khăn sạch và cho em dùng ké máy sấy tóc.”
“Em không biết đường đến đó.” Beth vẫn tìm cách trốn tránh.
“Đi taxi. Đi bộ. Trời ạ!”
Beth lại tiếp tục nhìn Jolene, mặt xám ngoét.
Jolene cương quyết. “Em phải vận động đi, gái ạ. Và thôi ngay cái việc ngồi một chỗ mà tìm vui.”
“Được rồi,” Beth tiu nghỉu. “Đến thì đến.”
Khi Jolene đi rồi, Beth cũng uống rượu nhưng chỉ một li. Cô mở toang tất cả cửa sổ và mang li ra vườn uống, nhìn lên vầng trăng hơi tròn tròn đang treo lơ lửng ngay bên trên chiếc lán nhỏ trong vườn. Một cơn gió nhẹ thổi qua. Beth cứ từ từ nhấm nháp ly vang, để cho gió tràn vào cửa sổ, thổi lật mấy tấm rèm, quét qua hết nhà bếp và phòng khách, rửa sạch bầu không khí đặc quánh bên trong.
⚝ ✽ ⚝
Phòng tập được thiết kế với trần cao và tường trắng. Ánh sáng ồ ạt đổ vào từ cửa sổ khổng lồ phía hông, nơi đặt mấy chiếc máy kì lạ. Jolene mặc quần bó màu vàng và mang giày tập. Sáng nay khá nóng, Beth đến bằng taxi, sẵn sàng với chiếc quần ngắn màu trắng của mình. Ở phía xa bên kia phòng, một thanh niên trông khá buồn thảm mặc quần ngắn màu xám đang nằm trên ghế đệm dài, rên rỉ theo từng cú đẩy tạ. Ngoài ra thì không còn ai khác.
Họ khởi động với máy đạp xe. Jolene chỉnh mức mười cho Beth và sáu mươi cho mình. Đến phút thứ mười, Beth đã mồ hôi nhễ nhại, bắp chân mỏi nhừ.
“Còn đau đớn nhiều,” Jolene khoái chí.
Beth nghiến răng, tiếp tục đạp.
Cô không thể vào nhịp được với chiếc máy hông-lưng, còn mông thì cứ trượt khỏi ghế đệm của máy đẩy tạ chân. Jolene chỉnh tạ ở mức bốn mươi pound, nhưng như vậy cũng đủ để Beth khổ sở. Rồi còn cái máy chết tiệt bắt cô phải nâng tạ bằng cổ chân. Nó làm gân bánh chè phần chân trên của cô phồng ra đau đớn. Sau đó thì Beth phải ngồi vào một chiếc ghế làm cô liên tưởng đến ghế điện, dùng cùi chỏ đẩy tạ vào trong. “Gồng cơ lườn lên nào,” Jolene hối thúc bên tai.
“Em cứ nghĩ từ đó là tên một loài cá nào chứ.”
Jolene cười lớn. “Tin chị đi, cưng à. Em cần thứ này đấy.”
Beth ngoan ngoãn làm theo tất cả bài tập dù trong lòng giận sôi máu còn bên ngoài thì thở hồng hộc. Cô còn tức hơn khi nhìn thấy Jolene đẩy tạ nặng gấp mấy lần mình. Nhưng dĩ nhiên rồi, dáng chị ấy hoàn hảo thế cơ mà.
Được tắm sau giờ tập thật sự sung sướng. Phòng tắm được lắp vòi nước công suất lớn và Beth xịt mạnh vào người để tống khứ lũ mồ hôi. Cô thoa xà phòng khắp người và ngắm nhìn bọt bong bóng trôi xuống rồi xoáy tròn trên nền gạch trắng dưới chân.
Người phụ nữ ở nhà ăn đang đưa cho Beth một đĩa bít tết Salisbury thì Jolene đẩy khay ăn của mình đến bên cạnh. “Không được nhé.” Chị ấy dứt khoát lấy lại đĩa ăn của Beth và đưa cho người phụ nữ kia. “Không nước sốt và không cả khoai tây luôn nhé,” chị ấy thêm vào.
“Em đâu có béo phì,” Beth nhăn nhó. “Ăn khoai tây thì có sao đâu.”
Jolene chẳng thèm trả lời. Khi đẩy khay đến quầy Jell-O và bánh kem Bavarian, chị ấy chỉ dửng dưng lắc đầu. Beth cay cú, “Tối qua chị ăn kem mềm sô cô la đấy thôi.”
“Tối qua đặc biệt,” chị ấy bình thản. “Hôm nay là hôm nay.”
Mười một giờ ba mươi họ đã ăn trưa vì Jolene có lớp lúc mười hai giờ. Khi Beth hỏi đó là lớp gì, Jolene trả lời “Đông Âu thế kỉ hai mươi.”
“Đó là một phần của khoa Giáo dục Thể chất sao?” Beth ngạc nhiên.
“Hôm qua chị chưa kể hết với em. Chị đang học thêm để lấy bằng Thạc sĩ Khoa học chính trị.” Beth nhìn chị ấy chằm chằm. “ Honi soit qui mal y pense 4 , cưng ạ.”
Khi Beth thức dậy sáng hôm sau, lưng và bắp chân cô mỏi nhừ nên quyết định không đến phòng tập. Nhưng lúc mở tủ lạnh ra tìm thứ gì đó cho bữa sáng và nhìn thấy đống thức ăn đông lạnh, cô nhớ lại hai cẳng chân nhợt nhạt của bà Wheatley khi lớp tất chân cuộn xuống. Cô lắc đầu cho kí ức kinh khủng đó rơi ra và bắt đầu mở mớ hộp giấy. Ý nghĩ về gà chiên và bò nướng cùng gà tây đông lạnh làm Beth muốn bệnh, thế là cô trút tất cả vào túi nilon. Khi mở tủ bếp để tìm thứ gì đó đóng hộp, Beth nhìn thấy ba chai Almadén Mountain Rhine chễm chệ trên ấy. Cô lưỡng lự và đóng tủ lại. Chuyện này để sau đi. Cuối cùng, Beth an phận với bánh mì nướng và cà phê đen cho bữa sáng, trên đường đến phòng tập, cô quẳng túi đồ đông lạnh vào sọt rác.
Bữa trưa hôm ấy, Jolene kể Beth nghe về một bảng tin ở Hội Sinh Viên đang dán danh sách sinh viên đăng kí việc làm thêm với giá hai đô một giờ. Chị ấy dắt Beth đến đó và cô chép xuống hai số điện thoại. Đến ba giờ chiều, Beth đã có trong tay một sinh viên Ngành Quản trị kinh doanh để đánh bụi thảm và một sinh viên Ngành Lịch sử nghệ thuật để cọ tủ lạnh cùng kệ bếp cho mình. Beth cảm thấy không cần phải trông coi họ. Cô dành thời gian ấy để luyện tập các biến thể Phòng thủ Nimzo-Indian.
Đến thứ Hai kế tiếp, Beth đã cân hết bảy chiếc máy tập Nautilus mà vẫn có thể tập cơ bụng sau đó. Thứ Tư, Jolene cộng thêm mười pound vào mỗi bên tạ và bắt Beth cầm một quả tạ năm pound trước ngực trong lúc tập cơ bụng. Tuần sau đó, họ bắt đầu chơi bóng ném. Beth chơi khá tồi và cứ thở hổn hển suốt trận. Jolene thì dĩ nhiên là hạ cô đo ván. Beth vẫn kiên trì bám trụ, thở hồng hộc và đổ mồ hôi như suối, thi thoảng bầm cả bàn tay vì quả bóng nhỏ màu đen ấy. Cô mất cả thảy mười ngày và một vài cú ném may mắn để có được trận thắng đầu tiên.
“Chị biết em sẽ thắng sớm thôi,” Jolene hãnh diện. Họ đứng ở giữa sân bóng, hổn hà hổn hển.
“Em ghét thua cuộc,” Beth nói.
Một lá thư chờ sẵn ở nhà khi Beth trở về từ phòng tập, gửi từ hội Thập Tự Chinh Cơ Đốc Giáo nào đấy. Phong bì có khoảng hai mươi cái tên bên dưới một cây thánh giá in nổi. Lá thư viết:
Gửi cô Harmon ,
Vì gọi điện không được nên chúng tôi viết thư này để xác nhận sự đồng ý của cô đối với sự hỗ trợ từ Thập Tự Chinh Cơ Đốc Giáo cho chuyến du đấu sắp tới ở Liên Bang Xô Viết.
Thập Tự Chinh Cơ Đốc Giáo là một tổ chức phi lợi nhuận, tận tụy vì hướng khai sáng cho Những Cánh Cửa Đang Đóng trước Thông Điệp của Chúa. Chúng tôi ấn tượng khi được biết cô từng là một thực tập sinh tại một tổ chức Cơ Đốc giáo - Mái ấm Methuen. Tổ chức muốn ngỏ lời giúp đỡ cô cho những khó khăn sắp tới, vì niềm tin và nguồn cảm hứng Cơ Đốc giáo mà chúng ta chia sẻ. Nếu cô chấp thuận lời đề nghị này, hãy liên hệ với những văn phòng của tổ chức chúng tôi tại Houston.
Cùng cô và Đức Chúa,
Crawford Walker
Giám Đốc
Thập Tự Chinh Cơ Đốc Giáo
Nhánh Nước Ngoài
Xém tí nữa thì Beth đã quẳng lá thư ấy đi nếu cô không kịp nhớ ra Benny từng được tài trợ đi Nga bởi một hội nhóm nhà thờ. Cô lấy số điện thoại Benny từ tờ giấy gấp trong hộp đồng hồ cờ vua và quay số. Anh trả lời sau tiếng chuông thứ ba.
“Chào anh. Là em, Beth đây.” Beth nói nhẹ.
Benny hơi lạnh nhạt, nhưng khi Beth kể về lá thư, anh nói ngay lập tức, “Đồng ý đi. Hội đó giàu cực đấy.”
“Họ sẽ trả tiền vé đi Nga luôn chứ?”
“Còn hơn ấy chứ. Nếu em yêu cầu thì họ sẽ chi trả cho cả anh. Nhưng dĩ nhiên là ngủ phòng riêng, theo đức tin của bọn họ. Đây chính là cái hội đã tài trợ cho anh hai năm trước đấy.” Anh ngừng một lúc, cố giữ một tông giọng trung hòa. “Em sẽ quay lại New York chứ?”
“Em cần ở lại Kentucky một chút nữa. Em đang đều đặn đến phòng tập thể lực, và sắp tới còn có một giải đấu ở California nữa.”
“Được thôi, nghe ổn đấy.” Benny hờ hững.
Beth viết thư hồi đáp Thập Tự Chinh Cơ Đốc Giáo chiều hôm ấy, bày tỏ sự cảm kích của mình với sự hỗ trợ và đề nghị được dắt theo Benny Watts. Cô dùng phong bì màu xanh nhạt sẵn có, gạch bỏ tên “Bà Allston Wheatley” và ghi tên mình vào. Khi đi bộ đến góc đường để gửi thư, cô quyết định đi luôn đến trung tâm để mua ga trải giường và bao gối mới. Cả khăn trải bàn cho nhà bếp nữa.
⚝ ✽ ⚝
Ánh sáng mùa Đông ở San Francisco thật tuyệt diệu, Beth chưa từng thấy thứ gì giống vậy. Nó cho những tòa nhà ở thành phố này những đường nét sắc cạnh đến huyền ảo. Khi leo đến đỉnh ngọn đồi Telegraph và nhìn xuống, Beth gần như nín thở trước khung cảnh rõ ràng của từng dãy nhà và khách sạn trải dài trên cung đường dốc, bên dưới chúng thì trải ra một màu xanh hoàn mĩ của vùng vịnh. Cô mua một bó cúc vàng tại sạp hoa nơi góc đường, khi nhìn lại xuống vịnh, cô thấy một cặp đôi đang leo dốc cách mình một quãng. Họ thi nhau thở hổn hển, Beth ngạc nhiên nhận ra rằng mình vừa leo đến đỉnh dễ dàng như thế nào. Cô quyết định trong suốt tuần này sẽ đi bộ đường dài như vậy. Có khi còn tìm được phòng tập ở đâu đó.
Nhưng khi leo lên đồi để đến giải đấu, Beth bỗng thấy căng thẳng, mặc cho quang cảnh tuyệt diệu vẫn hòa trong bầu không khí sảng khoái ấy. Thang máy trong khách sạn đầy kín người. Rất nhiều trong số họ nhìn cô chằm chằm, Beth chỉ biết nôn nao lảng nhìn đi chỗ khác. Người đàn ông đứng ở quầy ngưng việc đang làm khi thấy Beth bước đến.
“Tôi đăng kí ở đây phải không?” Cô hỏi.
“Không cần đâu, cô Harmon. Cứ vào ạ.”
“Bàn nào nhỉ?”
Ông ta nhướn mày. “Bàn Một.”
Bàn Một nằm ở một phòng riêng, và nó được sắp xếp trên bệ cao phải đến vài mét, phía sau là chiếc bảng mô phỏng to như màn hình chiếu phim tại gia. Năm phút nữa là đến giờ đấu, căn phòng đã chật kín khán giả. Beth phải chen qua rừng người ấy để đến được khu vực thi đấu. Nhận ra Beth, họ im lặng hẳn, thay vào đó là những ánh nhìn chăm chú. Khi cô bước lên các bậc thang, tiếng vỗ tay bắt đầu nổ ra. Cô cố để gương mặt mình bình thản, nhưng bên trong run lên vì sợ. Ván cờ cuối cùng Beth chơi là năm tháng trước, và đã thảm bại.
Beth còn không biết đối thủ hôm nay là ai, cô đã lo lắng đến mức quên bẵng việc hỏi han. Cô cứ ngồi thừ ra đó, đầu óc gần như trống rỗng. Một thanh niên với vẻ ngoài ngạo mạn xuyên qua đám đông và tiến đến bậc thang. Anh ta có mái tóc dài và bộ râu rậm dài. Beth ngờ ngợ, và khi anh ta giới thiệu mình là Andy Levitt, Beth nhớ ra ngay cái tên này từ tờ Bình luận cờ vua . Anh ta ngồi vào ngay ngắn. Vị điều hành giải đấu tiến đến và nói nhẹ nhàng với Levitt. “Anh có thể bấm đồng hồ của cô ấy rồi.” Levitt với tay một cách bình thản và nhấn nút. Beth ngồi vững và đi con tốt hậu, giữ cho mắt mình dán vào bàn cờ.
Khi họ vào đến trung cuộc, căn phòng đã đen kín người ra đến tận cửa, ai đó đang suỵt thật lớn để cố gắng giữ cho đám đông trật tự. Beth chưa bao giờ thấy nhiều khán giả như vậy. Cô hướng đầu óc mình trở lại bàn cờ, cẩn trọng dùng một con xe mở cột. Nếu Levitt không tìm ra cách đề phòng, có thể Beth sẽ tấn công được trong ba nước nữa. Chỉ cần cô đừng bỏ lỡ điều gì trong thế trận. Cô bắt đầu nhích dần về trận đồ của anh ta, chậm rãi gỡ từng quân hậu ra khỏi quân vua đã nhập thành. Rồi cô hít một hơi sâu và đem xe đến hàng thứ bảy. Beth có thể nghe văng vẳng trong đầu mình tiếng của gã kì thủ ở Cincinnati nhiều năm về trước. “Như xương mắc cổ là xe hàng thứ bảy.” Cô nhìn sang Levitt ở phía kia bàn cờ. Đúng là anh ta trông giống như đang có xương mắc cổ thật, mắc sâu nữa là đằng khác. Có gì đó vui sướng dâng lên trong Beth khi nhìn anh ta cố gắng che đi sự bối rối của mình. Và khi cô tiếp bước xe với hậu, cũng tàn sát như thế ở hàng thứ bảy, anh ta đầu hàng ngay tắp lự. Tiếng vỗ tay vang lên ồn ã và phấn khích. Beth mang nụ cười hài lòng bước xuống từ bục thi đấu. Nhiều khán giả đang ôm sẵn tờ Bình luận cờ vua trên tay, chờ cô cho chữ kí. Nhiều người khác chỉ mong được cô kí lên tờ bướm của giải đấu hoặc chỉ là vài mẩu giấy trắng.
Khi đang kí tặng lên một quyển tạp chí, Beth dừng lại một chút để nhìn bức ảnh trắng đen ở giải đấu Ohio, trong đó, cô ôm trọn chiếc cúp vô địch, còn Benny và Barnes và những người khác mờ nhòe phía sau. Mặt Beth lúc ấy trông tái nhợt và mệt mỏi làm sao, cô thấy hơi xấu hổ khi sực nhớ ra kì báo này đã bị lãng quên trong bì thư ố vàng, nằm chất đống ở ghế dài trong nhà cả tháng trời trước khi cô mở nó ra và thấy tấm hình này. Ai đó tuồn thêm một tờ tạp chí trước mặt Beth để kí, và cô lắc đầu khỏi mớ kí ức hỗn độn. Cô cứ thế kí tên cho đến khi ra khỏi phòng, xuyên qua thêm một đám đông nữa đang chờ ngoài cửa. Họ chen kín từ khu vực thi đấu cho đến tận sảnh chính nơi các trận khác vẫn đang diễn ra. Hai vị điều hành vất vả kêu gọi đám đông không làm phiền các đấu thủ. Vài người trong số đó nhìn lên, trông thấy Beth và cau mày. Beth vừa phấn khích vừa sợ hãi khi có hàng đống người quây kín lấy mình, xô đẩy nhau chỉ để đến gần hơn. Một trong số những người phụ nữ xin chữ kí nói với Beth, “Tôi mù tịt về cờ vua, cô gái ạ, nhưng tôi vui mừng cho cô,” một ông trung niên khác thì khăng khăng phải bắt tay Beth cho được, “Cô là điều tuyệt diệu nhất xảy ra với cờ vua kể từ Capablanca.”
Beth trả lời, “Cảm ơn ông. Tôi ước gì cờ vua cũng dễ dàng với tôi như thế.” Nhưng cũng có khi nó dễ thật, cô trộm nghĩ. Đầu óc cô có vẻ vẫn ổn lắm. Chắc là cô chưa đến nỗi quậy nát nó.
Cô rảo bước đầy tự tin về khách sạn dưới ánh mặt trời sáng rực. Cô sẽ đi Nga sau sáu tháng nữa. Thập Tự Chinh Cơ Đốc Giáo đã đồng ý mua vé bay hãng Aeroflot cho cô, Benny và một người phụ nữ đại diện Liên Đoàn Cờ Vua. Họ chi trả cả tiền khách sạn. Giải đấu ở Moscow sẽ lo phần ăn uống. Bữa giờ cô đã nghiên cứu cờ sáu tiếng một ngày, và hoàn toàn có thể tiếp tục như thế. Cô dừng lại để mua thêm một ít hoa, lần này là cẩm chướng. Người phụ nữ đứng quầy tối qua đã xin chữ kí Beth lúc cô đi ăn tối về, chắc hẳn bà ấy sẽ vui lòng tìm cho cô một chiếc lọ để cắm chỗ hoa này. Trước khi rời California, Beth đã gửi ngân phiếu thanh toán cho tất cả các tạp chí mà Benny đăng kí. Cô sẽ nhận được Deutsche Schachzeitung - tạp chí cờ vua lâu đời nhất, Tạp chí cờ vua Anh , và dĩ nhiên là danh phẩm Shakhmatni v USSR từ Nga. Cả Éches Europe và Điểm tin cờ vua Mĩ nữa. Cô dự định sẽ chơi qua tất cả các trận đại kì thủ trong đó, mỗi khi xem được một trận quan trọng, cô sẽ học thuộc lòng và phân tích từng nước đi nào sẽ mang lại hậu quả hoặc có khả năng phát triển thành thế trận lạ lẫm nào. Vào đầu mùa Xuân, cô có thể đến New York đấu Giải Mở Rộng và tranh thủ ở cùng Benny vài tuần. Những bông hoa trong tay Beth thắm sắc đỏ, và cảm giác bộ quần jeans áo khoác cotton mới mua chạm vào da trong tiết trời trong lành của San Francisco thật thoải mái. Xa xa phía cuối con đường, đại dương xanh biếc trải ra trước mắt như một giấc mơ của những cơ hội. Tâm hồn Beth khẽ ngân nga hòa cùng giấc mơ ấy, bay xa theo biển Thái Bình Dương.
⚝ ✽ ⚝
Khi về đến nhà với tấm ngân phiếu giải Nhất trong tay, Beth tìm thấy trong đống thư hai phong bì doanh nghiệp: Một tờ ngân phiếu bốn trăm đô la từ Liên đoàn Cờ vua kèm lời xin lỗi vì không thể gửi thêm, và lá thư dài ba trang từ Thập Tự Chinh Cơ Đốc Giáo, giảng giải về nhu cầu truyền bá sự đồng cảm quốc tế thông qua các nguyên tắc Thiên Chúa. Từ “Ngài” được viết hoa theo cái cách khiến Beth khó chịu. Bên dưới dòng kết “Cùng cô và Đức Chúa” là bốn cái tên, và gấp gọn trong ấy là tờ ngân phiếu bốn nghìn đô la. Beth giữ khư khư tấm phiếu một lúc lâu. Tiền thưởng từ San Francisco là hai nghìn, chưa trừ đi phí đi lại. Sáu tháng vừa rồi tài khoản ngân hàng của Beth cứ teo tóp dần, cô chỉ mong nhận được nhiều lắm là hai nghìn đô từ Hội thánh Texas này. Dù bọn họ có đức tin nhăng cuội gì đi nữa thì chỗ tiền này đúng là món quà từ thiên đường rơi xuống. Cô gọi Benny để báo cho anh tin vui này.
⚝ ✽ ⚝
Beth trở về từ trận quần vợt sáng thứ Tư vừa lúc điện thoại đang reo inh ỏi. Cởi vội chiếc áo mưa và quẳng nó lên sofa, cô bắt máy. Một giọng nữ vang lên: “Có phải Elizabeth Harmon đấy không?”
“Vâng.”
“Cô Helen Deardorff từ bên Methuen đây. Cô có tin này, Elizabeth ạ. Bác Shaibel vừa qua đời tối hôm qua. Cô nghĩ nên báo cho em biết.” Beth quá sửng sốt để có thể trả lời.
Hình ảnh bác lao công già mập mạp cúi người bên bàn cờ vụt qua trong đầu Beth. Bác ngồi đó với bóng đèn trần bên trên, Beth đứng ngay cạnh, chăm chú dõi theo từng suy tính lạ lẫm của một ông già ngồi chơi cờ kế bên lò đốt.
“Tối qua sao?” Beth chỉ biết hỏi vậy.
“Bị đau tim. Bác ấy hơn sáu mươi tuổi rồi.”
Câu nói tiếp theo phát ra không khỏi khiến Beth ngạc nhiên. Cứ như nó tự trôi ra khỏi miệng cô vậy. “Em muốn đến dự đám tang.”
“Đám tang à?” cô Deardorff hơi lúng túng. “Cô cũng không rõ sẽ diễn ra khi nào. Bác ấy có một người em gái đơn thân, Hilda Shaibel. Có lẽ em nên gọi bà ấy.”
⚝ ✽ ⚝
Sáu năm trước khi nhà Wheatley chở Beth về Lexington, họ lái xe qua những cung đường bê tông nối từ thị trấn này sang thị trấn khác. Mỗi khi đèn đỏ, Beth sẽ giương đôi mắt to của mình để nhìn mấy người ăn mặc sặc sỡ đang qua đường hoặc rảo bước vội trước dãy cửa hàng. Còn giờ đây, ngồi trên xe của Jolene, Beth nhìn ra con đường bốn làn xe trôi vụt qua, với những thị trấn chỉ còn là cái tên trên biển hiệu màu xanh lá.
“Ông ta nhìn như một gã khốn xấu tính ấy,” Jolene nói.
“Bác ấy cũng khó ở lúc chơi cờ nữa. Lúc đó em sợ bác ấy chết khiếp.”
“Chị thì khiếp hết cả lũ đấy,” Jolene cay cú. “Lũ khốn.”
Beth khá ngạc nhiên. Trong mắt cô, Jolene là một nữ nhân không biết sợ là gì. “Còn Fergussen thì sao?”
Jolene dịu lại, “Fergussen là một ốc đảo giữa sa mạc, cũng làm chị hết cả hồn vía lúc mới đến đấy, nhưng sau đó thì hóa ra lại ổn.” Chị ấy nở một nụ cười. “Cái con người Fergussen cũ kĩ đó.”
Beth ngập ngừng một lúc, nhớ lại mấy viên thuốc “ưu đãi” từ Fergussen. “Lúc ấy hai người có gì với nhau không vậy?”
“Chị ước gì là như vậy.” Jolene cười lớn.
“Chị đến mái ấm lúc mấy tuổi?”
“Sáu.”
“Còn gia đình thì sao?”
“Chị chỉ biết mỗi bà của chị thôi, nhưng cũng đã mất rồi. Bà ấy ở đâu đó gần Louisville. Mà chị cũng chẳng muốn biết gì về họ hết. Không muốn tìm hiểu xem mình là con hoang hay lí do gì mà họ tống chị vào Methuen. Chị chỉ rất hài lòng vì đã thoát khỏi mớ bầy hầy đó. Chị sẽ có bằng Thạc Sĩ vào tháng Tám, và sau đó là vĩnh biệt cái bang này.”
“Em vẫn còn nhớ mẹ. Bố thì không nhớ rõ lắm.” Beth nói.
“Tốt nhất là quên hết đi nếu em có thể.” Jolene lạnh lùng.
Jolene rẽ bánh vào làn bên trái, họ đi qua hai chiếc xe tải chở than và hai chiếc RV. Phía trước, một tấm biển xanh báo hiệu số dặm còn lại để đến Mount Sterling. Trời đang vào Xuân, bây giờ là đúng một năm sau chuyến xe đường dài Beth đi cùng Benny. Cô nhớ lại vẻ nhếch nhác của cao tốc thu phí Pennsylvania. So với nó, con đường bê tông trắng trước mắt thật mới và sạch đẹp, những cánh đồng Kentucky và hàng rào trắng trải dài hai bên.
Một lúc sau, Jolene lôi thuốc ra châm một điều. Beth hỏi, “Tốt nghiệp xong chị sẽ đi đâu?”
Jolene im lặng một hồi lâu, tưởng chừng như không nghe thấy. Nhưng rồi chị ấy trả lời, “Có lời đề nghị từ một hãng luật toàn da trắng ở Atlanta, cũng khá hứa hẹn.” Lại là một quãng lặng trước khi chị ấy tiếp tục. “Họ muốn một đứa da đen vào để bắt kịp thời đại ấy mà.”
Beth nhìn Jolene. “Em không nghĩ mình dám Nam tiến xa vậy nếu là người da đen đâu.”
Jolene cười nhạt. “Em thì chắc chắn là không rồi. Đám người Atlanta này sẽ trả chị gấp đôi mức có thể kiếm được ở New York. Chị sẽ lo phần quan hệ công chúng, thứ công việc khủng khiếp mà chị hiểu tường tận như đầu ngón tay, với một chiếc văn phòng hai cửa sổ và mấy đứa con gái da trắng làm phụ tá gõ thư cho mình.”
“Nhưng chị đã học luật đâu?”
Jolene phá lên cười, “Chị đồ rằng bọn họ thích như vậy đấy. Ổn thôi, Slocum và Livingston không muốn một đứa con gái da đen ngồi xem xét vụ án, họ chỉ muốn một đứa sạch sẽ có mông đẹp và giỏi tài văn vẻ. Lúc phỏng vấn, chị cố tình dùng mấy chữ đao to búa lớn như ‘đáng khiển trách’ và ‘song quan luận’, thế là bọn họ mê ngay.”
Beth nói, “Jolene này, chị quá thông minh cho cái công việc đó. Chị có thể đi dạy ở trường Đại học, và lại còn là một vận động viên cừ...”
Jolene cắt ngang, “Chị biết mình đang làm gì. Chị chơi giỏi quần vợt và gôn, đồng thời cũng là người tham vọng.” Chị ấy rít một hơi dài thuốc lá. “Em không tưởng tượng ra được chị tham vọng thế nào đâu. Với thể thao, chị luyện tập không biết mệt mỏi, có cả những huấn luyện viên hứa hẹn đào tạo chị thành dân chuyên nếu muốn.”
“Nghe ổn quá mà.”
Jolene nhả khói chầm chậm. “Beth à, thứ chị muốn là thứ em có. Chị không muốn tập mòn mỏi cú vợt tay không thuận trong suốt hai năm, chỉ để trở thành một tay vợt nhà nghề hạng hai nào đó. Em đã là dân chơi hàng đầu quá lâu rồi, em không hiểu được phần còn lại của thế giới đâu.”
“Em thì chỉ ước được xinh đẹp bằng một nửa chị thôi...”
Jolene gắt, “Thôi cái kiểu nói ấy đi! Đừng phí phạm cuộc đời mình trước tấm gương soi. Mà em cũng đâu còn xấu xí nữa. Thứ chị đang nói đến là tài năng của em kìa. Chị sẵn sàng thí chiếc mông đẹp của mình để được chơi cờ xuất sắc như em.”
Giọng điệu thú nhận đó của Jolene làm Beth thấy choáng ngợp. Beth quay sang nhìn chị, góc nghiêng với mái đầu Afro phồng to gần chạm nóc xe, cánh tay màu bánh mật mịn màng nối vào bàn tay rắn rỏi đặt trên vô lăng và gương mặt đang phủ một màu giận dữ. Beth lặng im.
Một phút sau Jolene lên tiếng, “Kia rồi. Chà chà.”
Nằm bên phải đường khoảng một dặm về trước là tòa nhà gạch đen thui cùng mái nhà màu đen và rèm cửa sổ cũng đen nốt. Mái ấm Methuen cho trẻ mồ côi.
⚝ ✽ ⚝
Một bậc thềm sơn vàng ở cuối lối đi bê tông dẫn họ vào bên trong. Đã từng có thời những nấc thang này trông rất rộng và hoành tráng với Beth, còn tấm biển hiệu màu đồng xỉn màu thì toát ra vẻ đe dọa. Giờ thì nó chỉ đơn thuần là cánh cổng dẫn vào một cơ sở vùng quê tồi tàn. Lớp sơn trên thềm đã tróc nham nhở. Những bụi cây ngáng đường cũng dơ bẩn, từng chiếc lá phủ lớp bụi dày. Jolene đã chạy tọt ra sân chơi, xem xét mấy chiếc xích đu rỉ sét mà khi xưa bọn trẻ không được bén mảng đến gần trừ khi có chú Fergussen giám sát. Beth vẫn đứng giữa lối đi ngập nắng, mắt dán vào mấy cánh cửa gỗ. Bên trong là văn phòng to bự của cô Deardorff, những văn phòng khác, rồi thư viện và nhà nguyện chiếm trọn một cánh nhà. Bên cánh còn lại là hai phòng học, và khi bước qua chúng, một cánh cửa cuối hành lang sẽ hiện ra, dẫn lối xuống tầng hầm.
Beth đã gần như quen với buổi chơi cờ sáng Chủ nhật như một đặc quyền. Cho đến cái ngày “định mệnh” đó. Đến tận bây giờ cổ họng Beth vẫn thắt chặt khi nhớ lại hoạt cảnh câm lặng theo sau tiếng hét thất thanh “Elizabeth!” của cô Deardroff và sàn nhà vương vãi đầy thuốc cùng mảnh thủy tinh vỡ vụn. Thế là không cờ kịch gì nữa. Thay vào đó là trọn một tiếng rưỡi ở nhà nguyện, nơi Beth giúp cô Lonsdale xếp ghế và ngồi nghe những bài nói của cô ấy. Rồi một tiếng nữa để viết bài báo cáo mà cô Deardorff yêu cầu. Mỗi Chủ nhật như vậy trong suốt một năm, cô Deardorff sẽ trả bài vào thứ Hai với đầy dấu đỏ và những lời phê thấy ghét, kiểu như: “Viết lại. Sai cấu trúc.” Beth phải vào thư viện tra cứu tài liệu cho bài báo cáo đầu tiên. Đó là lần đầu tiên cô tự nhủ tôn giáo hẳn phải có ý nghĩa nhiều hơn thứ nhảm nhí này.
Jolene đã đứng bên cạnh từ bao giờ, nheo mắt dưới ánh mặt trời. “Đó là nơi em đã học chơi cờ hả?”
“Dưới tầng hầm.”
“Khỉ thật,” Jolene chửi. “Đáng lẽ bọn họ phải khuyến khích em mới đúng. Cho em đi du đấu nhiều nữa sau lần đó. Họ mê khoe khoang đại chúng mà, như mọi người khác thôi.”
“Đại chúng?” Beth thấy hơi chóng mặt.
“Những thứ như thế mang tiền về cưng ạ.”
Cô chưa từng nghĩ ai đó ở đây nên khích lệ mình. Giờ đây, khi đứng trước tòa nhà này, cô mới thấy thấm thía. Đáng lẽ cô đã được đấu giải từ lúc lên tám hay chín, như Benny ấy. Lúc ấy cô sẽ sáng sủa và háo hức, đầu óc hừng hực đam mê dành cho cờ vua. Cô đã có thể chơi với các Kiện Tướng và học được những thứ mà những người như bác Shaibel hay ông Ganz sẽ chẳng bao giờ dạy được. Cậu nhóc Girev dự định sẽ trở thành Vô địch Thế giới khi mười ba tuổi. Nếu có được phân nửa cơ hội của cậu ta thôi, cô có thể chạm mốc ấy khi lên mười. Sẽ chẳng hại gì nếu cô Deardorff để cho Beth tiếp tục chơi cờ, hoặc hơn nữa là khuyến khích cô. Đó đã có thể là thứ đem lại danh tiếng cho Methuen. Beth nghĩ đến gương mặt bà cô Deardorff ấy, đôi gò má cao và gầy nhọn, nụ cười mang đầy vẻ không hài lòng, đôi mắt ánh lên sự tàn bạo tinh vi. Kéo Beth ra khỏi một thứ mà cô yêu quí chắc hẳn đã rất thỏa mãn đối với bà ta. Rất thỏa mãn.
“Em muốn vào không?” Jolene kéo Beth về với thực tại.
“Không, mình đi tìm nhà nghỉ đi.”
Nơi nghỉ chân của hai người có một hồ bơi nhỏ xinh nằm cách đường chính vài dặm, với vài cây sồi già cỗi trong sân. Tối hôm ấy, thời tiết đủ ấm áp để bơi vài vòng sau bữa tối. Jolene lại chứng tỏ mình là một tay cừ khôi khi cứ tung hoành ngang dọc hồ bơi mà hầu như không làm gợn sóng nước, trong khi Beth thì vật lộn với tấm ván lặn. Tiến lại gần Beth, Jolene nói, “Khi chiều chúng ta đúng là chết nhát. Đáng lẽ phải vào khu Hành chính, xông thẳng vào văn phòng của mụ ta.”
Tang lễ được tiến hành vào sáng hôm sau tại Nhà thờ Lutheran. Có khoảng mười mấy người tham dự và một chiếc hòm ở đó. Cỡ hòm chỉ tầm trung, Beth thắc mắc làm sao họ có thể đặt vừa một người to lớn như bác Shaibel vào trong đó. Dù nhà thờ này nhỏ hơn nhiều, nhưng buổi lễ diễn ra giống hệt tang lễ của bà Wheatley tại Lexington. Chỉ sau năm phút, Beth đã thấy chán và mệt rã người, còn Jolene thì gà gật luôn bên cạnh. Sau khi lễ kết thúc, họ theo đuôi đoàn tiễn đưa và đến nghĩa trang. Jolene bỗng nói, “Chị nhớ ông ta có lần làm chị sợ chết khiếp. Lúc ấy, thầy Schell sai chị đi lấy sách, và ổng thét lên, đuổi chị như đuổi tà để không dẫm lên sàn thư viện vừa lau. Lão già khốn đấy ghét con nít lắm.”
“Không thấy cô Deardorff ở nhà thờ nhỉ.”
“Có thấy ai ở mái ấm đến đâu.”
Nghi lễ động quan còn ảo não hơn. Họ đưa hòm xuống huyệt và cha xứ đọc lời cầu nguyện. Không ai rơi nước mắt. Đoàn tiễn đưa trông như một dãy người đang xếp hàng trước quầy nhà băng. Beth và Jolene là hai người trẻ tuổi duy nhất ở đó, không ai bắt chuyện với họ cả. Ai cũng ra về ngay khi mọi thứ kết thúc, men theo một con đường mòn ở nghĩa trang cũ kĩ, băng qua dãy bia mộ phai dấu thời gian và những khóm bồ công anh. Beth không cảm thấy đau lòng khi bác Shaibel đã đi xa. Cô chỉ thấy tội lỗi vì đã không trả lại bác ấy mười đô la khi xưa. Đáng lẽ cô đã phải gửi tấm ngân phiếu ấy.
Họ phải đi ngang Methuen trên đường về Lexington. Khi vừa sắp đến ngã rẽ, Beth nói với Jolene, “Ghé vào đi. Có thứ này em cần xem.” Và Jolene làm y lệnh.
Nhưng chị ấy không vào. Beth ra khỏi xe một mình và cố bước đến cánh cổng Tòa nhà Hành chính. Không gian bên trong tối tăm và lạnh lẽo. Ngay trước mắt cô hiện ra cánh cửa với biển tên HELEN DEARDORFF - HIỆU TRƯỞNG. Beth bước dọc đến cánh cửa phía cuối hành lang vắng lặng và đẩy nó. Có ánh sáng hắt lên, và cô đi xuống cầu thang, thật chậm.
Bàn cờ và những quân cờ không ở đó, nhưng chiếc bàn họ từng dùng để chơi cờ vẫn còn bên cạnh lò đốt, chiếc ghế không được sơn của bác ấy vẫn nằm đúng vị trí. Bóng đèn trần cũng đang bật. Beth đứng đó, nhìn xuống chiếc bàn. Khi ngồi vào ghế của bác Shaibel và ngước lên, cô khám phá ra thứ gì đó là lạ.
Phía sau vị trí Beth hay ngồi khi xưa, một vách ngăn đơn sơ được dựng lên từ những tấm ván gỗ đóng vào nhau. Nơi đó từng treo một tấm bìa với phong cảnh Bavaria làm nền cho tờ lịch tháng phía dưới. Nhưng tấm lịch đã được tháo xuống, và toàn bộ tấm vách giờ phủ đầy những hình chụp, mẩu tin cắt dán cùng trang bìa của các ấn bản Bình luận cờ vua . Mỗi mẩu tin đều được dán gọn gàng và cẩn thận lên gỗ bọc nhựa để tránh bụi. Chúng là thứ duy nhất sạch bụi trong căn hầm này. Toàn bộ đều là ảnh của Beth. Có cả những ván đấu của cô trên Bình luận cờ vua , những mẩu tin từ tờ Lexington Herald-Leader, New York Times và cả vài tập san nào đó của Đức. Bài báo xưa kia trên Life cũng ở đó, ngay bên cạnh là trang bìa Bình luận cờ vua , ấn bản mà Beth đứng ôm chiếc cúp Vô Địch Mĩ của mình. Nhét đầy vào các khoảng giữa là nhiều bức ảnh khác của cô, đôi khi lặp lại. Dễ phải có đến hai mươi bức.
⚝ ✽ ⚝
“Tìm được thứ em cần chứ?” Jolene hỏi khi thấy Beth quay lại.
“Còn hơn vậy.” Beth định nói thêm gì đó nhưng rồi lại thôi. Jolene lùi xe, đánh tay lái ra khỏi bãi và quay lại với con đường dẫn về cao tốc. Khi họ lên dốc và tiến về hệ thống xa lộ, Jolene nhấn ga con xe VW và nó vút lên phía trước. Không ai trong họ nhìn lại phía sau. Beth đã ngừng khóc và đang lau mặt với chiếc khăn tay của mình.
“Cố gắng làm điều quá khó với em rồi phải không?” Jolene hỏi.
“Không sao.” Beth hỉ mũi rõ to. “Em ổn.”
⚝ ✽ ⚝
Người cao hơn trong hai người phụ nữ trông hao hao Helen Deardorff. Không giống hệt, nhưng cái cốt cách chị em sùng đạo thì không lẫn vào đâu được. Bà ta mặc một bộ vest màu be và nở một nụ cười như đã bị lột sạch cảm xúc. Tên bà ta là Blocker. Người còn lại thì tròn trịa, khá e thẹn trong bộ váy hoa tối màu và giày kiểu không thể nghiêm túc hơn. Bà này tên Dodge. Hai người họ đang trên đường từ Houston về Cincinnati thì quyết định dừng chân ở đây để thảo luận đôi chút. Họ ngồi cạnh nhau trên sofa của Beth, huyên thuyên về vở kịch ba-lê ở Houston và cách mà thành phố ấy đã trưởng thành về mặt văn hóa. Rõ ràng là họ muốn gửi gắm thông điệp đến Beth rằng Thập Tự Chinh Cơ Đốc Giáo không phải là một hội nhóm hạn hẹp và hà khắc. Chuyện họ đến để kiểm tra lai lịch của Beth cũng rõ ràng nốt. Họ còn viết thư trước khi đến cơ mà.
Beth vẫn lịch sự ngồi nghe cả bài diễn thuyết về Houston của họ, cũng như tổ chức mà họ đang giúp xây dựng tại Cincinnati - một tổ chức bảo vệ môi trường Cơ Đốc giáo gì đó. Cuộc nói chuyện chùng xuống trong giây lát, và rồi thì bà Dodge cũng nói vào ý chính. “Thứ chúng tôi thật sự muốn, Elizabeth, là một lời tuyên bố.”
“Tuyên bố sao?” Beth trả lời từ chiếc ghế bành của bà Wheatley, đối diện hai người kì quặc này.
Bà Blocker tiếp lời. “Thập Tự Chinh Cơ Đốc Giáo mong cô công khai quan điểm của mình. Trong một thế giới mà quá nhiều người giữ im lặng...” Bà ta ngừng giữa câu.
“Quan điểm gì vậy?” Beth tiếp tục hỏi.
“Như chúng ta đã biết, sự lây lan của Chủ nghĩa Vô Thần.”
“Có lẽ vậy.”
“Đó không hề là vấn đề giả định,” bà Blocker vội vàng bác bỏ. “Đó là điều khẳng định. Lời Chúa là lời nguyền với Điện Kremlin, một trong những mục tiêu lớn nhất của Thập Tự Chinh Cơ Đốc Giáo là phản đối Kremlin cùng lũ vô thần đang ngồi đó.”
“Tôi không phản đối gì việc đó cả.” Beth nhún vai.
“Tốt. Nhưng thứ chúng tôi cần là một lời tuyên bố rõ ràng.” Giọng bà Blocker âm vang một vẻ gì đó hệt như giọng điệu cô Deardorff nhiều năm trước. Đó là giọng điệu của kiểu ức hiếp được luyện tập. Beth cảm thấy một sự khó chịu y như lúc bị đối thủ đem hậu ra sớm để uy hiếp mình, cô nói, “Bà muốn tôi công khai tuyên bố như vậy trước cánh báo chí?”
“Chính xác!” Bà Blocker hân hoan. “Nếu Thập Tự Chinh Cơ Đốc Giáo...” bà ta ngưng lại và sờ sờ phong bì giấy nâu trên đùi mình như đang cố đo lường độ nặng của nó. “Chúng tôi đã chuẩn bị thứ này cho cô.”
Beth nhìn bà ta đầy căm ghét nhưng không nói gì.
Bà Blocker mở nẹp phong bì, lôi ra một tờ giấy in đầy chữ và đưa nó cho Beth.
Cùng là phong bì mà lá thư đầu tiên được gửi đến, với hàng dài những cái tên bên hông. Beth liếc nhìn và thấy cái tên “Telsa R.Blocker, Thư Kí Trưởng,” bên trên hàng tá những cái tên đàn ông khác bắt đầu với chữ viết tắt “Cha.” Cô đọc sơ qua lời tuyên bố đó. Vài câu được gạch chân, như “lòng hiến dâng cho Chúa Trời nhiệt huyết.” Beth ngước lên nhìn bà Blocker ngồi đó với hai chân khép chặt vào nhau, đang nhìn ngó căn nhà của cô với một sự khinh bỉ giấu kín. “Tôi là kì thủ cờ vua.” Beth nói nhỏ nhẹ.
“Dĩ nhiên rồi, cưng ạ,” bà Blocker nhanh nhảu. “Nhưng cô cũng là một người Cơ Đốc giáo.”
“Chuyện đó thì tôi không chắc.”
Bà ta nhìn Beth chằm chằm.
“Thế này nhé,” Beth đưa lại tờ giấy. “Tôi không có ý định nói chữ nào trong này cả.”
Bà Blocker nghiêng người lấy lại bản tuyên bố. “Thập Tự Chinh Cơ Đốc Giáo đã đầu tư một khoản kha khá...” Một tia sắc lẹm mà Beth đã từng thấy trước đây ánh lên trong mắt bà ta.
Beth đứng phắt dậy. “Tôi sẽ trả lại hết.” Cô bước đến bàn làm việc và cầm quyển ngân phiếu lên. Trong thoáng chốc cô thấy mình vừa như một thánh đạo đức, vừa như một đứa ngu. Đó là toàn bộ khoản tiền vé máy bay cho cô, Benny và người nữ hộ tống từ Liên đoàn. Toàn bộ tiền khách sạn và chi phí phát sinh. Nhưng Beth nhớ lại tờ ngân phiếu họ gửi lần trước. Ở cuối tờ phiếu nơi người ta thường hay điền mục đích sử dụng như “tiền thuê nhà” hay “phí điện”, thì ai đó - chắc là bà Blocker - đã điền vào dòng “Phí Phụng Sự Chúa.” Beth ngưng suy nghĩ và ghi tấm phiếu bốn ngàn đô la cho Thập Tự Chinh Cơ Đốc Giáo, ở chỗ trống ghi chú, cô điền “Hoàn trả toàn bộ.”
Giọng bà Dodge mềm mỏng đến đáng ngạc nhiên. “Tôi mong cô hiểu mình đang làm gì, cưng ạ.” Trông bà ta có vẻ lo lắng chân thành.
“Tôi cũng mong vậy,” Beth cố gắng bình tĩnh. Chuyến bay đến Moscow sẽ khởi hành sau năm tuần nữa.
⚝ ✽ ⚝
Cô gọi cho Benny và anh nhấc máy ngay tắp lự. “Em điên rồi,” anh nói không cần suy nghĩ.
“Dù sao thì em cũng đã làm rồi. Quá trễ để quay đầu.” Beth hờ hững.
“Em đã mua vé máy bay chưa?”
“Chưa,” cô thở dài. “Chưa có gì được thanh toán cả.”
“Em sẽ phải trả tiền khách sạn trước cho Intourist đấy.”
“Em biết.” Beth không ưa cái giọng Benny đang dùng để nói với mình. “Em còn hai nghìn trong tài khoản ngân hàng. Đáng lẽ sẽ nhiều hơn, nhưng em đang phải trả tiền để giữ ngôi nhà. Chắc sẽ ngốn ít nhất tầm ba nghìn nữa.”
“Anh không có tiền đâu,” Benny chen ngang.
“Ý anh là sao? Anh có kha khá mà.”
“Anh không còn tiền nữa.” Theo sau là một quãng lặng khá dài trong ống nghe. “Em có thể thử gọi Liên đoàn. Hoặc Bộ Ngoại giao.”
“Liên đoàn không ưa em,” Beth trả lời. “Họ nghĩ em chưa cống hiến hết sức cho cờ vua.”
“Đáng lẽ em nên tham gia mấy cái chương trình Tonight và Phil Donahue ấy.”
Beth nổi đóa. “Ôi lạy hồn, Benny. Thôi nhắc lại chuyện đó đi.”
Benny vẫn không dừng lại. “Em điên rồi. Em quan tâm quái gì đến đức tin của bọn ngốc đó chứ? Em đang cố chứng minh điều gì vậy?”
“Benny à, em không muốn đi Nga một mình.”
Benny đột nhiên lên giọng. “Đồ khốn,” anh quát lên trong ống nghe. “Em là đồ khốn điên khùng!”
“Benny...”
“Đầu tiên, em không chịu quay lại New York và giờ thì giở cái giọng đó. Hãy biến đi một mình đi nhé.”
“Lẽ ra em không nên làm vậy.” Cô bắt đầu cảm thấy lạnh sống lưng. “Lẽ ra không nên trả tiền cho họ.”
“‘Lẽ ra’ là một từ của mấy đứa thảm hại.” Giọng Benny giờ lạnh như băng.
“Benny, em xin lỗi.”
“Tôi cúp máy đây,” Benny nói. “Lúc mới gặp, em là một cái gai khó ưa. Bây giờ cũng vậy không khác gì. Tôi không muốn nói chuyện với em nữa.” Tiếng rụp trong ống nghe vang lên cụt ngủn. Beth chán chường gác điện thoại vào giá đỡ. Cô đã chính thức phá tung mọi chuyện. Cô đã mất Benny.
Trong một nỗ lực gắng gượng, Beth vẫn gọi Liên đoàn và chờ dài cổ mười phút để được nối máy đến chủ tịch. Ông ta nhã nhặn và thân thiện, chúc phúc và cảm thông cho