Chương 3
Vì sự xa cách đã quá lâu của chàng với gia đình, nhưng hình ảnh một người nằm chết cong queo với con mã tấu nơi ngực thì chừng như rất rõ ràng, rất bi thảm, một hình ảnh như nằm kề ngay bên, nhắm mắt lại chàng vẫn thấy hiện ra.
Bao nhiêu người đã chết như thế. Chàng không thể biết nhưng chắc chắn rất nhiều, những người cha, những người mẹ và cùng lúc những kẻ chết nằm ngoài bãi không ai nhận, không ai chôn cất... Bao nhiêu trẻ con bà già chết oan trong làn đạn vô tình tàn ác... Đó là thực tế mà nay hiện rõ trong óc và chung quanh Thạch.
Hiền nói:
– Ở quê bây giờ như trạch bỏ giỏ cua chẳng biết chạy đi đâu. Chiết lúc nào không biết. Vua Bảo Đại đã về rồi nhưng không biết rồi ra sao? Có điều dân quê chỉ biết làm mà ăn, không biết làm gì hơn, ai muốn làm sao thì làm, họ chỉ chịu đựng. Riêng em, em phải lánh đi, ở nhà không thể được.
Hiền muốn nói cho em tất cả những lo âu của mình, nhưng Hiền cũng muốn có em ở bên. Không phải chàng muốn em khổ, mà muốn có người để san xẻ những lo âu của mình. Ngay lúc đó Hiền lại muốn Thạch không phải khổ như mình, muốn Thạch sung sướng.
Hiền nói:
– Chú Hoành cũng đã ra tỉnh, em biết không?
– Nghe bác nói, nhưng em chưa gặp.
– Mai em phải đi, không thể ở nhà dược.
Thạch im. Mẹ và chị Hiền đã vào nhà, bóng hai người đi lui cui trong bóng tối. Thạch nói:
– Liệu bọn du kích còn trở lại.
– Bây giờ một thì bọn nó qua sông, hoặc đã xuống hầm rồi, lo là lo sớm mai Tây nó về lục soát, lại mất ít gà, lợn, hoặc bò, sớm mai anh sẽ đi với em lên huyện.
Hiền đứng lên:
– Thôi mình vào nhà, sương nhiều thế này dễ ốm lắm. Em thấy đó, đêm người dân cũng không được yên nữa huống chi là ban ngày. Và như thế làm sao để yên tâm làm ăn, ruộng vườn bỏ bê và đói. Nhà mình còn ít ruộng đó mà cày được cho có ăn đâu phải dễ gì, mà bán thì ai có tiền để mua.
Trở vào ngang sân, đưa mắt vào trong nhà bếp bỗng Thạch chú ý tới một vật gì đen ở trên nền đất, chàng đi vào và nhặt lên tay một khẩu súng lục nhỏ, Hiền ngạc nhiên:
– Súng ở đâu đó, em có súng sao?
Thạch giữ khẩu súng trên tay:
– Lúc nãy có một cặp trai gái vào dây. Nếu không nhầm, qua lời họ nói, anh đàn ông là một du kích, còn ả đàn bà là vợ một anh chàng đi lính ba–ti–giăng đóng ở ngoài Quần–ngựa...
– Chết cha, thật sao?
– Họ kéo nhau vào ân ái ở đây, lúc có hai người vào nhà họ im lặng và ẩn, trong khi vội vàng tên kia đã bỏ quên khẩu súng.
– Thế thì hắn sắp trở lại, nếu không mai cũng trở lại. Em nên bỏ vào đó, nếu mai họ mới lại thì sớm mình hãy cất... Anh biết là của ai rồi, không ngờ chuyện đó có thực.
– Ai vậy?
– Thằng Trạch và vợ thằng Tích ở cùng xóm. Không ngờ con nhỏ đó lại đến thế. Như thế chưa biết nó giết thằng chồng lúc nào. Chồng nó đâu đến nỗi.
Hiền và Thạch bước lên hiên nhà. Tiếng chị Hiền nói từ trong nhà ra:
– Cháy ở đâu vậy mình? Em sợ cháy dưới phía nhà bác Lĩnh quá.
Tiếng của chị Hiền run vẻ xúc động. Cháy dưới nhà bác Lĩnh, trong trí óc chất phác của chị Hiền hiện ra hình ảnh một căn nhà đổ nát. Gia đình bác Lĩnh vắng mặt. Đã chạy đâu? Hay đã chết. Tình nghĩa với một gia đình mà chị đã mang ơn trong thời gian tản cư khiến chị lo ăn không được. Anh Hiền trả lời:
– Không rõ lắm, nhưng có lẽ không phải nhà bác Lĩnh, vì nhà bác Lĩnh ở về phía sau cây đa, mà vừa xong anh nhìn thấy đám cháy ở mãi phía đầu chùa tay phải.
Tiếng đứa nhỏ khóc, chị Hiền vỗ về và ru. Mẹ Thạch nói run run:
– Đó, con thấy chưa, ở quê nào có yên gì, mẹ muốn con ở nhà cũng không được... Có đêm nào được ngủ yên đâu. Sống chết như trứng để đầu ngọn tre... Một hôm nào đại bác rơi vào nhà này chẳng hạn. Nói dại dột nếu vậy...
– Sao mẹ lại nghĩ thế.
– Thì có bao nhiêu chuyện đâu mình có thể nghĩ mà vẫn đến, nào loạn, nào giặc nào chuyện cho các con.
Chừng như bà mẹ lại bắt đầu khóc. Anh Hiền đã ngồi lên bộ ngựa đang xoa hai chân vào nhau cho đất bột rụng xuống.
– Mẹ nghĩ quẩn làm gì, có số cả. Chẳng lẽ trời bắt người ta chết hết sao, mà chết hết thì trời ở với ai...
Anh Hiền nằm xuống mệt mỏi. Thạch cũng leo lên và nằm xuống bên:
– Em có thấy sợ không. Chỉ có cách nhau vài chục cây số mà đã thế đó, rồi ở đây qua một dòng sông lại khác nữa...
– Em có mấy đứa bạn nó rủ ra khu. Em hỏi: ra khu làm gì. Chúng bảo đi tranh đấu. Như vậy là thế nào. Tranh đấu cho ai. Em bảo không biết gì hết. Bọn nó la: đồ nô lệ chỉ muốn ăn cứt Tây. Em nghĩ tức mình quá. Sao đơn giản như vậy. Ra xem để rồi trở về làm du kích như họ đó sao. Mà nào phải mình theo Tây gì.
– Nếu em ở đây, em rõ dân chẳng phải không đánh Tây, không đuổi giặc, nhưng họ cần sống, họ lại thấy Việt Minh cũng chẳng thương dân gì. Những gì xưa kia có, họ cũng lập lại như thế, chỉ khác người. Bây giờ đêm du kích về cũng bắt gà, bắt lợn, lấy tiền, thu thóc cũng đánh đập, bắt bớ phần nhiều vì tự thù, xem ra còn ác hơn cả Tây cả Nhật. Và Tây cũng diễn trò ấy. Thằng dân è cô ra chịu mọi nhục hình, cắn răng nuốt hận, hé miệng ra có khi toi mạng. Cũng tại dân chẳng theo ai. Nhiều lúc anh nghĩ, hay dân ta quen nô lệ rồi. Chẳng lẽ... có điều, nắm được địa vị, quyền lực ai cũng thành bẩn, thành ác... Thôi ngủ đi, mai em nên đi sớm... ở nhà cũng chẳng ích gì.
Anh Hiền trở mình nằm ngoảnh mặt vào phía trong. Thạch cũng xoay nghiêng ra phía ngoài. Đêm tối bít bùng lặng lẽ. Một không khí bít bùng che giấu những cơn sóng ngầm vận chuyển trong cuộc sống. Trong cả vùng Đoài giờ này chắc mọi người vẫn chưa nhắm mắt, hoặc có chăng cũng chỉ thiếp đi vì mệt nhọc.
Nằm đây nghe ngóng, bóng tối vây lấy, như cuộc sống, chàng mới thấu hiểu những đe dọa mà người dân phải chịu đựng, nhất nữa chừng như những đe dọa đến ngay với chính đời sống bản thân và những người ruột thịt của chàng. Trong mỗi gia đình đều đã có những người chết, những người chết mọi nơi, trong nhiều năm. Mỗi giờ phút đang, hay sắp tới bất cứ ai, một lúc nào đó nhắm mắt chết đi, hoặc mỏi mắt giãy giụa với cái chết... những gì được học, được nghe nơi nhà trường đã hoàn toàn trái với những gì chàng phải chứng kiến, phải sống trong thực tế.
Luật pháp, nhân phẩm, tự do... tất cả những gì chàng đã suy nghĩ đó đều vô lý trước chiến tranh, không cần luật pháp sinh mạng người ta được xét xử một cách mau chóng tàn nhẫn, có chăng nhân phẩm của những người có sức mạnh, đơn giản hơn, của người có một mẫu khí giới cầm tay, con dao nhọn, hay khẩu súng.
Chính nghĩa thắng, bao giờ chính nghĩa cũng thắng, những bậc thầy khả kính của Thạch đã nhắc đến nó từ bao lâu nay, nhắc đi nhắc lại... nhưng sao người Việt, với chính nghĩa là đời sống, là dân tộc mình, mà vẫn phải thua dưới sức tấn công xâm lăng của Pháp, của Tàu, những người không có chính nghĩa... cũng như chiến tranh hiện đại, dân chúng có muốn đâu vẫn bị xô đẩy vào các cuộc tàn sát bi đát thảm khốc không sao thoát ra được.
Căn nhà này, xóm làng này, từ bao nhiêu năm trước chàng vẫn hình dung ra một nơi êm đẹp, bình yên cho chàng có thể nương náu, nhờ cậy... như những kỷ niệm trong những mùa hạ đã trải qua, bây giờ... thiên đường đó đã bị tàn phá, tan hoang, và như thế tất cả những gì đã có trong quá khứ sẽ chẳng bao giờ còn trở lại nữa, như những căn nhà chung quanh đã cháy, đã đổ nát, như cha chàng đã chết. Chiến tranh vẫn chưa biết đến bao giờ mới chấm dứt...
Rất lâu trong đêm Thạch mới ngủ được.
Đoài là một làng nằm trong vùng ngay bên hữu ngạn sông Đáy, ngay bên đường quốc lộ chính Sơn Tây – Hà Nội, và cùng với con đường dọc theo xuống mãi Thanh Quang. Ngã ba Thá... làng Đoài nằm sát ngay bên bờ đê, con đê được coi như vòng đai phân ranh giữa hai vùng chiếm đóng của Việt Minh và Pháp. Đồn chính của vùng đóng ngay nơi chợ Đại Phùng, và dọc theo bờ đê nhiều đồn bót nhỏ tại Quế Lượng, Yên Sở...
Có thể thấy ở vùng đất đai đặc biệt đó một đời sống điển hình, những điển hình đau khổ, tranh chấp bi đát của cuộc sống dân quê. Trong khi đó chiến tranh cũng vây phủ trên khắp đất nước với sự có mặt của quân đội Pháp bên một chính quyền bù nhìn của Bảo Đại.
Đứng về phía Pháp để chiến đấu tự nhận là có chính nghĩa được sao?
Đứng về Việt Minh? nhưng Việt Minh là Cộng sản.
Giữa hai lựa chọn bắt buộc nếu phải nhận, Thạch và những bạn, những người cùng lứa với Thạch chắc chắn sẽ lựa chọn đứng về phía Việt Minh dù không phải là lựa chọn hay nhất. Đứng về phía đó để rồi cho một con đường thứ ba. Điều này Thạch không thể tìm kiếm, vì Thạch là thanh niên, còn ở tuổi hành động, ở tuổi những cảm tính còn mạnh. Đó là thực tế chua xót nhất.
Qua một đêm ngủ chập chờn những đe dọa không yên, Thạch thức dậy, không khí im lặng và êm mát, không khí mà đã bao lâu nay chàng không được biết đến, được sống và thở với nó. Tại sao lại có chiến tranh, Thạch vẫn tự hỏi một cách vô lý như thế, hỏi để không trả lời. Mà dù có trả lời cũng không thể dứt khoát được. Còn biết làm sao?
o O o
Trên mé bãi sông những ruộng mía xanh từng khoảng thưa thớt, dòng sông Đáy vẫn trôi, như từ bao nhiêu năm trước chừng như không có chút gì thay đổi. Có ai biết được, chung quanh dòng sông, những cơn sóng ngầm gào thét vẫn âm ỉ trong cuộc sống của người.
Thạch ngồi trên ghế để hai chân xuống nền đất, hơi mát thật dễ chịu, chàng ngồi yên lặng ngắm gian nhà ba gian cũ kỹ mốc mếch, chiếc bàn thờ xưa kia những đỉnh đồng, cây nến, những hoành phi câu đối nay không còn nữa, nay chỉ còn một chiếc bàn thờ mọt đã long sơn trên có một chiếc bát hương lớn, với hai cây nến gỗ nhỏ. Một chiếc màn đỏ bằng vải cũ che lấy phía trong một cái bài vị.
Những người chết cũng không còn được chăm sóc. Thạch mơ tưởng không khí vui vẻ cười đùa trong những ngày trở về quê trong quá khứ, những giỗ Tết về đây, bàn thờ khói hương nghi ngút, họ hàng và những người thân nói chuyện mùa màng, đồng áng, rồi chuyện tương lai những con cháu trong gia đình.
Cùng không khí rộn rịp của các vụ mùa, mùi lúa thơm nồng trên khu sân gạch và tiếng đập lúa vang lên... Bây giờ cảnh tiêu sơ điêu tàn bày ra đó.
Chị Hiền mở cửa bước vào. Thạch giật mình.
– Mấy giờ rồi chị.
Chị Hiền ngừng lại:
– Ở nhà quê đâu có đồng hồ. Em tưởng ở đây là tỉnh sao. Cũng trưa rồi đó.
Thạch đứng xuống, đi ra cửa, nhìn lên mặt đê:
– Chị đã thấy xe họ xuống chưa?
– Chưa, ít ra cũng gần đứng bóng. Em đi chứ?
Thạch ngoảnh lại nhìn chị Hiền, vẻ buồn ở đó.
– Mẹ và chị muốn em ở nhà ít bữa, nhưng không được đâu. Sáng nay trước khi anh đi bãi, anh đã dặn mẹ và chị bảo em chờ xe mà đi. Mới đầu anh tính ở nhà, cùng em lên huyện, nhưng có việc dở anh phải đi làm cho xong, bây giờ ở nhà chỉ có mình anh bỏ không được.
– Vâng, em đi. Chờ xe xuống em sẽ ra đón. Mẹ đâu chị?
– Mẹ ở dưới bếp. Chị Hiền lúi húi dưới gầm giường:
– Chị bỏ một ít khoai vào bị cho em ra làm quà, ở tỉnh thì chẳng thiếu gì, khoai thì rẻ rề nhưng của nhà vẫn quý hơn.
Thạch nhớ tới đám cháy đêm qua vội hỏi:
– Chị đã biết cháy nhà ai đêm qua không?
– Cháy nơi nhà ông bà Khiêm, sáng chị đã xuống rồi. Thật khổ, đạn rơi vào nhà bà ấy và một đứa con gái chết, còn ông ấy và người con trai thì nằm ở nhà ngang nên thoát. Đạn rơi vào rồi bốc cháy ngay, hai người chết cháy thui, xác của ai cũng khó nhận ra. Tội nghiệp, nhà ông ấy ăn ở phúc đức hiền hậu chớ đâu đến nỗi nào. Thật trời không có mắt. Sáng xuống trông cảnh thảm quá, cầm nước mắt không được. Cũng may, nếu ngủ hết cả nhà ở đó thì chết cả rồi còn đâu. Nhà ông ấy lại có vườn, ruộng xung quanh nên đám cháy không lan ra được, nếu không còn khối người khổ.
Chị Hiền chép miệng thở dài, chị cố gắng nhồi cho khoai đầy bị, buổi sáng trước khi đi anh Hiền có lẽ đã căn dặn chị phải lo một vài thứ quà nhà quê cho em mang ra tỉnh. Chị đã có dịp ra tỉnh, trông thấy cuộc sống sung sướng xa hoa của người tỉnh thành nên chị thấy cái gì ở quê cũng rẻ rúng tầm thường nhưng có gì để làm quà, ngoài khoai, ngô, một ít trái chanh, hoa quả cũng không phải mua.
Chị nhìn đứa em thẫn thờ mà thương vô hạn, mới hôm nào nó còn nhỏ tí, nay đã gần như lớn, dù vậy nó vẫn không được sống ở bên để có mẹ và chị săn sóc cho.
Nếu không có loạn thì đâu Thạch phải chịu đựng nhiều thiệt thòi như vậy. Nghĩ thế chị Hiền ứa nước mắt, thương em một phần chị còn xót xa cho chính chị nữa, nếu không loạn, với gia tài của cha mẹ dành chia cho chị, cùng với của cải ruộng vườn của chồng ít ra chị cũng là một người có máu mặt ở làng này, ai ngờ bây giờ chị phải đầu tắt mặt tối, cùng với những lo âu cho chồng con, mẹ già và một đứa em, dù sao cũng sung sướng hơn cả nhà. Loạn lạc đến nỗi chị em muốn được ở gần nhau ít ngày cũng không được.
Chị Hiền nhắc bị khoai nói với Thạch:
– Chị chỉ bỏ vào ít thôi em mang đi cho nhẹ.
– Mang ít em cũng ngại, chỉ muốn đi tay không, nên lúc về em có mang gì đâu. Bác nói quá chừng.
– Thôi em cố mang mấy củ khoai này thôi, về ít ra cũng phải có một chút quà gì chứ.
Thạch xuống sân, nắng đã lên ngang ngọn tre, khoảng bóng mát của căn nhà còn đổ hết hai phần ba khoảng sân gạch, màu gạch cũ đóng rêu và những khu gạch bằng vôi đá bị soi mòn, có chỗ cỏ đã mọc cao đầy vẻ hoang liêu. Bên phía tường, nơi cây mít một dây gấc leo lên um tùm che gần hết ngọn mít. Ở đó Thạch nhìn thấy hai quả gấc chín đỏ. Thạch đứng ra bên kiểng chân, ngó qua bên kia, chàng có ý tìm dấu tích một lối đi, một chỗ ẩn giấu mà chàng nghĩ có lẽ bọn du kích còn nằm đâu trong đó.
Ngó đầu qua chàng không thấy gì ngoài một khu vườn hoang, đó là một khu vườn mia đã bị đẩ hoang nhiều lần và những đợt mía liên tiếp mọc lên, những thân mía thấp và nhỏ chỉ bằng ngón tay út, những thân mía không phải để ăn... cùng những hàng mía, bao loại cây hoang mọc chen lấn.
Thạch nhận ra lối đi của những bóng đen đêm trước nhờ một vài ngọn cây nhàu và gẫy. Họ đi vào sát vách tường đầu nhà sang căn nhà phía bên kia, một căn nhà lá thấp.
– Con sửa soạn rồi ăn cái gì mà đi chứ...
Thạch quay trở lại:
– Mẹ có thấy hai trái gấc chín không?
– À, phải rồi, con hái lấy đi, mang gấc ra ngoài cho bác con nấu xôi, ở nhà đường không có muốn nấu cũng không được.
Mẹ Thạch đi tìm chiếc sào đưa cho Thạch. Khó khăn và rất lâu Thạch mới kéo được dây gấc xuống.
Chàng ra bên chum nước múc nước ra chiếc chậu thau kê bên chiếc cối đá nơi gốc cau rửa mặt. Chàng thấy đói một cách cồn cào khó chịu. Con đường đê vắng tanh không một bóng người qua lại. Không khí sinh hoạt êm tĩnh chừng như không có một hơi thở, một cử động nào ở bất cứ đâu, và mỗi người chừng như thu mình vào một góc nhỏ.
Một tiếng động nhỏ ở đâu vút lên, loãng tan trong im ắng, một cánh cò trắng trên một ngọn tre cao nào đó.
Tại sao chiến tranh vẫn kéo dài? Thạch vẫn tự hỏi như thế. Từ chàng cho đến những người thân, và mọi người dân Việt khác trên đất nước chắc chắn không ai muốn có chiến tranh. Nhưng vẫn có chiến tranh.
Thạch mơ hồ cảm thấy nỗi chua xót và chàng nghĩ chiến tranh sẽ còn kéo dài, cuộc sống của chàng chưa biết rồi sẽ đưa đến đâu. Trong chiến tranh bi thảm ở ngoài ý muốn này. Thạch thẫn thờ nhìn lên nền trời. Cha chàng đã chết, nhà cửa hoang liêu, và mỗi giờ phút bao người đang chết, những người chết phơi xác như ở ngoài đầu làng
Bà mẹ cất tiếng nói:
– Thôi con cứ yên trí ra ngoài đó lo học hành, rồi phải thanh bình chứ đánh nhau mãi như thế này được sao.
Những đe dọa chết chóc, nghĩ tới bốn xác chết ngoài đầu làng Thạch rùng mình. Thạch nhớ tới khẩu súng đêm qua còn để nơi nền bếp nên đi vào, không thấy đâu, chàng hỏi chị Hiền:
– Chị có thấy gì ở bếp sáng nay không?
Chị Hiền nhìn lên mặt Thạch:
– Khẩu súng phải không?
Thạch ngạc nhiên:
– Sao chị biết.
– Anh nói.
– Nó đâu rồi.
Chị Hiền nhỏ giọng:
– Anh đã cất đi rồi, sợ tối họ vô họ hỏi lại rắc rối ra. Thế nào tối họ chẳng trở lại. Cất đi như vậy, chứ Tây nó về mà khám thấy là chết oan.
Chị Hiền bắc nồi cơm xuống, nói với Thạch:
– Thôi em lên ăn cơm, rồi còn đi.
Thạch đứng lại, nhớ cảnh hôm qua ở đây, lúc sau chàng mới lên nhà. Vừa bưng cơm định ăn bỗng chàng giật mình, một tiếng nổ lớn vừa vang lên đâu ngay ngoài phía đầu làng, chỗ mấy người bị bắn chết, tiếp theo mấy tràng đạn nổ liên tiếp. Mẹ và chị Hiền đã ngồi thụp ngay xuống đất và Thạch cũng vội làm theo. Chị Hiền nói:
– Tây nó về rồi. Nghe điệu này chắc bị mìn của du kích. Bọn nó sắp xông vào làng
Mặt chị Hiền tái xanh. Sau mấy tràng đạn không khí lại im lặng, Thạch nhô đầu lên khỏi bậc cửa nhìn ra bờ đê vẫn vắng tanh, trên nền trời mấy con quạ bay cao im lặng.
Thạch nói:
– Như thế này còn làm ăn gì được.
Mẹ chàng:
– Nhưng vẫn phải làm, không thì đói. Có người đang cày ruộng cũng bị bắn chết, chẳng biết là đạn lạc hay là súng bắn chơi. Tây nó cũng quái ác lắm, hôm ở dưới chợ mẹ đã thấy một cảnh chết khiếp, bọn nó bắt một cô gái đứng dựa lưng vào thân cây cho nó làm bia. Nó đố nhau bắn ở xung quanh. May đạn không lạc, nhưng cô gái ngất xỉu bây giờ thành điên vì khiếp đảm, cô ta ở ngay làng dưới. Như thế thà bị bắn chết cho xong. Sống làm gì cho khổ thêm.
Bà mẹ tép miệng. Chị Hiền thêm:
– Nếu em ở nhà sẽ còn thấy bao nhiêu chuyện thương tâm nữa. Những chuyện mà chắc em không bao giờ ngờ được.
– Sao có tiếng nổ mà vẫn không có gì?
Bỗng Thạch kêu lên:
– Có một người chạy ngoài bờ đê.
– Hay họ phục kích Tây ở đồn về.
– Là đàn bà, chạy vào phía nhà mình. Trông không rõ...
Chị Hiền ngồi nhìn ra, người đàn bà đã qua phía cổng tới sân đi vào nhà, dáng hớt hải lo âu, Thạch ngạc nhiên:
– Bác Cai đi với em hôm qua thì phải.
– Đúng rồi chuyện gì vậy không biết.
Bác Cai đã bước lên thềm nhà, chị Hiền nói:
– Có bác Cai lại mẹ ơi.
Mọi người đứng lên Thạch cúi chào, chị Hiền hỏi:
– Chuyện gì ngoài đó thế bác. Bác gan quá, không sợ đạn nữa sao.
– Sao lại không sợ, tôi xuýt chết nên chạy đại vào đây. Du kích họ phục ở ngay đầu làng, đặt mìn giật sập cầu Đầm... Tôi vừa ra tới nơi thì mìn nổ. Tây nó chạy cả xuống mé đê... nguy quá mất, tôi tính lên huyện.
Chị Hiền mở mắt lớn:
– Cầu Đầm bị sập rồi sao?
– Tôi thấy sập rồi, sau khi có tiếng nổ khói bụi mù mịt, Tây nó nấp rồi chỉ bắn có hai tràng đạn. Tây nó chết đâu chưa biết nhưng chắc là người thường thế nào cũng có người chết, họ đang đi làm và đi chợ. Tôi mà đi nhanh một lúc nữa thì cũng ra ma rồi. Người ta chạy quá trời và có lẽ vì vậy Tây nó không bắn thêm.