← Quay lại trang sách

Chương 4

Từng loạt đạn nổ chát chúa bay lên đầu, mỗi lúc một dồn dập, những viên đạn vô tình. Mùi khói súng chừng như phảng phất trong không khí.

Thạch nằm sấp người, mùi đất ẩm, một mùi mốc cũ rất thân thuộc, mùi mốc của quá khứ rất xa xôi nào đó. Trên nền đất này bố chàng đã giẫm lên, ông, bà và bao nhiêu người thân yêu đã giẫm chân lên, và rồi những bàn chân những người đó mất dần đi, nền đất, căn nhà vẫn còn đó, còn mãi cho tới những người rất xa sau này không biết mặt, biết tên, kế tiếp nhau sẽ còn đi, để lại dấu vết trên nền đất này nữa.

Bác Cai hỏi:

– Điệu này thì phiền lắm. Tôi tính lên huyện mà đi không thoát mất. Thế cậu Thạch tính ở nhà sao.

Bà mẹ:

– Nó không dứt khoát gì cả, tôi cũng muốn nó ở nhà ít lâu, nhưng tình thế này ở sao được, mà có khi còn chết nữa là khác, nên tôi cũng đã tính và sáng nay cháu nó cũng đi, nhưng chờ xe xuống mới đi.

– Chắc gì xe nó xuống nữa. Sáng qua họ đã nói với tôi như vậy. Phải lên huyện. Ba cây số mình có thể đi được.

Tiếng súng ngưng và chừng như hơi xa.

– Có lẽ Tây nó đã sang bên kia đầm, hắn du kích đang chạy tháo thân. Mà có khi chẳng có ma nào cả.

Thạch ngóc dậy ngó mắt, chàng kêu:

– Lại cháy nữa rồi, gần lắm.

Từ phía bên kia mặt để một vùng khói đen lớn đang bốc lên. Cơn gió lặng khiến cho đám khói đen cuộn lên rất lớn. Bao nhiêu căn nhà đang làm mồi cho ngọn lửa ở bên đó. Và người chết.

Từ ngoài của một người ôm chân đang cố lết vào nhà. Thạch nhỏm đứng dậy.

– Một người bị thương.

Chị Hiền hỏi:

– Đâu?

– Đang ở ngoài sân.

Thạch vừa nói vừa bước ra. Tiếng súng lại nổ liên tiếp và gần hơn. Thạch nhảy ra xốc lấy nách cho người đàn ông đỡ lấy. Ông ta vào khoảng gần năm mươi, quần áo nâu cũ hôi hám. Thạch hỏi:

– Sao ông bị thương.

– Tôi đang đi, bây giờ họ bắn nhau. Tôi không có chỗ tránh.

Thạch và người đàn ông đã bước lên hiên vào nhà, chàng bảo người đàn ông nằm xuống đất. Mẹ Thạch, Hiền và bác cai trố mắt nhìn người lạ, mỗi người đều tự hỏi xem đó là ai. Một dấu hỏi đến: có phải đó là một du kích không. Bởi vậy họ cũng có chút gì lo âu và sợ sệt. Nếu là một du kích thì nguy cho họ.

Bà mẹ hỏi:

– Ông ở đâu?

Ông ta đã nằm xuống, Thạch kéo chân quần lên, chàng đã nhận ra vết thương ở ngay nơi bụng chân trái, vết thương cũng không có gì làm nguy hiểm, nhưng máu ra nhiều quá, mà ở đây thì không có một tí thuốc nào. Thạch không biết phải làm sao. Chàng hỏi bâng quơ:

– Phải làm sao bây giờ. Máu ra nhiều nguy lắm.

Bác Cai:

– Phải làm sao?

Bà mẹ:

– Lấy mấy tờ giấy bản đốt ra dịt lại, như vậy có thể cầm máu được.

Thạch nhìn vào vết thương, tay đang xé lấy mảnh quần của người đàn ông.

– Nhưng vết thương hơi lớn.

Bác Cai ngần ngại một lúc rồi nói:

– Tôi có thấy người ta làm một cách – Bác Cai ngần ngại vẻ ngượng nghịu:

– Người ta lấy lông ở chỗ kín, đốt lấy một chút đem dịt, máu có thể cầm ngay.

Chị Hiền, bà mẹ và cả Thạch đều ngượng nghịu, sao có vẻ quái ác.

Người đàn ông kêu khát nước. Bác Cai khua tay:

– Khát ông cũng không nên uống, chỉ nhấp một chút thôi, nếu không máu ra nhiều thì nguy lắm.

Thạch bảo mấy người vào buồng, chàng nói ý kiến của bác Cai cho người lạ nghe. Lúc đó Thạch đã buộc vào vết thương một miếng vải, nhưng chỉ một lát máu đã thấm ướt hết và máu bắt đầu chảy ra ngoài. Nước da người lạ tái xám đi. Ngoài đám cháy vẫn bốc cao, khói đen lan rộng, tiếng súng nổ đều nhưng thưa hơn, bỗng từ ngoài mặt đê một đoàn xe nhà binh Pháp mở máy chạy xuống, xe vừa chạy vừa có tiếng súng nổ, chừng như bắn để thị oai nhiều hơn.

Ba người đã vào buồng. Ở đó bà mẹ mới hỏi:

– Bác Cai có nhận ra đó là ai không? Chừng như tôi đã có gặp một lần.

– Du kích sao?

– Du kích huyện thì phải.

Chị Hiền lo sợ:

– Mẹ có chắc không?

– Mẹ vừa thấy ở trong túi áo ông ta rớt ra một viên đạn. Nhất nữa nếu mẹ không nhầm, có một buổi họp đêm phát động quyên tiền dân làng ông ta có mặt ở đó, nhất là cái giọng nói khàn khàn khó quên.

– Thế phải làm sao, ngộ bây giờ Tây nó ập vào đi ruồng xét, Tây nó khôn lắm, sau mỗi khi có phục kích nó đi kiếm theo vết máu... Như thế là mình chết oan mà không sao cãi được... và Thạch...

Chị Hiền rên.

Ngoài nhà Thạch theo ý của bác Cai, làm đúng như vậy, người lạ đã gần như lả đi.

Nhờ một chút than, máu đã đọng lại nơi vết thương, chàng lấy một miếng vải khác lớn hơn và buộc chặt vết thương.

Thạch mang cho người đàn ông thêm một chút nước. Chàng hỏi:

– Ông ở đâu?

Đôi mắt sâu, trong mắt đục, đôi lông mày đậm một nửa về phía sống mũi. Lông mi gần như không có, người đàn ông lạ mệt mỏi như muốn nhắm lại.

– Bác Cai tính lên huyện làm gì?

– Đi thu cho xong một số tiền hàng còn đọng lại, tình thế khó khăn quá.

– Bác tính bỏ không buôn bán gì nữa sao.

– Hàng họ chính nào ăn thua gì, mấy thứ hàng cấm thì bây giờ mang không được, phần vì khám xét biết nó lấy hết, phần vì họ ăn chặn nhiều quá, xe cộ đi về bây giờ lại nguy hiểm nữa. Điệu này rồi đến cũng chết đói mất.

– Chết đói, trời sinh voi trời sinh cỏ bác ơi. Lo quá làm gì, nhất là với bác, chẳng làm việc này làm việc khác. Thế còn thằng nhỏ.

– Tôi mang nó ra tỉnh cho đi học.

Bác Cai xúc động ứa nước mắt, bác kéo vạt áo lên lau mắt. Chồng bác chết đã hơn năm năm. Lúc người chồng chết đi đang làm cai lính khố đỏ, bác Cai đã chết một cách thảm khốc vào giữa lúc đảo chính Nhật, không hiểu vì sao đó, bác bị Nhật chặt đầu giữa chợ, được tin người vợ mang đứa con trai độc nhất năm tuổi lên nhận xác chồng bỏ vào chiếc quan tài mộc để lên chiếc xe bò mang về làng.

Hai vợ chồng lấy nhau cho đến khi chồng chết đi hơn mười năm chỉ được một đứa con trai. Sau khi chồng chết, dân làng vẫn nghĩ thế nào bác cũng đi lấy chồng khác, nhưng đã năm năm bác Cai vẫn ở vậy, tần tảo nuôi đứa con, và còn tậu được thêm hai sào ruộng nhờ sức tần tảo của mình. Ai nhìn vào bác cũng phải khen ngợi. Bác chỉ nói: phải gầy dựng cho con người chồng lúc còn sống đã yêu thương vợ, bác Cai vẫn cho là ở làng chưa có ai như thế, dù là cai, người chồng chưa bao giờ lớn tiếng hay đánh vợ một bạt tại nhẹ nào. Trái lại ở trong làng, bác Cai thấy những chuyện vợ chồng lớn tiếng đánh chửi, kiện cáo, bỏ nhau vẫn thường xảy ra.

Từ khi hồi cư, nhờ vào tài tần tảo xuôi ngược đã quen, bác Cai với một vốn nhỏ những tờ giấy bạc Đông–dương cất kỹ nơi cạp quần, bác đã lấy ra và bắt đầu một chuyến buôn mới. Nhật đánh Pháp, rồi Việt Minh, bác Cai vẫn nghĩ, rồi Pháp trở lại, những đồng bạc cất đi nơi từ ý nghĩ đó, và đã thấy sự thật. Bắt đầu đi buôn, bác Cai mang vải từ làng lên huyện, rồi từ làng đi Sơn, những chuyến xe hàng lưu thuyền, từ Sơn bác mang những củ nâu, những măng khô và các thổ sản khác mang về làng bác đi những chỗ quen biết dạm hàng, bác xem họ cần bán gì, mua gì, từ đó bác lên xe, những chuyến buôn đi đường không bao lâu, bác đã bắt đầu đi Hà–Nội mua hàng hóa thị thành về làng, những vải chúc bâu, ít thuốc ký ninh, aspirine, thuốc cam trẻ em và dần dần bác buôn lậu thuốc, thuốc lá, đồng hồ, bút máy bán cho những người ở ngoài. Thời gian đầu nhờ ít người đi buôn, những chuyến buôn dù nguy hiểm nhưng mang lại cho bác Cai nhiều món lãi lớn. Bác Cai đã có bộ mặt thay đổi, chiếc áo cánh trắng mới, những phong bánh khảo Hải Dương, những chiếc bánh tẻ răng bừa từ Sơn mang về, thằng Thược, con bác đi học trường làng với một chiếc cặp da mới cả làng không ai có.

Những con đường đá bị cuốc lên liên tiếp, những ổ mìn hờm sẳn, suốt trên những con lộ đó đã nhiều phen làm bác muốn bỏ cuộc, tính mạng nhiều khi như treo trên sợi tóc, những lần bị nằm giữa cánh đồng không cả đêm, những lần bị lính Tây bắt giữ... nhưng bác đã thoát khỏi một cách may mắn dù mất một đôi chuyến hàng nhưng không đáng bao nhiêu.

Trong những chuyến buôn đó, bác Cai đã thấy một người theo đuổi mình...

Không khí lo âu chờ đợi vẫn kéo dài. Chưa thấy bóng Tây nào xuất hiện. Rất xa thỉnh thoảng một tràng súng nổ, mặt trời đã lên hết cả mặt sân gạch. Thạch lo âu nhìn đám khói đen phía bên kia bờ đê vẫn chưa tan. Bác Cai nóng ruột:

– Tôi phải liều mà về nhà thôi, tôi ngồi đây cũng không yên.

Bác quay sang Thạch:

– Cậu Thạch tính bao giờ đi.

– Tôi định sáng nay đi, thế này làm sao đi được. Mà ở thì đâu yên, lỡ một cái... còn bác.

– Tôi cũng đang phân vân. Định lên huyện thu xếp vài việc rồi tôi ra tỉnh luôn, ruộng vườn ở nhà tôi đã giao cho ông cậu rồi. Tôi có chỗ bán hàng ở ngoài đó.

Bà mẹ nhìn bác Cai rồi Thạch:

– Hay là bác đi cho cháu nó cùng đi với cho vui, đỡ sợ, nó lại không quen thuộc, nó đi một mình tôi lo lắm. Hay bây giờ bác về nhà đón cháu rồi đi luôn, chắc là phải đi bộ lên huyện.

Chị Hiền xen vào:

– Đi bộ lên huyện như vậy cũng sợ lắm. Đường đi đâu dễ gì, dù có ba cây số, nhưng Tây nó gặp lớ quớ là chết.

Bác Cai đứng lên, ra khỏi nhà. Thạch cũng đánh bạo ra sân. Chàng nói:

– Chắc Tây nó đuổi du kích qua sông, chẳng lẽ họ lại nằm mãi ở ngoài đê hay sao.

Chị Hiền:

– Biết đâu được. Mới lần nào đó, nó về nằm im he, dân làng đi qua nó dặn cứ yên mà đi như thường, đừng quay lại, đừng có thái độ gì cả. Tưởng ngon lành, du kích đi sau bị thộp trọn ổ... có lẽ bây giờ nó đang nằm chờ ngoài đó.

– Thế biết làm sao giờ. Đi ra dọc đường dám có chuyện lắm.

Tiếng lợn kêu dưới chuồng, chị Hiền đưa cháu cho mẹ rồi đi ra sân:

– Quên không cho lợn ăn, nó phá chuồng bây giờ.

Thạch mặc quần áo và sửa soạn. Người đàn ông bị thương vẫn còn nằm trên phản chừng như thiếp đi. Thạch nói với mẹ:

– Thế con người bị thương này. Phải làm sao?

– Ông ta có thể đi được không?

– Đi được nhưng sợ vết thương có thể nứt ra và nhất nữa ông ta bị mất nhiều máu rất mệt, mà để ông ta nằm đây cũng không xong đâu, một phần vì vết thương, một phần có thể bị khám xét.

Thạch nhỏ giọng:

– Con tính nói thẳng với ông ấy.

– Nói sao?

– Nói ông ấy nên tìm cách ẩn đi, vì mình biết ông ấy là du kích rồi.

– Làm sao thì làm, nhưng con phải nhớ điều này: mình không thể bỏ làng mà đi được đâu đó. Có chuyện gì là tối du kích về họ làm mệt mình.

Thạch ra bên người đàn ông. Vết thương đã không còn chảy máu nữa, những khoảng máu trên lớp da đen đã đóng lại làm bết những sợi lông chân. Một người du kích cũng chỉ là một người như nhiều người. Chàng để ý nét mặt có phần nào dữ dằn, khó chịu, đôi lông mày đen rậm có vẻ gì tàn nhẫn. Nếu bây giờ Tây ập vào, chẳng riêng gì số phận người này, mà cả chàng, cùng gia đình và căn nhà này nữa cũng không còn. Phải làm sao Thạch tự hỏi. Chị Hiền đang dùng tro xóa bỏ những vết máu kéo dài từ ngoài cổng vào tới hiên. Phải nói với người này ra sao. Họ có thể trả thù gia đình này.

Người đàn ông cựa mình rồi mở mắt, Thạch vội hỏi:

– Ông thấy thế nào? Tôi đang định đánh thức ông dậy.

– Cho tôi xin chút nước. Chết thật, tôi ngủ lâu không? Sao không đánh thức tôi?

– Tôi biết ông mệt, ông vừa thiếp đi thôi.

Thạch cầm ấm nước gần đó rót vào bát rồi đưa cho người đàn ông:

– Nếu tôi không nhầm, ông là du kích.

Người đàn ông ngưng uống. bỏ bát xuống nhìn chàng chăm chăm như muốn bỏ chạy.

– Ông nói sao? Ông nói sao?

– Ông nên yên tâm, tôi muốn nói thật với ông. Ông đừng sợ. Tôi biết ông là du kích, nhưng tôi đâu phải là mật thám hay Việt gian đâu. Phải tìm cách trốn đi. Tôi lo Tây nó trở lại nguy hiểm cho ông.

Người đàn ông thần người, Thạch nói tiếp:

– Ông thấy vết thương thế nào?

Người đàn ông hơi cử động nơi chân bị thương:

– Không can gì.

– Ông có thể đi được không?

– Được, nhưng tôi biết trốn đi đâu?

Trốn đi đâu, Thạch cũng thấy vậy. Nhất nữa lúc này ra khỏi đây có thể bị Tây bắt rồi.

Người đàn ông ngồi bỏ hai chân xuống đất:

– Hết đánh nhau rồi sao?

– Súng xa dần, không hiểu ở ngoài đó ra sao. Có điều cháy lớn ở mé trước mặt cũng không xa lắm.

– Tức là bên ta thua.

– Hình như thế. Chừng như Tây nó đuổi theo du kích. Tôi lo họ trở về càn quét ở đây.

– Như vậy thì nguy cho tôi.

– Chính tôi cũng đang lo cho ông, và cho chúng tôi nữa. Nếu Tây nó vào gặp ông ở đây, chắc ông sẽ nguy, cả chúng tôi nữa.

– Hình như anh mới về. Tôi thấy anh lạ.

Thạch mỉm cười:

– Vâng tôi xa gia đình, mới về mấy ngày nay.

– Anh về chơi.

Thạch lưỡng lự:

– Tôi về ở đây.

– Anh ở tỉnh về?

– Vâng.

– Anh theo giặc.

– Ông bảo tôi theo giặc. Theo giặc mà sao tôi không bắt ông. Chẳng hạn thế, giao ông cho giặc chắc tôi sẽ được thưởng.

– Anh ở tỉnh là anh theo giặc. Tại sao anh không đi kháng chiến.

– Tôi còn nhỏ, tôi không, hay chưa phân biệt được rõ ràng. Có điều theo giặc thì tôi không theo.

Bà mẹ từ trong buồng đi ra:

– Sao, ông thế nào?

– Cám ơn cụ, tôi không hề gì cả. Con cụ đang không muốn tôi ở đây.

– Ấy chết, sao thế được.

Thạch vội đỡ lời:

– Không, ông hiểu nhầm ý tôi, tôi nghĩ đến nguy hiểm cho ông, và luôn cho tôi nữa. Ông có nhận thấy nguy hiểm khi Tây nó vào đây không?

– Anh đã đi báo với Tây phải không?

– Ông cho tôi là người thế nào. Đi báo Tây. Sao tôi chưa trói gô ông lại.

Người đàn ông nhanh như chớp rút từ sau lưng ra một khẩu súng lục và đứng dậy lùi vào phía bàn thờ:

– Nói ngay, đã đi báo Tây chưa.

Chị Hiền ở hiên bước vào dừng lại và như muốn bỏ chạy. Bà mẹ hốt hoảng:

– Ông đừng hiểu nhầm chúng tôi. Chúng tôi đâu tồi tệ thế. Chúng tôi ăn ở còn nghĩ đến con cháu mình chứ. Ông đừng làm vậy tội cho thằng con tôi, nào nó có biết gì cho cam.

Thạch hơi choáng váng về thái độ bất ngờ của người đàn ông. Bà mẹ nghĩ ngay đến cái chết thảm khốc của người chồng. Người đàn ông lăm lăm khẩu súng, Thạch cố gắng bình tĩnh:

– Tôi thật tâm với ông, trong khi ông lại nghi tôi. Thật tôi chẳng biết làm sao. Tôi hỏi ông:

– Vậy ông không tính trốn đi hay sao? Chân ông còn đau chưa thể đi xa được, tôi muốn ông ẩn tạm vào chỗ nào đó rồi đến tối, các ông ấy về hãy hay. Nhất nữa bây giờ có khi nó vẫn còn vây ở chung quanh đây.

– Mày định nhốt ông phải không.

Thạch quay đi, hai tay như phân vua:

– Thôi tùy ông.

Súng lại nổ liên hồi, rất gần, bà mẹ bế đứa cháu ngồi thụp xuống. Chị Hiền bước vội qua ngưỡng cửa rồi đóng ngay lại. Người đàn ông vẫn giữ thế đề phòng. Thạch cũng ngồi xuống đất:

– Có khi Tây nó bắt đầu trở lại.

Từng loạt đạn nổ chát chúa bay ngang vào mái nhà làm rơi nhiều vụn ngói. Thạch lết ra bên cửa nhìn qua khe ra bờ đê:

– Nó đang đi trên đê, chừng như nó bắt đầu vào làng…

Tiếng súng thưa và chừng như xa. Người đàn ông men vào phía buồng. Thạch kêu lên:

– Nó vào rồi.

Thạch không biết phải làm sao chỉ còn cách nằm xuống đất, ngực chàng rộn lên vì hồi hộp. Tiếng nói của hai tên lính từ ngoài sân vọng vào. Cửa bị đạp mạnh mở tung ra, Thạch nhỏm dậy, một mũi súng từ tay tên lính lê dương chĩa vào người chàng với con mắt đề phòng. Bà mẹ run lên, chị Hiền gần như thói quen giơ hai tay lên khỏi đầu. Thạch cũng làm theo. Tên lê dương lắc đầu và hất mũi súng ra dấu bảo đi ra ngoài, cả ba người đứng lên theo lệnh. Tên lính thứ hai xộc về phía buồng. Thạch nghẹt thở vì lo. Người đàn ông lạ còn ở trong đó. Chàng thấy số phận chàng đang bị đe dọa, tiếng đồ đạc bị đạp đổ, có tiếng chiếc chum bị vỡ, lúc sau tên lính trở ra.

Tiếng súng vẫn nổ từ ngoài. Từ cổng đi vào một tốp lính khác. Thạch nhận ra một người bị trói, bên đó có hai người Việt một là lính, một là thông ngôn đang nói gì với một viên quan một Lê–dương khẩu súng lục còn cầm tay.

Viên quan một chỉ chỉ xuống những vết tro nơi sân, viên thông ngôn chăm chú ngó theo. Họ tiến đến bên Thạch.

Viên thông ngôn hỏi:

– Có Việt Minh nó chạy qua đây phải không? Nó đâu?

Thạch hơi run. Phải nói sao. Chàng chỉ ra chỗ đầu nhà, nơi tường thấp. Bây giờ nói không cũng chẳng giấu được:

– Có một tên bị thương ở chân, hắn leo qua chỗ tường kia.

– Thật không?

– Tôi giấu ông sao được? Ông cứ khám thì biết.

Viên thông ngôn hơi mỉm cười:

– Còn hầm bí mật nào không.

– Dạ không.

– Anh là người thế nào?

– Tôi là học sinh, con của mẹ tôi đây.

Bà mẹ xen vội vào:

– Cháu nó vừa ở tỉnh về thăm tôi hồi sáng qua.

– Biết đâu được, hay về đây để trốn qua bên kia. Đưa giấy tờ đây coi.

Thạch đưa giấy tờ cho viên thông ngôn, hắn xem xét và nói với viên quan một.

Phía ngoài cổng có tên la lên rất lớn, rồi một tràng đạn nổ ran sau hai tiếng súng nhỏ. Cả bọn vội nép mình vào ngay chỗ tường bếp. Một tên lính chạy vào:

– Một đứa vừa chạy từ phía sau nhà ra có súng, tôi đã hạ được.

Viên thông ngôn quắc mắt lên ra lịnh:

– Trói tên này lại.

Tên lính liền giữ lấy Thạch và trói bắt chéo tay về sau lưng. Bà mẹ òa lên khóc:

– Lạy quan lớn, lạy quan lớn, oan cho cháu, nó vừa ở tỉnh về thăm con...

Thạch gần như không còn phản ứng kịp với những bất ngờ xảy ra. Hai tên lính đang kéo từ phía bờ ao vào một xác người. Thạch nhận ra đó chính là người đàn ông lúc nãy. Hắn ta đã ẩn đâu đó. Viên thông ngôn hỏi:

– Chết hay sống?

– Chưa chết.

Tên lính chỉ vào chân:

– Nó bị thương lúc sáng và đã được băng bó. Đúng nó là du kích rồi. Một khẩu súng nó liệng xuống ao.

Tên quan một đưa chân đạp lên ngực người đàn ông. Máu đen trào ra miệng ướt lênh cả sân gạch. Hắn mở mắt miệng kêu ú ớ, đôi mắt trợn trừng và khuôn mặt nhăn nhó. Tên quan một chĩa súng vào giữa mặt, và bóp cò, viên đạn phá khuôn mặt tét ra và gục về một bên.

Tên quan một ra lệnh bắt Thạch đi theo rồi cùng đi ra khỏi cửa. Bà mẹ và chị Hiền khóc thảm thiết, Thạch lo âu không thốt được lời.

Thạch bị xô ra ngoài đường, chàng nói với người thông ngôn:

– Ông nghĩ bắt tôi là bắt du kích đó sao? Tôi vừa ở tỉnh về thăm mẹ tôi ngày hôm qua.

– Anh về thăm mẹ, hay là về tạm trú để sang bên kia sông.

– Tôi sang bên kia sông làm gì?

Người thông ngôn cười mỉa mai:

– Biết đâu được, anh sang chớ tôi có sang đâu mà biết. Tôi lạ gì các anh, cái giọng giả đò ngây thơ, thì đó người ta hỏi có du kích chạy vào không, nói không, dù dấu máu còn sờ sờ ra đó, du kích còn ẩn trong nhà lại đặt súng bắn ra. May mà không chết tôi, biết đâu tôi đã không chết rồi. Anh thấy vậy không?

Thạch bị đẩy đi trước, giữa họng súng của hai người lính.

Tiếng súng vẫn lác đác nổ. Tiếng khóc của bà mẹ và người chị đã khuất sau ngõ, Thạch thấy dửng dưng những lo âu về một thời gian mới mà chàng không biết mình sẽ đi đến đâu.

Đoàn lính sục sạo cùng khắp. Thạch bị dẫn ra ngồi dưới chân đê đầu làng, nơi có bốn xác chết bị phơi, Thạch ngửi thấy mùi hôi tanh phảng phất lợm giọng. Chàng nhìn thấy một xác chết bụng đã chương lên vượt mặt, ngực áo lại bị banh ra hở một khoảng da màu tím. Cha chàng cũng đã bị bắn chết, phơi xác, hai tay bị trói về phía sau như chàng, như một con chó sắp bị cắt gáy lấy huyết. Chung quanh xác người chết, cỏ bờ đê như bị đốt cháy vàng úa. Chàng ngồi cùng với một thanh niên và một ông già có râu vàng úa.

Ba người ngồi nhìn nhau im lặng. Thạch bắt đầu cảm thấy đôi vai mỏi vì bị giữ quặp về phía sau không cử động được, và nơi hai cổ tay, sợi dây thừng thắt chặt đau rát và nóng lên vì máu không lưu thông đều.

Viên quan một lê–dương ngồi nơi cổng đi vào làng trên một phiến đá xanh lớn, hai tên lính đứng coi chừng ba người bị bắt. Viên thông ngôn đi đi lại lại với một cuốn sổ trên tay vẻ đăm chiêu. Thời gian trôi qua một cách nặng nề.

Lác đác từng tốp lính bắt đầu từ trong làng đi ra, đứa thì xách gà đứa xách chuối, có đứa vác cả một cái đỉnh đồng trên vai. Hai tên lính ba–ti–giăng cầm một mớ quần áo ra ngồi ngay bên cạnh chỗ Thạch giở ra lựa lọc, giữ lấy những cái tốt cho vào một cái bị còn thì vứt ra bừa bãi. Tên lính có khuôn mặt lưỡi cày nói với anh chàng có nước da vàng như bị sốt rét kinh niên:

– Ê, con mẹ ấy thế nào.

– Con mẹ mập mập lùn lùn...

Thằng kia cười nheo mắt:

– Còn ai nữa, con mẹ già có ra gì không.

– Con mẹ khôn gớm... dễ gì.

– Thôi đi mày... Tao thấy mày lục đục ở trong mãi...

– Mới được chút ngoài, con mẹ mặc váy mà trong còn mặc quần...

Thằng kia trợn mắt:

– Nhà quê mà vậy...

– Không phải chỉ có một quần, mà còn nữa...

– Thôi đừng phịa...

– Tao mà thèm phịa...

– Thế rồi sao nữa...

– Tao mới được thế, con mẹ khôn lắm, nó đâu có kháng cự, nó còn đùa mình nữa, mình phát mệt với nó mà chẳng nước non mẹ gì...

– Thôi đi, đưa tao khám...

– Thật chứ đùa sao, nhưng vừa lúc đó thằng Ma–rốc nó vào... nó bắt tao đi ra. Mày biết không con mẹ nó diễn lại trò đó, chỉ đùa cho thằng kia mệt, nó có bốn năm tầng quần gì đó, kinh chưa... đến lúc bị tập trung, thằng Ma–rốc trở ra mặt bừng bừng, chỉ còn nước đi đái...

Hai thằng bò ra cười, thằng thấp:

– Mấy con mẹ già đáng ngán, nó có nghề mà, gặp mấy con nhỏ dù có kháng cự, khóc la, ấn súng vào ngực là xong hết...

– Khốn nỗi bây giờ làm gì còn con gái nữa... chỉ còn mấy mẹ già, mà với mẹ già thì khó quá…

– Mày có vớ được món nào nữa không...

– Mấy con gà thì chạy nhanh quá chẳng bắt được con nào.

Một tiếng kêu ré lên từ phía trong, một tiếng lựu đạn nổ chát chúa. Thạch giật mình và nằm lăn xuống, bụi đất toé lên mặt. Tiếng còi, những tràng đạn nổ liên tiếp. Thạch lắc đầu cho bụi đất trên mặt rụng xuống, tiếng nói tíu tít. Người lính kêu lên:

– Bỏ mẹ thằng sếp rồi?

Thạch ngồi dậy, nơi sát cổng, gần nơi viên quan một lê dương ngồi lúc trước, một thằng Tây nằm banh thây, một góc phiến đá xanh bị nát, một khối đất bị đào sâu.

Thạch thấy viên quan một đã ở chỗ khác, bàn tay giữ lấy cánh tay trái, chỗ khuỷu vì bị thương, máu đang chảy đầm đìa, Thạch hỏi người mé bên:

– Ở đâu ném ra?

– Không rõ, có khi là lựu đạn của hắn đeo bên người. Tôi thấy hắn ta đi quanh chỗ đó rồi ngồi xuống và tiếng nổ...

– Trông cái kiểu chết như thế kia tôi cho là mìn nằm ở dưới khe phiến đá.

– Có thể lắm.

Những tốp lính từ trong làng đã trở ra và vây quanh chỗ thằng Tây đen chết. Viên thông ngôn la lên:

– Tập hợp, vây vào đây nó nổ nữa cho chết bỏ xác cả bây giờ...

Viên thông ngôn nói chuyện với tên quan một, hai tên lính đã mang ra tấm bạt để trên phiến đá và nhấc thằng Tây bỏ vào đó. Một đứa cầm tay một đứa cầm chân nhấc lên, một bên chân rụng ra và bụng gần như bị nát nhẽo như tàu lá, ruột gan chảy ra ngoài bê bết như một đùm giẻ rách, máu vẫn còn tuôn chảy...

Đoàn lính bắt đầu tập trung và đi trở về đồn. Viên thông ngôn ra lệnh cho lính lấy thừng níu Thạch, người thanh niên và ông già vào với nhau, Ông già nói:

– Điệu này mình khó mà thoát chết, nhất là một đứa nó bị chết như thế. Mình không phải là du kích nó cũng cho là du kích.

Viên thông ngôn chỉ vào mặt Thạch:

– Mày thấy chưa. Đó làng mày như vậy đó, thằng Tây nó muốn đốt trụi cả làng nữa. Chúng mày là Việt minh hết, bắt đâu có oan.

– Đó là quyền của ông. Tôi thì có sao nói vậy. Đêm các ông rút đi, không kiểm soát, du kích bọn nó về hành hạ dân chúng lấy thóc gạo tiền bạc, bắt đi giết nữa. Rồi ngày nó rút. Các ông về lại làm như thế. Thực dân nó có theo đâu, muốn giết ai đâu. Tôi vừa về đây tôi đã rõ những chuyện đó. Ông đây mà ông không chịu hiểu, hay ông cố tình làm ngơ. Đốt cả làng, giết cả làng, dân chúng làm chi kháng cự. Mà thực các người chống các ông thì giờ này đã cao bay xa chạy...

Thạch vừa bước đi vừa nhìn vào gương mặt xanh gầy của viên thông ngôn, một đôi kính cận dưới hàng chân mày rậm. Thạch thấy chừng như một vẻ gì tàn nhẫn. Thạch hỏi:

– Mỗi ngày ông đều thấy người chết, ông không hề bận tâm gì sao.

– Bận tâm, tôi làm gì có thì giờ để nghĩ tới nữa.

– Như thế này có nghĩa là ông bắt tôi làm tù binh?

– Chưa chắc.

– Giết tôi?

– Chưa chắc, còn tùy chứ.

– Nhưng tôi đâu phải là du kích? Đâu phải là giặc? Tôi chỉ là một người thường.

– Anh biết rõ anh là người thường hoặc không, còn tôi, còn quân đội, họ đâu biết anh ra sao. Người ta gặp anh ở một căn nhà trong đó có du kích ẩn núp, nổ súng ra, trong khi anh nói không có; anh lại ở trong một làng mà giặc phục kích phá cầu, đặt mìn và làm cho lính Pháp chết. Anh thấy đó, rõ như ban ngày. Mà có gì để bảo anh không phải là du kích đâu? À à, vậy đó. Vậy tôi hỏi thực anh.

– Ông cứ hỏi.

– Những hầm bí mật đâu anh có chỉ cho chúng tôi không. Và...

– Tôi đâu phải là du kích mà tôi biết những chuyện đó.

– Anh nên biết, đàng nào thì bây giờ anh cũng đã bị bắt. Anh chối cũng không được. Hình phạt, tra tấn nó sẽ buộc anh phải khai, lúc đó thì đã chậm, những điều anh khai lúc đó không còn ích lợi gì cho anh. Bây giờ anh khai ít ra cũng gỡ cho anh được một chút, nếu công lao của anh nhiều, anh có thể sung sướng ngoài chuyện khỏi chết. Tôi muốn nói thiệt hơn với anh, anh cũng còn trẻ, anh nên hiểu như vậy. Anh không khai thì cũng có ích lợi gì cho anh đâu.

– Tôi thực không có biết một mảy may gì cả. Ông nhìn thẳng vào mặt tôi xem, tôi làm sao lại là du kích được. Tôi đâu biết tí gì. Ông cho tôi là du kích thật sao?

– Ồ thì anh thấy đó, tôi nói với anh vậy là vì tôi muốn giúp anh. Chắc anh ở vào thành phần trung kiên lắm. Tôi hỏi thực: nhưng rồi anh được hưởng cái gì, được cái gì, mà phải chui rúc, chết thiệt thân.

Mỗi lúc một lo âu tăng lên, Thạch thấy rõ những đe dọa trước mắt mình, lấy gì để bảo mình không phải là du kích, không phải là người định ra ngoài. Du kích ẩn trong nhà không khai, du kích còn định bắn chết họ nữa. Nghĩ tới mẹ và chị, thốt nhiên Thạch thở dài và ứa nước mắt. Mẹ chàng và chị chàng chắc vẫn còn đang khóc, đứa con trai độc nhất còn lại đang bị nguy nan đến tính mạng.

Thạch đang nghĩ đến bác đang ở ngoài Hà Nội chắc bây giờ cũng đang nóng lòng về chàng.

Ánh nắng đã lên rất cao và oi bức đang khỏa xuống, Thạch dụi má xuống vai chùi những hột mồ hôi đang từ tóc mai chảy xuống, mồ hôi theo gáy chảy xuống sống lưng buồn buồn, đôi tay bị trói mỗi lúc một ê ẩm thêm. Bây giờ Thạch đã trở thành một kẻ tù tội, một kẻ tù tội không có pháp luật xét xử. Hai bàn chân của Thạch đã rát, dù còn đi trên cỏ và bờ đê, đôi chân đã rất lâu lúc nào cũng được giữ trong guốc dép nay mới phải cọ xát vào nền đất, Thạch có cảm tưởng làn da đang dần dần bị làm mỏng và phồng lên.

Đoàn lính đã tới chợ, viên quan một lê–dương ra lệnh dừng lại, cả một khu đất trống không còn ai nữa, mấy mái lều trống đứng chơ vơ, nền đất những vết xe tăng đào sâu vẫn còn đó. Trên áp mặt đê, nơi mặt đê được đắp rộng, mấy tiệm bán nước lèo tèo không có một người khách, Thạch nhìn thấy nơi căn nhà đầu một người đàn ông cụt tay ngồi bên chiếc điếu hút thuốc lào. Khung cảnh những lũy tre xanh, vẻ êm tĩnh thái bình vẫn còn đó, như những hình ảnh những bài luận văn vẫn được nhắc nhở, nhưng thái bình của những lũy tre xanh bây giờ đã khác hẳn, điều đó những người đang sống nơi thành thị không thể nào hiểu được.

Bên những lũy tre xanh này, bố mẹ chàng đã sống lên giữa một thời thái bình, những yên ổn, những hội hè đình đám của chàng cũng đã được sinh ra ở khung cảnh đó, nhưng chàng không được sống và lớn lên ở đó.

Những ngày thơ ấu êm thắm ấy lờ mờ trong ký ức Thạch. Chàng chỉ biết rõ từ khi bắt đầu những náo động, Những thời gian kinh tế khủng hoảng trước khi người Nhật hất quyền đô hộ của người Pháp, những trận ném bom kinh hoàng xuống Hà Nội những thời gian khó khăn bắt đầu đến với đời sống thực tế rồi tiếng súng nổ...

Thạch khô cổ và khát nước, từ sáng chưa được ăn gì, bụng Thạch bắt đầu cồn cào. Người thanh niên bị bắt bên chàng quay lại hỏi:

– Anh không phải người vùng này phải không?

Thạch nhìn vào khuôn mặt hiền hậu, chất phác của thanh niên, đầu anh ta tóc dài lởm chởm, da đen, răng cải mả.

Từ dưới làng tên đội sếp xuất hiện, mặt mày tái mét, quần áo tả tơi, súng cầm tay.

Viên thông ngôn đứng ngây người, tên đội sếp được gọi đến đứng nghiêm chỉnh trước viên quan một, viên này tát cho gã mấy tát.

Mấy tên lính ngồi bên nói với nhau:

– Chắc nó lại làm cái gì, may mà không mất xác.

– Chắc là gái, ngó coi, quần nó mặc chưa đóng khuy.

– Thôi đi mày, muốn chết hả...

– Nó cũng như mình chứ khác chó gì đâu. Nhưng nếu là mình thì nó hành cho chết rồi. Thằng cha này mà không có gái thì điên. Nhưng nó là tay sai tốt, bọn sếp khoái những thằng như thế lắm.

– Thì nhất định rồi... Đến vợ của nó nó cũng còn mang làm vật hiến dâng nữa là, thằng bất nhân thật.

– Bất nhân, bây giờ còn phân biệt là bất nhân với không bất nhân. Manh ai nấy sống, có thế có quyền, có tiền... mọi điều đều vô nghĩa, làm sao cho sống sướng một chút, mình chết lúc này chưa chừng, cứ như thằng ấy đấy, nổ tan xác là xong, xong hết. Nghĩa lý gì đâu. Biết đâu một hôm nào đó mình cũng như thế. Cái số...

– Tại cái số...

– Thế là hôm nay thêm một thằng nữa chết, cầu bị phá, mình bắn được một thằng, còn mấy tên bị bắt đây?

– Mấy cái mặt này chắc gì Việt Minh.

– Thôi đi mày, biết thế nào là phải Việt Minh hay không phải Việt Minh. Mày còn nhớ cái con nhỏ ở làng Cốc không.

– Nhớ.

Theo lệnh của tên quan một lê–dương đoàn quân bắt đầu tiếp tục trở về đồn. Nắng đã lên đến đầu và gần đứng bóng. Thạch đói cồn cào và khát nước, riêng chàng chậm chạp hơn hết đối với ba người bị trói chung; đôi chân chàng rời rã, từng lúc trước mắt chàng lại hoa lên những đom đóm khiến chàng loạng choạng chỉ muốn ngã. Ông già nhìn chàng thương hại, thở dài:

– Mới thế này đã không chịu đựng được thì ở đồn làm sao chịu nổi. Thật khổ cho các cậu học trò ở tỉnh.

Học trò ở tỉnh, Thạch nhằm ở trong đầu, bây giờ chàng mới nhận ra thực tế của chàng. Một học trò ở tỉnh, có bao giờ chàng nghĩ mình phải khổ sở vất vả như thế này đâu. Và chàng mới hiểu cuộc sống thực tế ở nơi thành phố thật sung sướng, trong khi đó đời sống ở nơi thôn xóm khổ sở như thế nào có ai hay biết.

Bao nhiêu hình ảnh thơ mộng, đẹp đẽ về đời sống nên thơ được mô tả trong văn chương về nơi quê mùa làng xóm là một cái gì rất xa lạ, chừng như nó ở một thời xa xưa lắm, nó không có chút liên lạc gì với đời sống và cảnh vật hiện nay, cùng lũy tre xanh, cây đa đầu làng, con đê, dòng sông, ruộng vườn, những lũy tre bây giờ xơ xác, con đê oằn mình trong lửa đạn, và dòng sông những xác chết, vườn ruộng hoang tàn, không còn những cánh diều, tiếng sáo... còn chăng những cảnh quạ đen hung chờ và tiếng kêu chết chóc bi thảm kêu réo trên đầu.

Từ bây giờ một đời sống khác, một thời gian khác, một đe dọa khác. Những ngày sống bên cha mẹ, những ngày theo bác ăn học thái bình, những ngày lưu lạc tản cư trong những vùng rừng núi xa lạ, và bây giờ, một định đặt vô tình nào đó đẩy chàng đi tới những gì chàng không chờ đợi, không hình dung.

Tiếng bước chân nặng nhọc rời rã của đoàn lính vang lên, bụi đất, một vài hòn đá xanh bị đá lăn xa theo sườn đê dốc đổ rơi mất tăm xuống ruộng nước. Vẻ lặng lờ bao quanh trên khắp cả khu vực ruộng nước trắng đục và cỏ dại...

Người thanh niên hỏi Thạch:

– Anh có nghĩ là anh vô tội không?

– Biết thế nào là vô tội, như viên thông ngôn vừa nói với tôi. Mình không có tội.

Ông già kêu:

– Tôi cũng có tội sao?

Thạch nhìn về người gác đứng trên cao, ngọn cờ Pháp bay bên ngọn cờ vàng, hàng rào bao quanh một ngôi đình lớn, tháp canh... Thạch nói:

– Có tội hay không có tội thì chúng ta cũng sẽ vào tù rồi.

Nghĩ tới mẹ, chị, bác và các em, Thạch ứa nước mắt.