← Quay lại trang sách

PHẦN THỨ BA

Bà chủ đã từ chối, không bằng lòng gả con gái cho Thúc. Chẳng muốn làm phật ý bà Cang, bà đã lấy cớ là không được tuổi mà số con gái bà là phải lấy chồng xa mới thành gia thất. Khi được cái tin này, bà Cang viết thư cho Thúc biết. Bà rất khó chịu về nỗi cả tỉnh vang đồn là hỏi vợ hụt cho con. Rồi lại còn bao nhiêu chuyện đan bịa để bà phải tức tối. Mà vai chủ động vẫn là bà Nhất. Trong thư không muốn cho Thúc phải đem lòng suy nghĩ, nên bà đã giấu giếm con hết thảy những cái phiền lòng đó. Bà cũng dựa vào lời từ chối của bà chủ và bảo với Thúc rằng sở dĩ có sự cản trở là chỉ bởi không hợp số nhau. Muốn an ủi con, cuối thư bà đã viết thêm: “Con cũng chẳng nên tiếc làm gì. Vợ chồng còn ăn đời ở kiếp với nhau, có phải duyên phải số thì mới đứng được với nhau. Mợ tưởng cũng nên kỹ càng một tý. Con không kiêng nhưng mợ thì vẫn nghĩ rằng có kiêng vẫn có lành. Con cứ yên tâm mà làm ăn, để mặc mợ thu xếp”.

Hồi đó Thúc phải đổi vào Vinh. Chàng thấy câu chuyện về vợ con đã làm chàng nhiều lần phải tức bực. Xem xong thư, chàng nóng nảy trả lời ngay mẹ là sẽ nhất định không lấy ai cả. “Con sẽ sống một mình, chàng viết trong thư cho mẹ, con sẽ không lấy ai cả để khỏi phải bận rộn. Và như thế con sẽ có nhiều thì giờ để học thêm. Ý định của con sẽ không phải mãi mãi ngày hai buổi đi làm như hiện giờ. Vả lại có mợ và em Vinh gần gụi con là đủ lắm rồi. Biết đâu người vợ con sẽ cưới lại không làm mất lòng thương giữa mợ và hai anh em con”.

Lá thư gửi đi xong, bỗng nhiên chàng lại hối hận đã quá nóng nảy mà không tìm cách bàn bạc với mẹ cho chóng xong việc để mẹ được yên lòng. Chàng chẳng muốn mẹ cứ phải luôn luôn lo nghĩ đẽn cái câu chuyện gây dựng của mình. Điều chàng cố hết sức tránh là làm phiền lòng mẹ. Chàng thừa hiểu rằng mẹ chàng đã trải nhiều sự đau khổ, chàng không muốn rằng những ngày mẹ chàng còn sống trong tuổi già cũng đầy những nỗi chán nản như khi xưa. Tấm lòng thương mẹ, chàng có ngay từ khi còn nhỏ, mới lên sáu, lên bảy. Chàng còn nhớ rõ ràng hồi đó, học trường tỉnh, chẳng bao giờ chàng được mặc cái áo cắt bằng thứ vải tốt. Trời rét buốt tới xương, chàng cũng chỉ có chiếc áo cộc vải ta và chiếc áo dài vải thâm tây. Mẹ chàng thương hại phá chiếc áo cộc bông rồi sửa chữa may được cho chàng chiếc áo dài khá ấm áp, nhưng hơi rộng. Chàng mặc đến trường, các bạn xúm lại chế giễu. Đứa thì bảo con giai mà mặc áo đụp, đứa thì vỗ tay làm chàng xấu hổ và kêu to: “Ê! Ê! Thằng Thúc mặc áo bính!”. Rồi mấy đứa khác cùng vào bè chế theo hát vang cả sân trường: “Ê! Ê! Xúng xính, mặc bính của người!”.

Chàng chẳng dám nói gì, chỉ biết sụt sịt khóc một mình ở một góc sân. Trưa hôm ấy về nhà, chàng nói lại chuyện trên đây cho cha mẹ nghe và buổi chiều chàng nhất định không mặc chiếc áo đó. Nghĩ đến cảnh trời rét, mẹ chàng không nỡ để con đi học với hai chiếc áo mỏng manh. Mẹ chàng cố dỗ dành, chàng vẫn nhất định chịu rét hơn là mặc chiếc áo bông ấy. Mẹ chàng lại cố ngọt ngào:

- Mặc vậy, con ạ, nhà mình nghèo.

Chàng vẫn từ chối. Mẹ chàng đặt chiếc áo vào một góc giường âu yếm nhìn con:

- Mẹ nghèo, chứ nào mẹ có tiếc gì con.

Sau câu nói, mấy giọt nước mắt từ từ chảy trên hai gò má, thế là lòng thương mẹ đã khiến chàng như một cái máy vớ lấy chiếc áo bông tự mặc lấy rồi cắp sách đi học. Đến trường, chàng khinh thường mọi lời chế giễu và giữ được vẻ thản nhiên trước mọi sự trêu chọc của các bạn. Dần dần chúng cũng quen mắt với chiếc áo bông mà không nghĩ đến chế giễu nữa. Còn riêng chàng thì chàng hơi tự kiêu đã làm được người mẹ vui lòng. Nhớ lại cái kỷ niệm trên đây, Thúc lại càng hối hận đã gửi đi một lá thư mà chắc hẳn lời lẽ sẽ làm mẹ phải bực tức. Băn khoăn mãi, sáng sớm hôm sau chàng lại viết luôn một lá thư nữa về. Chàng xin lỗi mẹ và nói với mẹ coi lá thư trước như không có rồi ngỏ lời yêu cầu mẹ hỏi Lý, một người bạn gái trước cùng học với mình trong mấy tháng hè ở một trường tư. Thúc đã đem lòng yêu Lý, nhưng chàng rụt rè không hề dám nói với mẹ. Chàng tin rằng không khi nào một người mực thước chu đáo và hay giữ gìn như mẹ lại để chàng lấy Lý. Bởi lẽ Lý hơi khác các cô gái khuê phòng khác: nàng đã đánh khúc côn cầu, chơi ping pong, thi bơi mấy lần. Nàng lại có chân trong mọi ban tổ chức chợ phiên. Đã nhiều lần người ta đăng ảnh nàng trên mặt báo hàng ngày. Và nhiều người luôn luôn nhắc đến tên nàng. Thứ nhất bọn thiếu niên rỗi rãi ở Hà Nội.

Trong thư chàng đã cố ngọt ngào nói khéo để tìm cách chiếm được lòng mẹ và muốn rằng mẹ đi xem mặt ngay rồi ý định thế nào, sẽ gửi thư vào cho chàng biết.

Bà Cang xem xong lá thư thứ nhất chỉ buồn cười về cái tính nóng nảy của con; Nhưng khi nhận được lá thư thứ haỉ tiếp ngay, bà hết sức cáu kỉnh. Bà vò nát lá thư, vứt vào một xó ngăn kéo và lẩm bẩm: “Thế này thì ra cái thằng Thúc bây giờ nó không còn coi mẹ nó ra cái gì! Nó tưởng bây giờ đi làm có tiền thì muốn sao thì sao, muốn trăng thì trăng đấy hẳn. Còn phải quyền ở mình chứ! Gây dựng cho nó thế nào thì nên thế chứ! Cái hạng chưa sạch hơi sữa mẹ ấy thì đã biết cái gì vào cái gì!”.

Bà định gửi thư vào để mắng mỏ Thúc, nhưng suy nghĩ mãi bà cho thế là thất sách. Mắng mỏ chỉ làm con mình thêm bực tức khó chịu. Bà sợ rồi vì mê Lý quá, Thúc sẽ luôn luôn về Hà Nội mà bà không biết đó là đâu. Bà bèn thu xếp đi Vinh ngay để tìm cách làm thế nào cho Thúc quên hẳn được Lý. Bà lại còn ngờ rằng Thúc vẫn thư từ và hơn nữa, đi lại luôn luôn với Lý mà giấu giếm không cho bà biết. Bà thành lo lắng. Nhất là bà đã được nghe thấy nhiều người nói đến Lý là người không đứng đắn. Cứ một việc đăng ảnh lên báo cũng đủ làm bà khủng khiếp lắm rồi. Bà nghĩ thầm: “Con gái thì phải giữ gìn kín đáo chứ, ai lại giương lên giấy cho mọi người ngắm nghía thì phỏng còn có thể thống gì nữa!”.

Vào tới Vinh, bà chẳng hề mắng mỏ gì Thúc. Trái lại bà lại còn hết sức ngọt ngào với chàng. “Có ngọt mới lọt tận xương”, bà vẫn tự bảo vậy. Bà nói dối rằng bà đã tìm cách dò la để xem mặt. Khi nói chuyện, thấy Thúc khen đẹp bà cũng theo lời nhận là đẹp để chiều lòng con; nhưng bà vội chê ngay là nhiều bạn giai quá. Bà bịa đặt hẳn ngay rằng cùng một buổi chiều hôm ấy bà đi phố sắm các thứ vặt mà gặp Lý đi với ba bọn con trai khác nhau. Bà lấy hết vẻ tự nhiên dối Thúc:

- Mà trong bọn nào cũng thấy cô ta nhả nhớt bá vai hay bá cổ, cười đùa rầm rộ cả phố!

Rồi dựa vào đó, bà khuyên Thúc:

- Con đừng có nghĩ đến lấy những người như thế. Những đứa cợt nhả không đứng đắn rồi nó sẽ bỏ chồng bỏ con đi theo giai bao giờ không biết chừng. Sống với nhau còn hòng về lâu về dài, phải nên chọn người đứng đắn, biết thu vén việc nhà rồi khi có con cái, nó còn biết trông nom bế ẵm chúng nó là hơn.

Thấy mẹ nói vậy Thúc lại đành để toàn quyền cho mẹ xếp đặt trong công việc hỏi vợ cho mình. Bà Cang sung sướng; ở lại chơi với con mấy ngày rồi lại thu xếp ra về, “để còn tính toán công việc”, theo lời bà nói với Thúc.

Lần này, bà Cang có ý sẽ tìm vợ cho Thúc ở một tỉnh xa. Vì theo bà như thế sẽ tránh được nhiều điều dị nghị, và công việc ắt sẽ dễ dàng hơn. “Chẳng còn ai nói ra vào gì nữa!”, bà tự nghĩ.

Ở Vinh về, bà cố dò la tìm tòi. Trong vòng hơn ba tháng, bà chẳng gặp được một đám nào vừa ý. Có nhiều nơi mách mối và lại có một vài chỗ tự ý gọi gả. Bà cũng đã đi xem mặt, thám thính cả. Nhưng không đám nào làm bà bằng lòng. Con ông Hàn Phái ở Phú Thọ thì hơi lùn, cháu ngoại ông tham Cát ở phủ Khoái Châu, Hưng Yên, tuy hiền lành chân thật, nhưng con mắt bên trái lại hơi lác. Còn con ông Quảng ở gần ga Xuân Đào thì chân tay thô lỗ quá. Bà cố hết sức dễ tính nhưng cô nào bà cũng thấy có những điều đáng chê trách, không thể tha thứ. Bà vẫn biết rằng “nhân vô thập toàn” và “hòn ngọc nào chả có vết”, nhưng bà vẫn không quên rằng có kén, có chọn lọc thì vẫn hơn là hồ đồ, gặp sao nên vậy.

Trong khi bà còn lo nghĩ hết việc này đến việc khác thì Thúc lại báo tin phải đổi về Cầu Giát. Bà lại phải thu xếp để vào với Thúc, thu dọn đồ đạc, hòm xiểng từ Vinh ra Cầu Giát. Nhiều khi nghĩ lẩn quẩn bà lại thở dài một mình:

- Thực là lo lắng cho đến già!

Bà vào ở với Thúc được hơn một tháng; các công việc kê giường kê tủ và dọn dẹp bếp, nhà tắm gần xong thì Vinh vào chơi. Sang ngày sau thì lại liền ngay cái tin Thanh cũng vào chơi.

Thanh là bạn của Thúc. Hai người quen biết nhau ở Vĩnh Yên. Vì cũng nghèo như nhau nên cả hai đã phải lên đó nhận dạy học tư ở hai gia đình. Thúc trông nom con một ông phán làm việc tòa sứ và Thanh dạy mấy người con một ông điền chủ. Hai người gặp nhau ở cái tỉnh nhỏ đó: mới đầu, chơi với nhau chỉ vì cả hai đều cảm thấy sự buồn tẻ phải xa bạn bè ở Hà Nội. Nhưng dần dần, hiểu biết nhau, hai người đã thành một đôi bạn rất thân.

Thanh mồ côi cha ngay từ khi còn nhỏ. Khi chàng lên năm hay lên sáu, mẹ chàng vì còn trẻ tuổi lại đi tái giá. Và từ cái tuổi đó chàng đã phải sống lẩn quất bên ông chú, bác hay mấy bà cô, bà mợ. Tới năm lên chín, chàng lại bị mồ côi mẹ. Thế là không còn một dính líu gì ràng buộc chàng với gia đình. Bắt đầu từ đó cứ dần dần chàng xa hẳn về tinh thần như về thực tế với hết mọi người trong gia đình. Rồi chàng phải sống cái đời vô gia đình, hiu quạnh, thiếu hẳn tình thương yêu.

Thanh và Thúc ở Vĩnh Yên được một năm. Thúc thi đỗ vào sở Hỏa xa; Thanh về Hà Nội nhận dạy cho một trường tư nhỏ. Vì Thúc luôn luôn phải bổ đi làm xa nên hai người ít khi được gặp nhau. Từ ngày Thúc đi làm, lần này là lần thứ nhất Thanh được gặp bạn.

Đã nhiều lần Thúc nói chuyện Thanh với mẹ và tỏ lời khen chàng. Vì vậy mà ngay từ khi Thanh chưa vào Cầu Giát bà Cang cũng đã có nhiều cảm tình với chàng. Bởi thế nên bà đã mang tất cả sự chiều chuộng, sự thân yêu, tình mật thiết vào sự tiếp đãi Thanh. Thúc vừa đổi về Cầu Giát được ít lâu thì một bạn đồng nghiệp ở Sài Gòn xin thôi để ra buôn bán, nên chàng lại phải đổi đi thay ngay. Ngày tiếp được giấy báo tin phải đổi, Thúc thấy Thanh hay thích đi chơi xa bèn có ý định để cho Vinh cùng đi Sài Gòn rồi rủ cả Thanh đi để chàng vào đó vừa là du lịch vừa nhân tiện dạy cho Vinh học thêm. Điều này vẫn là một nỗi băn khoăn của Thúc từ khi chàng được bổ đi làm và trong nhà đã được dồi dào đồng tiền. Cái dốt của em gái, chàng cho rằng tại hoàn cảnh, nhưng một phần lớn cũng tại sự học của chính chàng, bắt em phải buôn bán để kiếm thêm lãi.

Thúc ngỏ ý định của mình với mẹ. Bà Cang cũng nhận lời ngay. Song cái cớ xui bà muốn cho con gái học thêm khác hẳn với Thúc. Thấy Thanh mồ côi từ thuở nhỏ và lại đứng đắn nết na nên bà đã nghĩ đến cách gả Vinh cho chàng. Sự thực cái dự định này, bà đã có ngay từ khi bà chưa được gặp Thanh, mới được nghe con giai nói chuyện và tỏ lời khen ngợi chàng.

Mỗi khi nghĩ rằng Thanh nghèo, không đỗ đạt và cũng không có địa vị gì, dạy học dạy hành mỗi tháng chừng ba bốn chục đồng mà lại không được chắc chắn, bà cũng hơi ngại ngùng. Nhưng bà đã được biết chuyện bao nhiêu ông tham ông phán ngạch nọ, ngạch kia đi lấy vợ. Họ đã kiêu hãnh vì tiền của hay vì địa vị của họ mà hành hạ vợ hoặc bạc đãi vợ sau khi đã được thỏa mãn với người vợ mới cưới. Và chỗ nào có thể làm được tiền thì họ nạy từng xu từng trinh; khi họ đã vơ vét được hết tiền của là bắt đầu sự lãnh đạm, hay hơn nữa, sự chia rẽ về đường tình ái. Những việc xảy ra như một ông huyện phụ bạc tình nhân vì cô ta nghèo; một ông tham ly dị vợ vì vợ không chạy cho được mấy nghìn đồng để tậu ô- tô; một ông trạng sư An Nam đánh và đuổi vợ ra khỏi nhà giữa ngày ba mươi Tết vì món tiền hồi môn cô mang về ít ỏi quá, hay một ông đốc tờ ngon ngọt cưới một cô vợ trẻ mà rút lại mãi sau mới biết ông ta đã có vợ cả và mấy con. Hết thảy những chuyện ấy làm bà Cang ghê sợ và bà lại nghĩ đến chính đời bà. Khốn nạn! Thân phận vợ một ông tham mà suốt đời từ ngày đi lấy chồng cho tới khi đã hai con mà bà chỉ thấy những cái đau khổ, về tinh thần, tình ái cũng như về thực tế. Với một địa vị như chồng bà, tưởng bà sẽ có thể được an nhàn, nào ngờ bà đã phải vất vả buôn ngược bán xuôi để cố nuôi lấy hai con cho đến bây giờ. Trong gần ba mươi năm xa hẳn chồng nhiều người vẫn còn gọi bà bằng tiếng “bà tham”, mà nào cái địa vị đó có mang lại cho bà được sự vui sướng trong lòng. Nhớ lại hết những điều đó bà thấy trong lòng sinh ra lo sợ cho tương lai hai đứa con của bà. Mỗi lần nghĩ đến gây dựng cho Vinh, bà lại liên tưởng ngay đến Thanh. Và bà tự bảo thầm: “Bằng cấp với chức tước thì làm gì. Mài ra mà ăn được ư? Cũng phải có may rủi mới được chứ. Chán vạn người đỗ cao mà chẳng làm trò trống gì!”. Bà thở dài một tiếng: “Cứ miễn là người ta biết thương yêu con mình là hơn. Nghèo thì mình gây dựng cho, thế mới là quý”.

Cái ý tưởng đó mỗi lúc ăn chặt vào trí óc bà và làm bà càng muốn có ý gả Vinh cho Thanh và cố tìm cách gây dựng cho chàng. Bởi thế nên khi thấy Thúc nói phải đổi đi Sài Gòn và muốn rủ Thanh cùng đi cho vui, nhân tiện dạy Vinh học thêm, bà đã ưng ý ngay. Bà tin rằng như thế bà sẽ được hiểu rõ tính nết của Thanh hơn. Vả bà cũng muốn rằng Vinh cũng có tình quyến luyến với Thanh trước đã.

Về phần Thanh, thấy bạn rủ cùng đi Sài Gòn, chàng cũng đem lòng suy nghĩ. Được đi xa và thăm những miền xa lạ vẫn là một thú vị mà chàng cũng ưa thích như đọc sách. Trái hẳn mọi người khác, mỗi lần được đi đâu, chàng rất sung sướng, không hề buồn phiền nhớ nhung. Nhưng một ý nghĩ không hay lởn vởn đến óc chàng. Chàng cho sự ra đi với bạn để dạy em bạn học là một việc làm cho chàng phải tự thẹn. Chàng sợ rằng rồi các bạn bè khác sẽ chê trách chàng đã ươn hèn đem thân nhờ vả một người bạn; và muốn che đậy sự nhờ vả đó đã nấp sau cái việc dạy người em gái của bạn. Một đôi khi những định kiến của nhiều người đã làm chàng có ý nghĩ cổ hủ rằng bạn mình đã “làm nên” và mình chỉ là kẻ bị thất bại. Chàng vẫn có ý tưởng rằng dù làm trong ngạch nhà nước hay dạy ở một trường tư chẳng qua cũng chỉ là làm việc để mưu sự sống. Cái nghề nên làm là nghề mình ưa chuộng, thích hợp với tâm hồn, với chí hướng mình hơn là vì nó mang lại cho mình một địa vị cao xa hoặc một món tiền lớn. Nhưng cái thường lệ người ta vẫn theo, đi học, thi đỗ, vào làm ngạch nhà nước, hình như cũng còn chút dấu vết trong trí óc Thanh, tuy chàng vẫn luôn luôn tìm cách “tự cải hoán mình” theo lời chàng thường tự bảo. Dù sao vẫn còn trong trí óc chàng cái dớp của nền giáo dục không hay chàng đã phải theo. Thêm vào đó cái ảnh hưởng của nhiều người còn đầy những định kiến thời xưa. Cũng bởi lẽ đó mà tuy chàng đã nhất định bỏ hẳn thi cử, một đôi khi chàng lại muốn cắm đầu học thi rồi cũng đi làm như nhiều người khác để tránh hết mọi nỗi băn khoăn, mọi điều dị nghị. Nhưng cũng may cho chàng là cái ý tưởng đó chỉ lướt qua óc chàng trong phút chốc, rồi chàng lại khinh thường cái học cầu lợi để kiếm món lương to, chàng lại cặm cụi đọc sách để làm cho trí óc và cõi lòng giàu thêm chút lý tưởng, chút tình cảm mà chàng cho rằng nhờ đó, cuộc đời mình sẽ thêm phần phong phú.

Dù thế, cái định kiến không hay rằng mình là kẻ thất bại lại trở lại óc chàng khi thấy nhiều người ca tụng Thúc và nhất là khi Thúc ngỏ ý rủ mình cùng đi Sài Gòn để dạy Vinh học, tháng tháng đưa chàng một vài chục đồng để tiêu vặt. Thanh mỉm cười nghĩ thầm: “Rồi nó sẽ kiêu hãnh khoe với mọi người rằng nó đã làm nên và nó đã có thể mượn được mình dạy em nó học! Mà rồi vạn thằng sẽ kháo với nhau rằng mình là một thằng thất nghiệp phải bám lấy một thằng bạn để ăn nhờ!”.

Nghĩ vậy nên Thanh đã từ chối không đi Sài Gòn với Thúc. Và chàng sửa soạn để trở về Hà Nội. Lúc ra về, chàng đã hết sức buồn nản. Vì từ khi được gặp Vinh ở Cầu Giát, Thanh đã đem lòng yêu nàng. Chàng vẫn không sao quên được những ngày đầy đủ, êm ấm ở gần nàng. Ngồi trong tàu chàng cố sống lại những ngày đó. Chàng sung sướng nhớ tới cái buổi sáng vì rỗi rãi quá chàng đã rủ Thúc cuốc đất trong khu vườn, rồi đánh thành từng luống. Khi công việc đó đã xong, Vinh mang gieo những hạt rau và hoa Thúc đã gửi mua ở Hà Nội vào.

Nàng đi guốc cao gót, mặc chiếc quần lụa trắng và chiếc áo đốm hoa xanh nhạt. Dưới sức nắng mặt trời, hai má nàng ửng đỏ, khiến nàng có một vẻ đẹp rất tươi. Nàng nhẹ nhàng rắc hạt trên luống. Năm ngón tay thon thon, trắng mịn, để rơi qua các kẽ những hạt nhỏ hơn tấm, sắc hung hung vàng, Thanh hai tay trong túi áo pyjamas chăm chú ngắm nàng. Vinh hình như linh khiếu thấy thế, nên cố lấy vẻ tự nhiên, không hề ngẩng đầu nhìn Thanh. Như muốn phá tan cái yên lặng khó chịu, Thanh đánh bạo nói đùa, bảo Vinh:

- Người Pháp có câu: Kẻ nào đã giồng một cây thì đã không sống vô ích. Cô Vinh gieo không biết bao nhiêu hạt thế kia hẳn là hữu ích “nắm nắm”.

Chàng cố nói to bằng một giọng nghịu hai tiếng “nắm nắm” để khôi hài. Song câu nói vẫn không làm ai cười. Và Vinh vẫn chăm chú rắc hạt, Thúc vẫn yên lặng nhặt những cây cỏ nằm len giữa luống đất. Thanh hơi thẹn thùng vì nỗi câu nói không được ai hưởng ứng. Tuy rằng giữa Vinh và chàng đã có sự thân mật tự nhiên, gần như anh em một nhà không còn e lệ rụt rè như khi mới gặp nhau, nhưng sự yên lặng của Vinh lúc đó cũng làm chàng khó chịu. Chàng cố bình tĩnh một lúc rồi như muốn cứu vớt câu nói đùa thứ nhất, chàng vừa suy nghĩ, vừa gióng một nói:

- Ở cái chốn hẻo lánh nên thơ này, thực ngay trong giấc ngủ cũng thấy những cái nên thơ.

Vẫn không ai nói gì, chàng lại cố kể tiếp:

- Đêm mới rồi, tôi nằm mơ thấy một cô nàng tiên xinh xắn đẹp đẽ, lộng lẫy huy hoàng...

Thúc và Vinh vẫn không ai nói gì. Và Thanh muốn cứu vãn tình thế khó khăn của mình thì trái lại, chỉ làm cho tình thế thêm khó khăn. Nhưng đã trót nói, không lẽ lại bỏ dở câu chuyện mình bịa đặt, chàng lại nhắc lại:

"... Một cô nàng tiên xinh xắn, đẹp đẽ, huy hoàng".

Thanh vừa nói đến đó, Thúc ngẩng đầu hỏi em:

- Vinh có thấy gì không?

Vinh tưởng anh hỏi về thời tiết, thực thà đáp:

- Em thấy nóng quá. - Không phải thế. Anh muốn hỏi em rằng có thấy kiểu cách văn chương quá không?

Lúc đó Vinh mới hiểu ý anh. Nàng ranh mãnh nhìn Thanh:

- Văn chương và kiểu cách quá. Đã xinh xắn lại còn phải thêm đẹp đẽ. Mà lộng lẫy và huy hoàng thì sáo lắm! Em xem những truyện đăng trong các báo vẫn thấy những tiếng ấy luôn luôn.

Thanh đỏ mặt, cố mỉm cười. Chàng không ngờ Vinh lại táo tợn đến thế. Chàng đang bối rối, Thúc lại tìm cách trêu chàng, làm chàng bối rối hơn:

- Mà câu chuyện cô nàng tiên đó mới nhạt làm sao!

Thanh đành cố nói để che sự thẹn thùng:

- Chính tác giả câu chuyện cũng đã thấy nó nhạt nên mới thôi không kể nữa.

Thúc vẫn giọng châm biếm:

- Lại tác giả! Hãy còn văn chương! Thực là cái bệnh. - Mà ở đời bây giờ, Vinh nói, thì làm gì còn nàng tiên như thời xưa.

Thanh cố đánh bạo:

- Còn lắm, cô nàng tiên xinh xắn, đẹp đẽ, lộng lẫy, huy hoàng cũng gieo hạt như cô bây giờ!

Nói xong, chàng như hơi thẹn thùng, vẻ hối hận về sự so sánh hơi táo bạo. Chàng hơi bực tức với chính mình đã nói ra những câu đó. Song chàng cũng cố lấy vẻ tự nhiên, thẳng thắn nhìn Vinh. Nàng hơi e lệ như xấu hổ đưa mắt nhìn chàng. Thanh cố suy nghĩ, chàng không hiểu đó là vẻ nhìn âu yếm hay trách móc...

Ngồi trong một góc tàu, chàng cố hết sức tưởng tượng lại cái cảnh vui sướng đó; chàng nhớ tiếc và bỗng nhiên chàng thẫn thờ với một nỗi buồn riêng. Cái cảnh hiu quạnh của cánh đồng chàng nhìn thấy trước mặt qua khung cửa lại càng khiến chàng buồn thêm. Chàng đứng dậy kéo cánh cửa che kín để khỏi phải ngắm cái cảnh cô trơ ấy. Cái vẻ núi trơ, đồi héo của vùng như bao phủ một tấm màn vô hình ảm đạm, buồn tẻ như chính lòng chàng trong lúc đó. Chàng chẳng hề để ý gì đến những người ngồi bên mình và loay hoay với những ý nghĩ riêng của mình. Khi ra đi chàng vui sướng sẽ được biết thêm một nơi xa lạ, và lúc trở về không ngờ, chàng đã mang theo một nỗi buồn man mác. Chàng thở dài:

- Biết vậy thì cứ nằm vọ ở đất Hà Nội đọc sách lại yên thân chẳng phải buồn bực như lúc này!

Về phần bà Cang thì từ khi được gặp Thanh bà lại càng có ý định muốn gả Vinh cho chàng. Bà đã nhận rõ thấy Thanh là người cũng tươi tỉnh và không xấu xí cục mịch. Bởi thế mà từ khi Thanh lên tàu để về Hà Nội, trong lòng bà lại thêm một mối lo nghĩ: “Gây dựng cho Thanh và Vinh lấy nhau”.

V

Thúc đã đổi đi Sài Gòn. Vì Thanh không cùng đi nên bà Cang cũng ở lại và đưa Vinh về Phúc Yên. Cái ý định của bà Cang là muốn cho Thanh và Vinh được gần nhau luôn, nên bà cho việc Vinh đi Sài Gòn không có Thanh là vô ích. Bà cũng hơi lưỡng lự ở chỗ Thúc đi một mình. Bà e chàng sinh buồn hoặc được tự do rồi thành chơi bời. Nhưng nếu để Vinh về Phúc Yên và một mình bà đi với Thúc thì e không ai trông nom Vinh. Trước kia thì bà có thể để một mình nàng ở nhà với mẹ già được vì Thúc làm ở những nơi gần gụi và bà có thể đi về luôn luôn được. Bây giờ đi mãi tận Sài Gòn, không thể “tý tý về ngay được”. Bà vẫn biết rằng Vinh cũng đứng đắn, nết na, song bà lại nghĩ thầm: “Biết thế nào, con gái đã đến thì. Ngộ nhỡ thằng nào nó khéo mồm, khéo miệng thì sao mới được chứ!”.

Cái nỗi lo lắng Thúc chơi bời vẫn không bằng cái nỗi sợ Vinh hư thân. Vả cho Vinh đi Sài Gòn cũng chẳng làm gì. Ở với anh chẳng qua mỗi ngày chỉ loanh quanh hai bữa cơm và các việc lặt vặt. Về Phúc Yên nàng còn có thể tập buôn bán. Như thế, không những mỗi ngày kiếm được ít nhiều tiền lãi mà còn lợi cho việc lập gia đình của nàng về sau. Vì bà đã định cố tìm cách để Vinh và Thanh lấy nhau nên bà lại càng thấy sự cho con gái học buôn bán là cần thiết. Bởi lẽ Thanh dạy học lương bổng rất ít, tằn tiện cũng chỉ có thể tạm chi tiêu trong nhà; mỗi lần có những việc chi tiêu bất thường ắt sẽ có sự thiếu thốn. Bà vẫn đem tâm suy nghĩ đến chỗ đó.

Trước kia, khi chưa biết Thanh, thì bà không hề quan tâm đến sự buôn bán của Vinh cho lắm, vì ngay từ khi Vinh mới mười một, mười hai tuổi bà đã có ý định sau này sẽ gả Vinh cho Phúc nếu bà Phong - mẹ Phúc - “hỏi xin”. Phúc hơn Vinh chừng năm tuổi. Khi Thúc đã học lớp nhất trường Phúc Yên, Phúc còn học lớp tư. Tuy có sự xa cách về sức học nhưng hai người vẫn thân mật với nhau. Mỗi ngày hai buổi, Phúc hay có thói quen bắt thằng xe kéo tới đón Thúc cùng đi học. Thường thường những lúc rỗi rãi Phúc vẫn hay lại chơi với Thúc và cả với Vinh. Tình thân mật đã khiến Vinh và Phúc không hề ngượng ngùng mỗi khi gần nhau, từ lúc hai người còn nhỏ tới khi cả hai đã biết thẹn. Nhưng về sau gia đình Phúc vì công việc làm ăn phải dọn đi Hà Nội, Phúc luôn luôn gửi các báo và thư từ về cho Vinh. Một đôi khi Vinh cũng trả lời Phúc. Bà Cang chẳng hề dò xét thư của hai người và cũng không tìm cách ngăn ngừa. Vì bà vẫn tự bảo rằng “nếu chúng hợp nhau thì sẽ cho chúng lấy nhau”. Cha mẹ Phúc cũng vậy; vẫn có ý nghĩ rằng nếu Phúc yêu Vinh thì chờ chàng thi xong Thành chung, sẽ hỏi cho chàng. Hai bên tuy chưa có lời ước hẹn, nhưng cũng đều có dự định. Song từ ngày được gặp Thanh, bà Cang đã suy nghĩ lung. Bà đã so sánh để tìm cái hơn kém giữa Phúc và Thanh. Vẫn hay rằng Phúc hiền lành ngoan ngoãn và cha mẹ Phúc là chỗ quen thân, nhưng sự dâu gia cũng cần phải đắn đo nhiều. Bà vẫn rụt rè chưa quyết định hẳn. Tuy gia đình Phúc cũng khá dồi dào và nếu để con gái mình lấy Phúc thì không lo xa phải cái cảnh thiếu thốn về thực tế. Song lại có cái cảnh nàng dâu mẹ chồng. Bà vẫn chưa dám xét đoán bà Phong ra sao. Vì từ trước đến nay, trong sự giao thiệp, bà chưa hề nghĩ đến dò la tâm tính bà bạn. Bây giờ đến cái lúc quan trọng này, bà mới để ý tớỉ chỗ đó. Bà nghĩ thầm: “Ngộ đối với mình là chỗ bạn, thì bà ta nể nang ngọt ngào; chứ khi con gái mình đã về nhà người ta, đã là con cái người ta rồi người ta mới giở lối tàn ác hành hạ thì làm thế nào!”. Chính sự thân mật giữa bà và mẹ Phúc làm bà phải quan tâm hơn cả. Vì bà nghĩ rằng nếu đối với người không thân ái, chẳng qua chỉ là câu chuyện mua với bán, thì khi nào con gái bị sự tàn nhẫn, bà có thể thẳng thắn và nói lại được để bênh con chút ít, chứ đối với người bạn thân thì lại phải nể lời.

- Lúc đó thì mình đến phải ngậm tăm, bà tự bảo, dù người ta có giết sống con mình. Nói ra thì mang điều mà ngậm miệng thì lại khổ con mình. Còn phải mang nặng đẻ đau, mới có mụn con; chứ có dễ tý tý mà có ngay được đấy chắc.

Rồi bà lại nghĩ đến đàn em của Phúc (Phúc có tất cả sáu em, cả giai gái). Bà bỗng ghê sợ khi có ý tưởng rằng những đứa ấy lớn lên rồi có ngày Vinh không chiều được ý hết tất cả, tất chúng phải xúm lại mà xâu xé.

Vì có sự suy tính lo lắng cho Vinh như thế, nên bà Cang không hề nghĩ đến Phúc nữa và chỉ lo săn sóc tới Thanh. Bà đã hiểu rõ cả. Lấy Thanh thì chỉ có mình chàng. Không cha mẹ, không anh em nào can gián tới nữa. Bà đem so sánh cái cảnh ấy với cái cảnh gia đình, dù sao bà vẫn cho sự lấy Thanh là hơn. Chàng nghèo, không được dồi dào về tiền tài như Phúc, nhưng điều này không làm bà Cang phải áy náy. Bà tin rằng với số tiền gần trăm đồng của Thúc hàng tháng gửi về, bà sẽ có thể gây được cho Vinh một cái vốn để nàng buôn bán thêm vào số lương dạy học của Thanh. Càng nghĩ vậy, bà càng cho sự dạy dỗ Vinh học buôn, học bán là cần thiết. Bởi vậy khi đã về Phúc Yên, công việc thứ nhất bà làm là sửa sang lại cửa hàng xén. Từ ngày bị chồng ruồng bỏ để theo người vợ hai, bà về Phúc Yên là quê ngoại, ở với người mẹ già, bà vẫn chỉ trông nom vào cửa hàng nhỏ đó. Cái nghề đã khiến bà kiếm được tạm đủ ăn là nghề làm bánh khảo. Bây giờ nhờ có Thúc đi làm, bà có thêm vốn nên bà muốn mở to “cho nó ra cái cửa hàng một tý” như lời bà nói.

Gian nhà để dọn hàng khá rộng. Bà chia làm hai ngăn. Một bên chuyên bán hàng xén và giấy bút mực cùng các truyện quốc ngữ. Còn một bên, dành riêng cho các thứ bánh ngọt. Trừ món bánh khảo và bánh quế tự bà và Vinh làm ra, bà còn buôn thêm các thứ bánh khác cùng kẹo mứt ở Hà Nội về. Sát trong cùng gian hàng là một cái tủ kính lớn chứa các món hàng chưa bán tới. Bên cạnh tủ, xế bên phải là chiếc ghế ngựa tiếp khách. Cửa hàng bên ngoài và chiếc ghế ngựa ngăn nhau bởi một chiếc mành tre sơn màu xanh nhạt.

Trong công việc buôn bán, trừ Vinh, còn có mẹ và một người vú già đã nuôi Vinh từ khi còn nhỏ giúp việc thêm. Ngày nào cũng như ngày nào, đã thành một thường lệ: Năm giờ sáng vú già mở cửa hàng. Vinh rửa mặt xong ra ngồi trông hàng. Bao giờ bà Cang đã uống xong bữa trà sáng, bà ra trông hàng thay Vinh để nàng đi chợ. Thường thường vú già làm cơm. Vì ăn uống cũng xuềnh xoàng. Chỉ bao giờ có khách cần làm thêm nhiều món ăn, Vinh mới phải vào bếp.

Muốn cho luôn luôn có sự gần gụi giữa Thúc và gia đình, bà Cang cứ hai, ba hay lâu lắm, sáu, bảy ngày lại giục Vinh viết thư vào cho Thúc, nói chuyện nhà, nói chuyện buôn bán. Về phần Thúc, nếu không bận việc, thì mỗi tuần lễ, Thúc gửi thư về thăm bà, mẹ và em một hai lần. Mà bận bịu ra chăng nữa, ít nhất trong hai tuần lễ, chàng cũng gửi về nhà được một lá thư.