PHẦN THỨ TƯ
Trước kia bà Cang chỉ phải suy tính đến việc của Thúc. Bây giờ lại còn câu chuyện của Vinh và Thanh. Bởi vậy mà không lúc nào bằng lúc này, bà Cang đem lòng lo nghĩ. Bà định cố thu xếp cho chóng xong việc của Thúc rồi sẽ tính đến cuộc gây dựng cho Vinh và Thanh. Bà cho việc thứ hai này khó khăn hơn việc thứ nhất; nhưng có xong việc của Thúc thì mới có thể nghĩ đến việc của Vinh được. Song một phần lớn là vì bà thấy rằng trong sự gây dựng cho Vinh và Thanh có nhiều trở lực quá, và vì thế mà cần phải mất nhiều thì giờ hơn. “Cái gì dễ thì làm trước, khó khăn liệu định sau”, đó là ý nghĩ của bà trong mọi công việc con con hằng ngày. Bà mang cả cái phương châm đó vào những việc quan trọng như việc gây dựng cho hai người con. Bà không khỏi bối rối mỗi khi có ý nghĩ rằng công việc “thì thực là lan man mà chưa hề thu vén được bằng cái móng tay”. Trong trí óc bà luôn luôn hiện lên hình ảnh ba người: Vinh, Thanh, Thúc.
Về việc của Thúc bà Cang vẫn không quên rằng cần phải tìm cho chàng một người vợ ở tỉnh xa để khỏi phải “điều này tiếng kia”. Bởi thế bà nghĩ tới con gái một ông Nghị ở Thái Bình. Ông nghị trước kia là bạn của chồng bà. Từ ngày bà bị chồng ruồng bỏ, ông nghị cũng vẫn có thư từ hỏi thăm. Nhiều khi nghĩ đến cái cảnh trơ trọi của bà, ông đã tìm cách dàn xếp, giải hòa để hai vợ chồng lại được đoàn tụ, song công việc vẫn không thành, vì chồng bà đã quá ham mê người vợ hai.
Bà Cang có ý muốn hỏi con gái ông nghị vì bà chắc ông đã hiểu rõ tình cảnh nhà bà và ông đã biết bà là người thế nào hẳn công việc sẽ được dễ dàng. Song bà còn e ngại rằng chồng bà sẽ chê cười là phải dựa vào tình bè bạn giữa chồng với ông nghị mới lấy được vợ cho con. Cái tính tỉ mỉ giữ ý từng việc con con vẫn là cái tính bà có ngay từ khi bà còn con gái. Suy tính mãi bà lại thôi, không hỏi con gái ông nghị nữa và bà lại nghĩ đến một đám khác.
Một sự bất ngờ giúp bà. Một hôm bà Cang ở Phúc Yên về Hà Nội thăm bà Phong, được gặp bà Hiến, người chủ cho bà Phong thuê nhà. Sau câu chuyện giới thiệu, rồi lân la bà Phong kể lể đầu đuôi về gia đình bà Cang. Các bà vẫn có cái tính dài dòng như thế. Đã nói đến chuyện gì, thì các bà kể từ nguồn từ gốc, từng dấu vết con con và tới mấy giờ đồng hồ, người nghe vẫn không hiểu hết hay còn. Nói tới một ông tham, ông phán nào, thì các bà phân tích tiền lương bao nhiêu, phụ cấp bao nhiêu, mấy vợ, mấy con, thân thế, oai quyền đến bậc nào, tính nết ra sao. Có khi các bà còn nhỏ to cả đến chiếc xe nhà gọng đồng hay mạ kền, màu vàng hay đen. Rồi nhân tiện các bà nói đến cả thằng xe, con sen hay vú già của người ta. Cái lối rỗi rãi đi bàn việc người, hay lo lắng hộ người hình như bà nào cũng mắc phải. Và có lẽ đó là một chứng bệnh truyền nhiễm. Cứ bà nọ ngồi bên bà kia là cái thói xấu đó nảy ra tự bà nào không rõ, nhưng cứ dần dần lan ra rồi thấm thía vào khắp mọi bà tụ họp.
Cũng bởi cái lối tò mò tỉ mỉ trên đây mà khi câu chuyện giữa bà Phong, bà Cang và bà Hiến gần tàn thì bà này đã được biết rành mạch rằng bà Cang bị chồng ruồng bỏ, có một gái, một trai; người con gái mới mười bảy tuổi buôn bán ở Phúc Yên, người con trai làm ngạch Tây sở Hỏa xa. Về phần bà Cang thì bà cũng được biết tường tận rằng bà Hiến góa chồng từ ngày mới ngoài ba mươi, có một trai và bốn gái. Cậu con trai đang học ban tú tài Tây, cô con gái lớn nhất mới mười tám tuổi, hiền lành, phúc hậu, đứng đắn và có nhan sắc.
Câu chuyện đến đó, bà Cang để ý ngay đến cô con gái bà Hiến. Bà lựa lời dò la thêm và được biết bà Hiến mở đồn điền và có nhiều trại ấp bên Bắc Ninh. Thấy cách sinh hoạt của bà Hiến bà Cang tin ngay rằng đó là một gia đình nền nếp. Bà sung sướng nhất là khi được biết bà Hiến ở Bắc Ninh, một tỉnh khá xa với Phúc Yên. Sau cuộc gặp gỡ trên đây, bà ta đánh bạo rủ bà Phong cùng sang Bắc chơi để có dịp xem mặt con gái nhớn bà Hiến.
Bà Cang và bà Phong đi Bắc Ninh. Bà Cang thấy công việc của Thúc có vẻ khó khăn, nên lần này bà chu đáo hơn. Bà cho rằng cái số của Thúc như thế là cao số, vất vả nên bà cố sức thận trọng để tránh những điều rủi ro. Bà đã chọn ngày rất cẩn thận. Nhờ người xem lịch rồi bà ra đi vào ngày mồng tám, theo thầy số, là ngày xuất hành tốt. Bà thuê một chiếc ô-tô con, mang theo mấy cân lê, mấy cân táo, rồi cùng bà Phong ra đi. Đến nơi bà nói dối rằng sang Bắc có chút việc, nhân tiện vào thăm gọi là có “đồng quà” biếu bà Hiến. Bà đã suy nghĩ lung lắm nhưng không có cách gì ổn hơn, nên đành phải dùng cái kế hoạch đó. Bà sợ nói rõ hẳn sự thực ra thì rồi bà Hiến lại dặn dò con gái lớn giữ gìn ý tứ. Như thế thì mất hết vẻ tự nhiên và công việc xem xét của bà sẽ bị sai lầm. Bà từ tốn khôn khéo nói với bà Hiến:
- Chẳng ra gì thì cũng là chỗ quen biết rồi. Qua lại thăm nhau một tý gọi là chỗ bạn già với nhau.
Bà Hiến cũng đã thừa hiểu là mục đích của bà Cang chỉ là tới để xem mặt con gái mình, nhưng bà cũng vờ như không biết, ngọt ngào đáp lại:
- Vâng thưa bà, thế thì còn gì bằng. Chúng tôi xin có lòng cảm ơn bà đã có bụng tốt như vậy.
Bà Hiếu sai người pha nước, ngồi tiếp chuyện hai bà khách. Đối với bà Phong là chỗ quen thân từ lâu nên câu chuyện có dễ dàng, không cần giữ ý cho lắm. Riêng với bà Cang là người bạn mới, bà rất dè dặt trong câu nói. Sự từng trải đã cho bà biết rằng giàu có mà ngồi đâu cũng bô bô khoe khoang, lấn át cả lời của người nói chuyện với mình, thì chỉ làm người ta ghét mình. Chẳng bao giờ người ta thấy bà kể lể là mình giàu tới bậc nào. Theo ý bà thì như thế lại được hai cái lợi: cái lợi thứ nhất là mọi người sẽ cho mình là nhũn nhặn, và cái lợi thứ hai là sẽ không có ai tìm cách vay vỏ lôi thôi. Bà thường tự hỏi:
- Ngồi đâu cũng dương đông, xích tây, tôi có bao nhiêu nhà gạch, bao nhiêu tiền gửi nhà băng, rồi đến lúc người ta hỏi vay dăm bảy chục một trăm, lại không cho thì rồi còn mặt mũi nào nữa. Mà có cho vay lại phải đi đòi đến nhẵn ngõ. Chẳng dại gì mà hớ hênh thế! Cứ kín đáo là hơn cả!
Cái ý nghĩ khôn ngoan trên đây đã xui bà cân nhắc từng lời nói trong câu chuyện. Từ câu hỏi cho tới câu trả lời khách, bà đều hơi lo lo, không khác người có món tiền to đi trong đám đông, chỉ sợ có kẻ gian lấy mất. Bà Cang hỏi:
- Tôi thấy nói bà ở đây có mấy chục nóc nhà cho thuê...
Sự thực là như thế, nhưng bà Hiến vội giấu giếm ngay:
- Làm gì được ạ. Cứ kể ra thì cũng gọi là tạm đủ tiêu, không túng bấn đến phải vay mượn thôi, chứ làm gì có thừa thãi cho lắm. Ở ngoài người ta không biết, người ta cứ phao đồn lên thế đấy ạ.
Bà Cang mỉm cười:
- Đủ ăn đủ tiêu của bà thì cũng bằng vạn thừa thãi của người khác.
Nâng chén uống liền hai ngụm nước chè, rồi bà lại đủng đỉnh hỏi thêm:
- Còn đồn điền của bà tôi thấy bảo rộng tới ngoài hai trăm mẫu.
Bà Hiến lại vội che chở ngay:
- Đâu có ạ. Chưa được một trăm mẫu ạ. Mà những ruộng lại toàn là ruộng xấu cả. Thóc lúa chẳng thu được mấy tí.
Sự thực thì ba trăm mẫu ruộng của bà mỗi vụ thu tới hơn ba trăm thóc tốt. “Nhưng nói ra để làm gì!”, bà nghĩ thầm. Thấy bà Cang cứ dò la về tiền của, bà đã đem lòng nghĩ là bà này có ý định lấy vợ giàu cho con. Và từ đó bà lại cố tìm cách kín đáo hơn. Sự thực thì bà Cang đã được nghe bà Phong nói bà Hiến giàu có ra sao rồi. Nhưng trong câu chuyện bà vẫn vồn vã hỏi han về ruộng đất như thế là vì bà vẫn tin rằng những người giàu có thì hay khoe khoang và chỉ ao ước mong mỏi có dịp để bộc bạch nói hết ra. Muốn đánh vào chỗ yếu đó, nên bà đã cố tìm cách khơi mào để gây cho bà Hiến cái dịp ao ước đó. Và làm như thế để cho câu chuyện về sau dễ nói, dễ đưa đẩy. Bà vẫn tự bảo:
- Muốn gì thì muốn nhưng cần nhất là phải làm vừa lòng người ta đã mới được.
Mỗi bà đều có những ý nghĩ riêng như thế, nên câu chuyện thành chểnh mảng, không ăn điệu với nhau. Bà Phong ở giữa chỉ biết nghe ngóng và thỉnh thoảng đỡ bà này một câu, nói nốt hộ bà kia mấy tiếng. Câu chuyện dần dần rời rạc rồi tàn hẳn. Bà Cang lúc đó mới bắt đầu dò xét. Bà ngắm nghía gian nhà, xem cách xếp đặt xem quang cảnh trong ngoài ra sao. Bà vẫn tin rằng người nội trợ có đảm đang thì nhà cửa mới có thể ngăn nắp, và con cái mới có nết na, đúng mực. Cứ dựa vào cái quang cảnh bên ngoài cũng có thể biết được đôi chút về tính tình của những người trong nhà. Lần này bà xem xét kỹ lưỡng gấp ba gấp bốn hai lần trước, lần bà Nhất bắn tin, và lần bà hỏi con gái “ông chủ”. Vì bà Nhất và ông chủ là người cùng tỉnh, thì cứ dò la dần dần cũng được; theo ý bà cứ mỗi lần một tý rồi cũng biết hết cả được. Nhưng đối với bà Hiến thì bà lại không thể như thế được vì đường sá xa xôi.
“Chả lẽ cứ vài ngày lại thuê chiếc xe con nhảy bổ đi Bắc mà thám thính được ư. Cứ thế thì lấy được cho con mình mụn vợ đến phải vỡ nợ”.
Nghĩ vậy nên bà lại càng ra công dòm dỏ. Bà ngắm nghía từng góc nhà, từng cái mặt bàn xem có lau chùi cẩn thận không, bức tranh treo trên tường có lệch lạc không. Thực là một sự kỹ lưỡng ra hẳn mọi giới hạn. Bà đã chăm chú vào cái việc đó đến nỗi bà Hiến đã mời mọc bà tới mấy lần mà bà chưa uống cạn chén nước.
Con giai bà Hiến theo học ở Hà Nội; chỉ còn mấy người con gái ở nhà. Giữa lúc đó thì Hân - con gái lớn bà Hiến - đón em đi học đã về. Mấy chị em ở trên xe nhà bước xuống mở cửa bước vào. Hân ngoan ngoãn chào. Cái cử chỉ ấy đã làm bà Cang, ngay từ lúc đầu, có nhiều cảm tình với Hân. Bà có ngay ý nghĩ rằng đó là một gia đình có khuôn khổ, có lễ nghi.
Hân vào nhà trong. Bà Cang chờ đợi mãi không có dịp nào thấy nàng ra. Bà bèn xin phép bà Hiến “ra sau”. Chính bà cũng thấy làm như vậy không được lịch sự cho lắm. Nhưng chẳng còn kế hoạch nào hơn, bà đành liều dùng cái lối đó vậy. Mục đích của bà chỉ định được ngắm nghía Hân gần hơn. Khi thấy nàng ở cửa bếp, bà thân mật hỏi:
- Cô chỉ giúp tôi chỗ “ra sau”.
Bà vờ lảng ra một tý rồi trở lại ngay. Hân vẫn còn đứng chỗ cũ. Bà ngắm vườn cam ngay trước mắt rồi lấy lời khen ngợi:
- Gớm, vườn cam tươi quá, cô nhỉ. Thế kia mà khi nó đã chín đều cả trông thật đẹp mắt vô chừng.
Hân bẽn lẽn, chẳng biết trả lời ra sao, chỉ biết nhẹ nhõm “vâng” một tiếng. Sau câu hỏi khơi mào, bà Cang lại hỏi sang nhiều chuyện khác. Chỉ cốt để xem lời ăn tiếng nói ra sao. Bà hỏi chợ ở chỗ nào, trường học “các em” tới học có xa không. Trong khi hỏi chuyện bà vẫn không quên nhìn nhận con mắt, vành tai, sống mũi của Hân. Bà xem cả đến bàn chân, bàn tay, ngón tay. Muốn xem tay Hân, bà đánh bạo nắm lấy tay nàng, vờ vịt xem chiếc vòng huyền nàng đeo ở cổ tay. Khi xem chân thì bà lên tiếng khen đôi dép nhung. Bà cúi hẳn người xuống ra ý muốn xem cành hoa hồng thêu trên đôi dép. Nhưng chỉ là để nhìn kỹ mu bàn chân, gót chân. Bà đã thấy nhiều người bảo mu bàn chân mà u lên quá thì người hay ốm đau, quặt quẹo; và gót chân con gái có đo đỏ thì người mới được vui tính.
Trong việc dò xét này, bà đã được vừa lòng. Bà chỉ chê cái trán hơi lệch và đôi lông mày “khí cao”. Khi lên nhà trên, bà Hiến ngỏ lời giữ bà lại “xơi bữa cơm nhạt”, bà Cang mỉm cười đáp ngay:
- Thôi thì tôi về đây chơi cũng như chỗ người nhà, bà cho ăn thì cũng xin vâng.
Ngừng một lát, rồi bà lại ngọt ngào:
- Nhưng bà cho ăn xoàng xoàng thôi, chỗ người nhà ấy mà, khách khứa gì!
Sở dĩ bà tỏ tình thân mật như thế là để cho công việc hỏi Hân về sau này cho thêm phần dễ dàng, vì bà có ý muốn hỏi Hân rồi. Và bà đã nhận lời ăn cơm, không hề ngỏ lời từ chối là vì bà hy vọng rằng trong bữa cơm thế nào cũng có Hân cùng ăn. Như thế, bà sẽ được xem cách ăn uống của nàng. Vì bà thấy ai ai cũng bảo rằng, người nào khi ăn mà gắp úp bàn tay, thì là người giả dối chỉ bóng bẩy bề ngoài và người nào hay gõ bát mỗi khi và xong miếng cơm là người hoang toàng, hoặc nhai xương mà kêu to thành tiếng “rau ráu” là người hay chửi chồng mắng con. Bà sung sướng rằng trong bữa cơm bà sẽ được hiểu biết tính nết Hân hơn nữa. Cuộc dò xét ở cửa bếp có lẽ còn là chưa đủ. Song bà đã không được toại ý, vì bà đã khẩn khoản, nhưng bà Hiến vẫn không để cho Hân cùng ngồi ăn, sợ rằng ngộ nhỡ con gái mình lại có gì thất thố.
Cơm xong, bà Cang xin về. Bà Hiến mời giữ lại chơi. Bà Cang cho cuộc dò xét như thế cũng tạm là đủ, nhất định từ chối rồi cùng bà Phong lên xe. Liền ngay hôm đó, bà Cang mời bà Phong về Phúc Yên chơi. Bà tiếp đãi người bạn rất ân cần rồi tỏ ý muốn nhờ bà mối manh hộ con gái bà Hiến. Bà đã suy nghĩ kỹ càng. Nếu tự ý bà đứng lên xin hỏi, thì hơi ngượng ngùng, vì bà Hiến là người giàu có mà bà thì nghèo. Bà muốn tránh cái ngượng đó. Cách mấy ngày sau, bà Phong lại đi sang Bắc, tìm cách giúp bà Cang. Bà Hiến trả lời cứ cho Thúc về để bà xem mặt xem người và để cho “đôi bạn trẻ gặp nhau”. Nếu cả hai đều ưng thuận thì bà cũng sẽ nhận lời. Khi được tin ấy, bà Cang còn đi lại chơi bời mấy lần với bà Hiến cho thêm thân mật rồi mới gửi giấy đi Sài Gòn cho Thúc biết. Bà tin rằng sự thân mật đó sẽ khiến bà Hiến rộng rãi với con mình trong khi con mình tới để bà xem mặt.
May cho Thúc: khi nhận được thư của mẹ thì lại vừa trúng vào ngày chàng được nghỉ phép để về Hà Nội thi kỳ chuyên nghiệp. Thi xong còn được rỗi rãi hơn một tuần lễ, chàng về ngay Phúc Yên rồi cùng với mẹ đi Bắc Ninh để xem mặt và để cho bà Hiến xem mặt. Công việc thỏa thuận ngay.
Muốn cho được chắc chắn, không có những chuyện lôi thôi như mấy lần trước, bà Cang bèn vội vàng thu xếp làm lễ hỏi ngay lập tức. Việc ăn hỏi xong, bà Cang đã hơi yên trí và bà cho thế là đã gắn bó chặt chẽ với nhau, không thể buông được nữa.
Bà sung sướng nghĩ thầm:
- Thế là mười phần đã xong xuôi tới sáu, bảy! Xong việc này rồi còn lo chuyện con Vinh nữa!”