PHẦN THỨ NĂM
Năm nay, Thanh không về quê ăn Tết. Chàng đã chán cái cảnh Tết ở nhà ông chú hay bà cô, với một ngày hai bữa cơm no nê rồi lại nằm. Song chưa bao giờ bằng buổi chiều ngày ba mươi, chàng cảm thấy cái cảnh cô độc, hiu quạnh buồn nản của đời chàng. Cái vẻ tấp nập ngoài phố của mọi người bận rộn về Tết như phản tượng với tâm trí chàng. Bầu không khí ấm cúng trong mọi gia đình tươi tắn với những cành đào, những bông hoa thủy tiên đã làm lòng chàng xao xuyến với không biết bao tính tình trái ngược. Chàng vẫn không ưa thích gia đình. Sống một cách khác thường vô gia đình, chàng cho là sung sướng, vì không có một điều gì bó buộc về mọi phương diện. Vậy mà khi ngày cuối năm gần tàn, bỗng nhiên chàng cảm thấy một sự thiếu thốn mênh mang, vì thấy mình như thiếu một nơi tụ họp như trăm nghìn người khác. Và chàng lại có ý muốn thu xếp để về ăn Tết với ông chú.
- Ít ra ở đấy ta sẽ thấy bên ta một người thân thuộc và ta sẽ có cảm tưởng là ở chính nhà ta.
Chàng nghĩ vậy, nhưng chàng lại mỉm cười nhắc lại hai tiếng “nhà ta”. Đối với chàng hai tiếng đó chứa chấp không biết bao nhiêu sự mai mỉa. Giữa ông chú và chàng, làm gì có chút tình thân mật! Mỗi khi chàng về, mấy người em ngắm nghía chàng như một người tận đâu đâu nhỡ bước tạm nghỉ nhờ và đối lại với ông chú, bà thím và mấy đứa em, chàng cũng gần có vẻ như thế. Những ý nghĩ khiến chàng quên hẳn cái ý muốn về quê. Tối ba mươi chàng khóa chặt cửa, rồi đi xem chớp bóng. Khi cuốn phim vừa hết thì ngoài phố tiếng pháo giao thừa bắt đầu nổ. Thanh ở trong rạp ra, không về nhà ngay. Mưa phùn. Chàng bẻ rủ “bo” chiếc mũ dạ và dựng đứng “rơ-ve” chiếc áo pardessus, châm điếu thuốc lá hút cho ấm người. Rồi chàng lang thang ngoài phố, quanh hồ Hoàn Kiếm, qua Hàng Đào, Hàng Ngang, lộn về Hàng Bông, Hàng Gai. Trước đền Ngọc Sơn, các bà các cô chen chúc nhau dưới mưa phùn để vào lễ. Trước cửa đền Hàng Trống, người cũng đông nghịt. Họ bói thẻ, dâng sớ. Mỗi người trở về nhà với một nắm hương và một cành lộc tự tay ngắt lấy hay bỏ tiền ra mua. Trước cửa mọi nhà, người ta kê những bàn thờ ra tận giữa trời để lễ giao thừa, cầu phúc, cầu lộc.
Trời mưa mỗi lúc một nặng hạt. Hai ống quần Thanh đã đầy những bùn. Chàng thấy lạnh tai, mỗi lần có luồng gió bấc hắt vào mặt chàng từng vốc nước lấm tấm. Chàng trở về nhà. Cái hiu quạnh của gian buồng lại làm chàng cảm thấy lạnh lẽo hơn. Lạnh lẽo trong thân thể và lạnh lẽo trong cõi lòng.
Thanh thay quần áo để đi ngủ. Chàng trằn trọc với không biết bao nhiêu ý nghĩ lộn xộn trong trí, không sao ngủ được. Ở ngoài tiếng pháo giao thừa vẫn đua nhau nổ. Chàng trở dậy, bật đèn, viết cho Thúc một lá thư. Chẳng biết nói gì với bạn, chàng cầm bút tỉ mỉ tả lại cuộc đi chơi đêm qua cho bạn. Khi đọc lại lá thư, chàng mỉm cười: “Thực là một bài văn viết theo thể thư, chứ không phải hẳn là thư nữa!”. Khi gấp lá thư bỏ trong phong bì, chàng lại còn nghĩ thầm:
- Có dễ mình cũng là văn sĩ chắc!
Chàng ngả mình nằm dài trên giường. Bên chàng, là mấy cuốn tiểu thuyết quốc văn chàng đã mua để đọc trong dịp Tết. Chàng đưa tay với một cuốn. Chàng tự bảo: “Trúng quyển nào, đọc quyển ấy, vì đằng nào rồi cũng phải đọc cả”. Cuốn sách chàng vừa cầm lên là cuốn Ngày Mới1. Chàng đã mê man đọc, từ trang nọ sang trang kia, không thấy chán. Vai Trường trong truyện, chàng thấy gần gụi chàng quá. Nhiều khi chàng tìm thấy ở nhân vật đó những ý nghĩ, những tính tình và những trường hợp giông giống như chính mình vậy. Chàng cũng đã như Trường nghĩ đến cái học vụ lợi, nhưng rồi chàng cũng thấy cái thấp kém ở chỗ đó. Cũng như Trường, chàng đã có lần mơ ước tiền của một cách rất vô lý. Đi đến đoạn cuối quyển truyện, chàng sung sướng thấy Trường vui vẻ sống với Trinh trong cảnh nghèo. Bỗng nhiên, chàng tự nghĩ:
- Ta nhất định sẽ lấy Vinh mà nếu Vinh cũng sống giản dị được như Trinh thì sao ta lại không thấy hạnh phúc trong cảnh chung sống đó. Hạnh phúc ở trong lòng ta chứ không phải ở những sự vật bên ngoài! Chàng như thấy một “ngày mới” vui tươi bùng nở trong lòng chàng.
Chàng lại thầm nhắc lại cái ý nghĩa của cuốn truyện:
- Phải, hạnh phúc là ở tự lòng ta chứ không ở những sự vật bên ngoài.
Chàng mê man với cuốn sách đến nỗi chàng đã cố đọc thẳng một mạch cho hết. Và lúc đó thì vừa đúng bốn giờ sáng. Chàng thiu thiu dần rồi ngủ đi được. Sáng hôm sau, gần chín giờ chàng mới dậy. Những tràng pháo đầu năm vẫn còn thi nhau nổ.
Mười một giờ. Thằng bếp dọn cơm cho Thanh ăn. Bữa cơm không hề có vẻ tết. Không rượu, không mứt, không bánh chưng. Vì ngủ chưa đẫy giấc nên chàng ăn không thấy ngon miệng. Cơm xong, chàng bỏ cả giấc ngủ trưa đi thăm các phố để xem cảnh tết ở đất Hà Nội. Chàng không thấy cái vui của ngày thường. Các cửa hàng đều đóng kín cửa như để tránh một thứ bệnh truyền nhiễm. Quang cảnh phố xá rời rạc. Những người qua lại đều ngượng nghịu mất hết vẻ tự nhiên trong điệu bộ bởi những bộ quần áo mới cần phải giữ gìn. Nhiều ông chỉ có thể từ từ nhích bước, không sao bước đi được, vì chân bị đau bởi những đôi giày mới. Các ông vênh váo với những điếu xì gà ngông nghênh giữa đôi môi; các bà loe loét những son hai bên mép vì những nắm hạt dưa. Người nào cũng có vẻ tự túc, và trông người nào Thanh cũng tìm thấy những cái ngộ nghĩnh đáng buồn cười. Chàng có cảm tưởng như hết thảy họ đương đóng một vở hài kịch mà phố xá là sân khấu. Cái ý tưởng so sánh đó khiến chàng luôn luôn mỉm cười một mình. Nghĩ đến cái buồn chàng cảm thấy chiều hôm qua, chàng lấy làm lạ cho sự thay đổi rất dễ dàng của lòng mình. Chàng tự hỏi: “Ta lại có thể vui buồn được một cách dễ dãi như thế ư?”.
Ngắm phố chán, chàng đi thăm mấy ngôi đền trong thành phố rồi lại về nhà nằm hút thuốc lá, đọc sách.
Sáng ngày mồng hai, cái cảnh tết đã bắt đầu nhạt. Chiều mồng một chàng có nhận được thư của bà Cang gửi lên bảo chàng về ăn Tết ở Phúc Yên với bà. Lá thư gửi đi từ hăm tám An Nam, nhưng vì xe thư chậm nên mãi tới chiều mồng một chàng mới nhận được. Song chàng còn lưỡng lự, không biết có nên đi Phúc Yên không. Chẳng phải vì chàng đã đem lòng thờ ơ với Vinh. Trái lại. Tình thân mật mà nhiều khi Thanh cho là tình yêu tha thiết đối với Vinh đã trở lại lòng chàng. Nhất là từ khi chàng được biết tin rõ rằng bà Cang đã có ý muốn gả Vinh cho mình. Cái tin này chính bà Hiến cho chàng biết. Sở dĩ chàng đã được làm quen với bà Hiến vì một hai lần bà Cang tới thăm chàng có rủ bà Hiến cùng tới. Bà Cang thường khen rằng Thanh là một người nết na, đứng đắn, không hay chơi bời. Sau vài bận lại chơi thăm Thanh, bà Hiến cũng nghiệm thấy như vậy và khi thấy nói chàng bồ côi từ thủa nhỏ và lại nghèo nên bà cũng đem lòng thương chàng. Mỗi lần ở bên Bắc sang, bà vẫn tự ý vào chơi thăm chàng. Rồi một hôm bà mang câu chuyện bà Cang muốn gả Vinh cho chàng ra nói. Mà đấy là một điều có thực. Không phải bà Hiến đã bịa đặt ra để lấy lòng Thanh. Chính bà Cang đã nói cho bà biết.
Lần ấy, bà Cang e Thúc bận rộn quá, lâu ngày không thư từ gì về thăm bà Hiến, nên bà mua mấy cân táo về chơi Bắc Ninh. Bà cũng nói rõ để bà Hiến biết rằng bà về để “trước là thăm bà, sau là thăm chị Hân”. Bà nằn nì nhắc đi nhắc lại mãi mấy câu:
- Nếu cháu nó có bận công, bận việc quá mà không năng giấy má về thăm bà thì bà cũng bỏ quá đi cho. Thương rể như thương con.
Sau câu chuyện đắn đo ấy để che chở cho Thúc, bà nói đến chuyện làm ăn, buôn bán rồi mới đến Vinh. Bà Hiến lấy giọng thân mật hỏi:
- Thưa bà, bà đã định liệu gì cho cô Vinh chưa?
Bà Cang biết ngay là bà Hiến nói về việc chồng con của Vinh. Bà cũng thực thà nói ngay:
- Ấy, thưa bà cũng có mấy đám hỏi, nhưng tôi từ chối cả. Tôi định rồi sẽ gả cháu cho anh Thanh. Xem ra anh ấy hiền lành nết na và tốt bụng lắm.
Không để bà Hiến nói len câu nào, bà vội tiếp luôn lời:
- Anh ấy nghèo, dạy học dạy hành chẳng được là bao nhưng rồi gây dựng cho anh ấy. Trời sinh voi, trời sinh cỏ, không làm việc này thì làm việc khác.
Bà Hiến nghe chuyện cũng thán phục cái lòng tốt của bà Cang và cố tìm lời tán thành, vì bà đã có nhiều cảm tình với Thanh. Khi ra về, bà Cang sung sướng trong lòng đã bất ngờ làm được một việc rất có lợi cho mình: Bà biết rồi thế nào bà Hiến cũng nói lại chuyện đó với Thanh. Thế là bà Hiến đã là một người mối lái mà không biết bà Cang không dám tự ý nói với Thanh, vì chưa hiểu ý định của chàng ra sao. Bà tin rằng khi câu chuyện này đã đến tai Thanh mà thấy chàng trở nên thân mật với Vinh thì hẳn là công việc sẽ xong xuôi. Quả thực bà đã được vừa ý.
Chừng gần một tháng sau, bà Hiến về Phúc Yên thăm bà Cang. Bà cũng nói chuyện rằng bà đã nói lại với Thanh về việc bà Cang muốn gả Vinh cho chàng. Bà Cang cố giấu vẻ sung sướng và chỉ cười xòa. Sau câu chuyện trên đây, bà Cang nghiệm thấy rằng Thanh luôn luôn gửi thư về thăm bà và Vinh rồi một đôi khi, vào những ngày được nghỉ, lại còn về chơi. Bà hiểu ngay rằng Thanh đã đem lòng yêu Vinh. Bà tự bảo thầm: “Chẳng mê cái con Vinh mà lại thế!”. Và bắt đầu từ đó bà lại nghĩ đến cách làm cho Phúc và Vinh quên hẳn nhau, không được thư từ gì cho nhau nữa. Bà đã biết Phúc đem lòng yêu Vinh từ lâu. Nhưng bà không muốn để cho tình cảm xui bà bỏ cái dự định của bà. Bà xui Vinh viết thư bảo Phúc đừng gửi các báo chí về nữa. Bà cố giấu không cho nàng biết vì lẽ gì, bà đã dối nàng bằng mấy câu:
- Báo bổ nhảm nhí! Cả ngày mày cứ giở tờ này sang tờ khác rồi chẳng còn làm được việc gì. Còn phải học làm, học ăn chứ.
Bà tin rằng chỉ bằng cách bảo Phúc ngừng việc gửi báo cũng đủ để chàng hiểu rằng cuộc tình duyên của chàng với Vinh không thể nào thành được. Bà muốn thu xếp mọi việc cho êm thấm để tránh những điều trách móc. Về phần Vinh, nàng không hiểu gì về ý định của mẹ. Đối với Phúc, nàng cũng chưa hiểu rõ rằng nàng đã yêu chàng chưa. Và nàng cũng chẳng biết là Phúc có yêu mình không. Vì trong những lá thư của Phúc gửi về, Phúc vẫn e lệ, không dám thổ lộ gì về tình ái, tuy chàng đã yêu Vinh từ lâu. Chàng chỉ hay bông đùa cho vui. Trả lời lại, Vinh cũng chỉ biết khen truyện đăng báo này hay, truyện đăng báo kia dở. Cũng như Phúc, chưa bao giờ nàng đặt bút nói gì về sự yêu đương. Nàng cũng rụt rè, cố cân nhắc trong lời nói. Bởi vậy nên khi nghe lời mẹ viết thư từ chối báo chí nàng không hề thấy những tính tình buồn nản sôi nổi trong lòng, nàng chỉ hơi khó chịu, có lẽ là cái khó chịu từ nay sẽ không còn được đọc những tờ báo mà nàng đã ham thích. Trong thư gửi cho Phúc nàng cũng theo lời mẹ nói rằng không muốn phiền phức để làm chàng phải mất thì giờ.
Đối với Thanh thì trái lại, bà Cang vẫn ao ước để cho Vinh viết thư từ đi lại. Thỉnh thoảng dựa vào cớ hỏi thăm, bà bảo Vinh viết thư cho chàng. Trong thư có khi đứng lời bà, có khi bà để cho Vinh đứng lời của chính nàng rồi bà bắt chua thêm một hai câu chúc tụng của bà vào.
Về phần Thanh, ngày ở Cầu Giát về Hà Nội, chàng đã hối hận không nhận lời cùng đi Sài Gòn với Thúc để được gần Vinh. Trong lúc xa nàng, Thanh đã thấy rõ tình yêu ngày một nảy nở mạnh trong lòng. Giữa cái lúc chàng đang xây đắp không biết bao cảnh sống đẹp với Vinh về tương lai thì một người bạn của Thúc có quen chàng đã cho chàng biết một tin đau đớn là bà Cang đã có ý định gả Vinh cho Phúc. Người bạn đó đã cả quyết nói với Thanh rằng việc hôn nhân không có thể vì một lẽ gì mà không thành được.
Sau cái tin trên đây Thanh không còn một chút hy vọng gì và cái tình yêu của chàng với Vinh sẽ chỉ là giấc mộng. Sự thực, ngày đó, chàng không hiểu Vinh có yêu chàng không, nhưng điều chắc chắn, chàng không còn ngờ vực là chàng đã thành thực yêu Vinh. Cái tuyệt vọng đó trong ái tình đã khiến chàng mê man trong mọi thú vui tầm thường, không hề dè dặt giữ mình. Chàng học khiêu vũ rồi tối nào cũng cùng mấy người bạn đua nhau tới các tiệm nhảy. Nếu không, chàng lại cùng họ đi hát. Chàng không biết đánh trống. Nhưng điều đó chàng chẳng hề quan tâm. Vì chàng chỉ mong có dịp được gần bọn gái giang hồ để được nô nghịch cho dễ qua thời giờ. Chàng thường tỏ ý ghét những người bạn chơi bời; nhưng trong lúc chán nản, chàng đã ùa theo họ. Cái cốt đích của chàng là sao có thể quên hẳn được Vinh. Nhưng từ ngày được biết rõ rằng bà Cang muốn gả Vinh cho mình, Thanh đã quên ngay được cái buồn cũ và chàng cố tìm cách nối lại dây thân ái khi xưa. Chàng nghĩ rằng cái việc bà Cang định gả Vinh cho Phúc mà một người bạn chàng đã cho biết là sai. Chàng không hiểu gì về sự thay đổi dự định của bà Cang.
Nếu trong tuyệt vọng chàng đã tìm cách mạt sát tình yêu, thì trong lúc này, chàng lại thấy rằng chỉ trong ái tình mới kiếm được hạnh phúc. Chàng nghiệm thấy rằng bây giờ đã đến cái tuổi tình yêu của chàng nảy nở hoàn toàn và chàng tin rằng mối tình yêu của chàng với Vinh là mối tình thứ nhất trong thời niên thiếu của chàng. Chàng hối hận khi nghĩ đến những cuộc mua vui tục tĩu trong các tiệm nhảy, trong các nhà cô đầu.
Chàng luôn luôn gửi thư cho Vinh. Những lá thư thứ nhất, chàng bắt đầu: “cô Vinh”, tự xưng là tôi; dần dần chàng chỉ viết độc trọi một tiếng ‘Vinh”, song tiếng “tôi” chàng vẫn còn giữ, nhưng sau hết chàng bạo dạn dùng tiếng “anh”. Cuối thư thường thường chàng có thói quen thêm những câu mà chàng cho là có thể biểu lộ được tình yêu của mình: “Anh bắt tay Vinh”, “Anh của Vinh”, hoặc “Tạm từ giã Vinh”, ‘Vinh hãy chờ anh trong lá thư sau...”.
Đáp lại Thanh, Vinh cũng dùng hai tiếng “anh” và “em”. “Anh Thanh của em”, “Em Vinh của anh”, đó là những câu thường có trong thư nàng. Mỗi tuần lễ thư trao đổi lẫn cho nhau cũng chừng ba bốn cái. Từ ngày luôn luôn thư từ cho Thanh, Vinh đã quên hẳn Phúc. Và nàng đã thấy yêu Thanh. Tình yêu lại càng chóng nảy nở trong lòng nàng, nhất là mẹ nàng luôn luôn nhắc nhỏm đến Thanh và khen ngợi chàng. Song nàng vẫn không dám đường đột nói ra với Thanh. Về phần Thanh, tuy chưa bao giờ chàng ngờ rõ rằng chàng đã yêu Vinh, nhưng sự thực, tình yêu đó đã ăn sâu trong lòng chàng. Mỗi khi được nghỉ hai ba ngày, Thanh lại thu xếp về Phúc Yên. Có khi chủ nhật chàng cũng về. Chiều thứ bảy ở trường ra, chàng đi ngay chuyến ô- tô năm rưỡi cho đến tận chuyến ô- tô cuối cùng ngày chủ nhật chàng mới ra về. Có khi chàng nấn ná mãi cho nhỡ ô- tô rồi sáng thứ hai về chuyến thứ nhất. Đã một hai lần chàng kiếu ốm hoặc có việc bận, nghỉ cả dạy học để ở lại Phúc Yên với Vinh. Chàng đã mê Vinh đến nỗi mà một lần chàng để ý tới một cô bán hàng bánh ở đầu phố Chợ Hôm; chàng thấy nét mặt cô hàng có nhiều vẻ giông giống Vinh. Chàng nghiệm thấy giống nhất là cái miệng cười và hai con mắt. Và từ đó ngày nào chàng cũng qua cái cửa hàng đó một hai lần để ngắm cô hàng. Chàng có cảm tưởng như chàng được ngắm chính Vinh vậy. Trong một lá thư gửi về Phúc Yên cho Vinh, chàng cũng nói chuyện cô hàng bánh trên đây. Chàng đã tỉ mỉ tả hình dáng cô hàng đó và cũng bảo là giống Vinh: “Có lẽ đó là Vinh thứ hai, hay là em ruột của Vinh trong kiếp trước; chàng viết trong thư. Thực không khác gì một bức tranh truyền thần của Vinh”. Rồi chàng viết thêm: “Ngày nào anh cũng phải qua cái cửa hàng để ngắm cô ta một chút... Vì trông thấy cô hàng anh tưởng như được ở gần Vinh vậy”. Viết xong, chàng còn cho là câu nói có vẻ sỗ sàng rõ rệt quá.
- Thứ nhất là rõ rệt, - chàng tự bảo.
Rô rệt đây đối với chàng có nghĩa là chàng đã ngỏ cái tình yêu của chàng một cách sống sượng quá. Chàng lưỡng lự mãi định không gửi lá thư đi, nhưng rồi chàng lại đánh liều vội vàng sai thằng bếp mang đi bỏ ngay. Chàng biết rằng nếu còn giữ lại thì chỉ trong nửa giờ hay một giờ nữa chàng sẽ xé tan mất lá thư mà chàng đã ra công viết cho thực đáng yêu.
Về phần bà Cang, mỗi khi rỗi rãi, bà lại lên thăm Thanh, có khi bà về một mình, có khi bà đưa cả Vinh lên. Bà đã bắt đầu săn sóc đến Thanh một cách tỉ mỉ. Bà chê gian nhà Thanh thuê ra vào không được tiện lợi và không được chắc chắn. Bà chỉ lo lắng rồi trong khi Thanh dạy học vắng nhà sẽ bị “mất mát cái gì”. Bà bảo chàng thuê một gian nhà khác. Thấy chàng phàn nàn về nỗi ít thì giờ, một lần bà đã bỏ hẳn một ngày lang thang khắp phố Hà Nội, tìm được cho chàng gian nhà có lối đi riêng, có sân và lại có buồng tắm cẩn thận. Khi dọn lại nhà mới, bà cố dò xét xem Thanh thiếu thốn những gì, bà bỏ tiền ra rồi tự ý đi sắm sửa cho đủ. Bà dặn dò chàng cách xếp đặt công việc trong nhà, cách chi tiền chợ cho thằng ở. Bà tò mò xem chiếc màn, chiếc chăn, chiếc gối, có đường chỉ nào tuột thì bà khâu lại cẩn thận. Vì Thanh ở có một mình nên bà chú trọng nhất về các việc bếp nước. Bà ân cần dặn chàng:
- Nước mắm thì anh nên bảo nó mua cả chai. Mua lẻ vừa đắt lại vừa không được ngon. Củi thì phải mua củi tạ, dùng củi đóm mà lại mua lẻ từng bó thì tốn lắm. Chỉ có một mình anh ăn thì nên đong thứ gạo tám thơm mà ăn cho nó dẻo dang hột cơm. Hay là để rồi chuyến sau tôi mang về cho một tạ gạo tám thơm mà ăn dần...
Thế cũng còn là chưa đủ. Thấy Thanh thích uống nước nóng, bà lên ngay phố mua cho chàng chiếc “phích” để đựng nước. Bà đưa chiếc “phích” cho Thanh xem và bảo chàng:
- Ấy tôi chọn mãi đấy. Cái này thì dùng tới năm, sáu năm là ít. Bây giờ đắt hơn trước. Những tám đồng rưỡi cơ đấy. Nhưng mà thôi, cái gì cần thì cũng chả nên tiếc tiền. Để kiếm ngụm nước nóng mà uống. Đi đâu về đến nhà đã khát chết người đi này, lại còn phải chờ nó đun mới có hớp nước. Mà nước đun đi đun lại chẳng bao giờ được ngon cả.
Bây giờ bà đã săn sóc đến Thanh cũng như trước kia bà đã săn sóc đến Phúc. Khi trước, mỗi lần ở Phúc Yên về Hà Nội, dù bận rộn tới đâu bà cũng qua thăm Phúc, bao giờ chàng cũng được bà đãi một thứ quà riêng. Bà luôn luôn hỏi đến sức khỏe, đến việc học của chàng. Song sự săn sóc Phúc không tỉ mỉ chu đáo bằng sự săn sóc tới Thanh ngày nay, vì lẽ Phúc thì ở hẳn trong gia đình còn cha mẹ, lại đông anh em và Thanh thì chỉ có một mình, không ai trông nom cho qua một việc gì.
Trước sự săn sóc âu yếm của bà Cang, Thanh cũng cảm động vui sướng. Chàng không còn ao ước gì hơn là chóng có thể lấy được Vinh rồi để bà Cang cùng về ở với mình cho vui. Mỗi lần nghĩ đến cái cảnh gia đình có bà Cang, Vinh và chàng thì trong lòng chàng lại nở một sự vui tươi vô hạn. Thanh tin chắc rằng cái cảnh gia đình chàng mơ ước trên đây sẽ mang lại cho chàng cái nguồn vui của sự sống và sẽ giúp chàng thấy cái phấn khởi trong sự làm việc. Vì tuy Vinh vẫn kín lời nhưng chàng cũng đã thừa biết rằng Vinh cũng đã yêu chàng cũng như Vinh đã biết chàng yêu mình nhưng chưa ai có dịp nói ra.
Bà Cang thì vẫn ái ngại vì nỗi chàng sống cô độc một mình. Bởi vậy bà vẫn mong ước cho việc của Thúc chóng xong để lo đến sự gây dựng cho chàng và Vinh. Trong khi chờ đợi bà vẫn luôn luôn đi lại để Thanh đỡ buồn và bà vẫn luôn luôn bảo chàng về chơi Phúc Yên để “gọi là có kẻ nọ người kia cho thêm vui”.
Bà thường nghĩ thế, nên trong dịp Tết, bà đã bảo Vinh gửi thư bảo chàng về Phúc Yên ăn Tết với bà. Chiều mồng một nhận được thư, chàng định đi Phúc Yên ngay, nhưng hết ô- tô và tàu. Sáng ngày mồng hai, chẳng hiểu tại sao chàng bỗng trở nên lưỡng lự. Đó vẫn là cái tính khác thường của chàng. Định làm điều gì mà không làm ngay thì chỉ một giờ hay hai, ba giờ sau là chàng đã thành do dự.
Chàng lại có ý muốn đi Nam Định rủ Phú cùng vào Ninh Bình thăm Thái, nhân tiện xem phong cảnh Non Nước, hoặc đi Hải Dương thăm Đột. Chàng phân vân quá. Vì đi Nam Định hay đi Hải Dương cùng vui cả, nhất là về Hải Dương. Đối với Đột thì chàng đã thân mật lắm và về chơi với Đột, chàng tưởng như về chính nhà mình. Về Hải Dương chàng có cái thú mà chẳng bao giờ chàng quên là được nô nghịch với Vân, em gái út, mới lên sáu tuổi của Đột. Thanh yêu Vân như em gái ruột của mình vậy. Nô nghịch chán rồi chàng tươi cười kể những truyện cổ tích, truyện thần tiên hay truyện yêu tinh cho Vân nghe. Cô bé thích quá cười vang nhà hay sợ sệt, ôm chặt lấy chàng. Mẹ Đột cũng có vẻ mến chàng. Và Thanh đã về đấy chơi luôn đến nỗi bà đã biết được cả những thói quen của chàng: giả hạn như trong bữa cơm, về gia vị chàng thích ăn “cà rốt”, ăn tráng miệng thì chàng thích đu đủ, chuối hơn là bánh ngọt. Về sự ăn uống thì Thanh rất dè dặt. Nhưng về nhà Đột thì chàng tự coi như người trong nhà và chàng ăn rất tự nhiên. Chàng còn nhớ vụ nghỉ hè năm vừa qua, chàng ra Đồ Sơn nghỉ mát. Đi qua Hải Dương chàng rẽ vào thăm Đột và nhân tiện để chơi với Vân. Chàng tới nơi vào lúc hơn bảy giờ tối. Cả nhà đương ngồi quanh bàn ăn cơm. Trông thấy cái cảnh tụ họp vui sướng trong gia đình đó, chàng bỗng cảm động quá, đặt chiếc va- li ngoài cửa phòng, bước vào rồi cố bình tĩnh cất tiếng chào mẹ Đột, nhưng chàng vẫn không sao nói rõ ra lời. Mẹ Đột mời chàng ăn cơm. Chàng không hề khách sáo, ngồi ngay vào bàn và ăn uống rất tự nhiên. Nhớ lại bữa cơm đó, chàng vẫn không quên được cảm giác vui vui chàng cảm thấy trong khi vừa ăn, vừa nói chuyện và bông đùa với Đột, với Vân. Cô bé đó đã nhiều lần cho chàng những dịp cười đùa một cách vô tư lự. Bởi lẽ ấy nên tuy chàng có nhớ Vinh, muốn được gặp Vinh, chàng cũng muốn đi Hải Dương. Chàng tự bảo thầm:
- Để còn mừng tuổi cho cô em bé của mình chứ!
Vừa bỏ bộ quần áo ngủ vào chiếc va- li con, chàng vừa phân vân nghĩ ngợi. Chàng loay hoay lựa chọn mãi. Khi đã khóa cửa, chàng vẫn còn chưa nhất định hẳn là sẽ đi đâu.