PHẦN THỨ BẢY
Thanh định chỉ ở Phúc Yên chơi một ngày. Chàng về ngày mồng hai. Chiều mồng ba chàng sửa soạn để ra về. Song chàng uể oải làm việc đó. Chàng còn muốn ở lại để được gần Vinh. Bà Cang thấy chàng thu xếp, thân mật bảo chàng:
- Hãy ở đây mấy ngày nữa cho vui. Về Hà Nội làm gì, rồi lại lủi thủi một mình.
Thạnh phân vân, không biết trả lời ra sao. Bà nốt lời:
- Em Thúc phải đi làm xa. Có anh về nhà thêm đông người và thêm vui thì hãy ở lại đây một hai hôm nữa. Về Hà Nội thì anh đã làm gì hôm nay.
Được bà khẩn khoản như vậy, Thanh vui sướng ở lại. Sang ngày mồng bốn, chàng nấn ná cho mãi đến ngày mồng năm, mồng sáu. Ngày mồng sáu chàng lại xin về:
- Thưa bà, chàng nói, bà cho phép con về Hà Nội ngày hôm nay. Mãi mồng tám con mới phải dạy học nhưng con muốn về trước một ngày.
Sự thực, Thanh còn muốn ở lại, nhưng e ở lâu không tiện nên chàng vẫn vờ xin về mà được bà Cang giữ lại thì chàng không hề từ chối. Nên trong câu nói trên đây, chàng đã cố ý thêm câu: “Mãi mồng tám con mới phải dạy học...”. Thấy chàng nói vậy, bà Cang lại giữ chàng bằng một câu:
- Mồng tám mới phải dạy thì sáng mồng bảy về cũng hãy còn sớm.
Và Thanh ở lại. Tối hôm ấy là tối cuối cùng chàng ở lại Phúc Yên trong dịp Tết. Từ hôm về Phúc Yên, chàng vẫn ngủ trong chiếc giường con ngoài mái hiên, sát ngay gian hàng. Vì chàng có thói quen dậy sớm để xem sách nên chàng không dám nằm nhà trong sợ làm phiền phức mọi người trong giấc ngủ. Đêm hôm ấy, chàng trằn trọc mãi không ngủ được. Chàng nghĩ đến ngày mai, cái ngày bắt buộc chàng phải trở về Hà Nội. Chàng thấy trong lòng buồn nản. Mấy ngày ở với bà Cang, chàng thấy vui vẻ lạ thường và chàng đã có cảm tưởng là chàng đã trở về chính nhà chàng. Nghĩ đến khi trở về Hà Nội, trơ trọi một mình, chàng bỗng thành nhớ nhung vơ vẩn, không hẳn là nhớ ai và nhớ vật gì. Có lẽ chỉ tiếc rồi sẽ không còn được cái vui trong lòng mà chàng cảm thấy khi sống trong bầu không khí thân mật trong đó có Vinh và bà Cang mà chàng đã tôn kính yêu chuộng như một người mẹ đẻ.
Mãi tới hơn mười giờ, chàng vẫn không ngủ được. Chàng trở dậy châm nến (vì ngoài mái hiên không có đèn điện) định xem một cuốn tiểu thuyết bỏ dở từ hôm mới về Phúc Yên. Cây nến để giữa bàn, ngọn lửa le lói chập chờn theo luồng không khí như vờn với bóng tối trong phòng. Mọi vật đều mập mờ. Bóng chàng in to và không rõ trên một góc tường, cũng theo ngọn lửa búp măng mà cử động. Chàng giở sách ra, trí óc nghĩ lan man. Không một ý tưởng gì rõ rệt trong sự suy nghĩ của chàng.
Thanh giở tới trang mình đã đọc được gần nửa, nhưng chàng lại giở cố thêm vài tờ nữa. Tiếng giấy cọ vào nhau làm gian buồng mất cả vẻ yên lặng rùng rợn của ban đêm.
Vinh nằm trong nhà thấy ánh lửa ló qua khe cửa và tiếng giấy sột soạt, chẳng hiểu tại sao nàng cho ngay đó là một hiệu lệnh của Thanh muốn gặp mình trong đêm nay, trước khi trở về Hà Nội. Nàng đã tin như thế, vì chính nàng cũng như Thanh đã trằn trọc mãi, không sao ngủ được. Nàng thấy buồn nản bâng khuâng ngay từ buổi chiều. Có Thanh, nàng thấy trong lòng thêm phong phú nhiều tình cảm và cuộc đời như đầy đủ hơn. Nghĩ đến lúc xa chàng, nàng cũng thấy buồn buồn, không phải là một thứ buồn sâu sắc, nhưng nhẹ nhàng mênh mang. Chẳng hiểu một sức mạnh gì đã xui nàng đánh bạo trở dậy khoác chiếc áo manteau rồi khẽ mở cửa ra hiên ngoài. Làm việc đó, nàng thấy như mình không định, không muốn làm, nhưng cứ làm. Thanh ngửng đầu, mỉm cười nhìn nàng nói:
- Cô Vinh chưa đi ngủ?
Chàng rụt rè mãi, không hiểu nên dùng tiếng em hay chỉ nói trống một tiếng ‘Vinh” để gọi nàng như trong thư, sau hết chàng thấy ngượng ngùng, lại điểm thêm tiếng “cô”.
Vinh cũng mỉm cười đáp lại:
- Chưa.
Hai người lại cười nhìn nhau. Hình như cả hai đều cười để tự chế mình đã có những ý định muốn gặp nhau trước khi chia rẽ. Vinh cố che đậy vẻ thẹn thùng của mình bằng câu hỏi:
- Hình như lúc nãy bỏ màn, em quên không bỏ gối cho anh.
Thanh biết rằng trong giường mình đã có gối, nhưng muốn cho Vinh khỏi sượng ý, chàng vờ mở màn, vừa nhìn vào nói:
- Có lẽ chưa có thật.
Và khi đã cố giữ được vẻ bình tĩnh, chàng quay lại bảo Vinh:
- À không, có gối rồi, cô Vinh ạ.
Nàng không muốn câu chuyện chỉ đến đó phải ngừng, bèn đánh bạo hỏi thêm:
- Anh xem sách? - Tôi xem cuốn sách mang về hôm nọ. Có chừng tám, chín truyện ngắn; tôi đã xem được bốn, năm. - Có hay không anh? - Hay lắm. - Thực tiếc em không giỏi tiếng Pháp để xem những sách hay anh vẫn xem.
Rồi như đã tìm được đầu câu chuyện, nàng kéo chiếc ghế ngồi bên Thanh và như muốn trách chàng:
- Mà như thế là chỉ tại anh. Giá hồi năm ngoái anh đi Sài Gòn dạy em học thì chắc nay em đã khá lắm. Chẳng giỏi cũng sắp xem được sách Pháp văn. - Hay bây giờ học bằng cách gửi thư? - Học như thế có chóng không anh? - Cố nhiên là không chóng bằng có người giảng bài ngay bên cạnh, nhưng học dần dần còn hơn là chịu dốt.
Nói xong câu đó, Thanh thẳng nhìn Vinh. Chàng đã vô tình dùng tiếng “dốt”. Vinh tưởng là chàng có ý nửa bông đùa, nửa muốn chế giễu nàng ít học, nàng hơi thẹn thùng, cầm lấy cuốn sách của Thanh để trên bàn. Nàng vờ lần giở mấy trang cho đỡ thẹn rồi hỏi:
- Đây là truyện trinh thám, phiêu lưu hay là tiểu thuyết thường? - Chẳng phải trinh thám, phiêu lưu mà cũng chẳng phải là tiểu thuyết!
Vinh mỉm cười nhìn chàng:
- Thế thì là gì? - Đó là tập văn trào phúng của một nhà văn Anh Cát Lợi. Đây chỉ là bản dịch sang tiếng Pháp. Có nhiều truyện vui thích lắm cơ!
Vinh nằn nì bắt Thanh kể lại một truyện. Chàng vờ quên, ra vẻ ngẫm nghĩ để nhớ lại. Nhưng chính thực trong lúc đó chàng đã cố chăm chú ngắm nghía Vinh, như để in sâu vào trí nhớ hình ảnh người yêu, trước khi ra về Hà Nội. Muốn cho cuộc nói chuyện đó được kéo dài, chàng đủng đỉnh thong thả kể một chuyện mà chàng cho là hay hơn cả trong tập truyện. Chàng bắt đầu như trong những truyện thần tiên:
- Ngày xưa, ngày xửa, ngày xưa ấy mà, chàng nói, cô Vinh có biết không?
Vinh hơi buồn cười, láu lỉnh đáp ngay:
- Em biết rồi. Ngày xưa, ngày xửa, ngày xưa ấy chứ gì? - Nhưng như vậy nghĩa là thế nào mới được chứ? - Nghĩa là ngày xửa, ngày xưa!
Thanh biết Vinh muốn trêu chọc mình cho vui. Chàng vờ lấy vẻ đứng đắn:
- Thôi tôi không kể nữa!
Vinh lấy vẻ nũng nịu:
- Đi anh! Kể đi! - Nhưng cô phải cắt nghĩa cái câu “ngày xưa, ngày xửa, ngày xưa” cho tôi nghe đã!. - Nghĩa là về đời thượng cổ chứ còn gì nữa!
Thanh mỉm cười:
- Được lắm! Câu cắt nghĩa ấy cũng chưa lấy gì làm gọn đủ, nhưng cũng có thể tạm cho là được.
Rồi chàng kể tiếp câu chuyện:
- Vậy thì ngày xưa, ngày xửa, ngày xưa có một người đàn bà lấy chồng đẻ được một cô con gái. Một hôm, cô con gái ấy bị chứng đau bụng...
Chàng ngừng kể rồi vờ nhìn Vinh:
- Còn làm sao nữa tôi lại quên mất rồi! - Anh chỉ khéo vờ!
Nàng vỗ bàn tay nàng trên tay Thanh và giục: “Kể đi anh!”. Thanh thấy một cảm giác êm dịu trên da thịt. Chàng thấy như tất cả thân thể và trí óc đều rung động, đê mê. Chàng cố yên lặng như để toàn hưởng cái cảm giác đó. Chàng đưa bàn tay ra hẳn trước mặt Vinh như muốn để nàng vỗ thêm một cái nữa. Nhưng nàng e thẹn đã rụt tay vào và lại giục chàng: “Kể đi anh!”. Thanh đã khỏi cái giây phút rạo rực, chàng cố bình tĩnh và lại bắt đầu:
- À phải, cô con gái bị chứng đau bụng. Người cha bèn đi xuống phố mua thuốc.
Thanh tình tứ nhìn Vinh:
- Thế là hết chuyện! - Anh nói lạ! Mua thuốc rồi làm sao nữa chứ! - Rồi hết chứ còn làm sao!
Vinh lấy điệu bộ trẻ con:
- Thôi, nếu anh không kể, em đi ngủ vậy.
Nói xong, nàng tỏ ý dỗi đứng dậy. Thanh vội cầm vạt manteau kéo nàng lại:
- Ừ thì kể nốt. Người cha đi mua thuốc. Người mẹ chờ mãi không thấy về. Và từ đấy mất chồng! - Sao thế anh? - Hãy thong thả, cứ nghe rồi sẽ rõ... Người vợ mất chồng; cô con gái khỏi chứng đau bụng, rồi ngày qua tháng lại, cô nhớn, nhớn nhớn mãi lên. Rồi cô đi lấy chồng! (Thanh mỉm cười nhìn Vinh). Lẽ tất nhiên là phải như thế!... Còn ở lại nhà, một mình người mẹ. Và vì thế mà người mẹ buồn. Bởi buồn cho nên người mẹ cũng... đi lấy chồng nốt!
Vinh thấy Thanh kể bằng một giọng giọng vui vui và có vẻ giễu cợt cất tiếng cười. Thanh ngừng kể, ngắm hai hàm răng trắng của nàng. Tiếng cười dứt, chàng lại kể tiếp:
- Người mẹ đi lấy chồng, người con gái đem chồng về nhà cũ ở. Được ít lâu, đẻ một đứa con, cũng là gái!
Tới đây, chàng ngừng kể và nhìn Vinh:
- Đến đoạn này mới là đoạn chính, cô phải nghe cẩn thận đấy nhé. - Thì anh cứ kể đi! - Đứa bé ấy, vừa đúng cái ngày ông ngoại nó ra đi mua thuốc đau bụng cho mẹ nó, hồi mẹ nó cũng mới bằng tuổi nó, thì cũng lại bị chứng đau bụng. Người chồng nhất định xuống phố mua thuốc cho con. Nhưng người vợ giữ lại và van lơn: “Thôi, em xin anh, anh đi rồi lại không bao giờ trở về nữa như cha em ngày trước. Rồi em đành chịu góa bụa hay sao?”. Trong khi hai vợ chồng giằng co nhau, kẻ muốn đi, người giữ lại, thì cánh cửa mở. Một ông lão râu tóc bạc phơ mở cửa bước vào. Con bé con bị đau bụng trông thấy ông lão, bèn kêu to: “Kìa, ông của cháu! Ông ngoại của cháu!”.
Vinh vội ngắt lời Thanh:
- Có thực chính là ông ngoại nó không? - Đích thực! Thế mới lạ chứ! Và người ông ngoại ấy vẫn tưởng đứa bé nằm trên giường là cô con gái của ông ta chứ không hề biết rằng con gái mình đã đi lấy chồng và mình đã có cháu. Cặp vợ chồng trẻ đó hết sức ngạc nhiên (Thanh mỉm cười nhìn Vinh) đến cả người đọc là tôi, người nghe truyện là cô cũng phải ngạc nhiên - khi thấy ông già ấy nói rằng: “Tôi về hơi chậm, vì đã phải chờ tàu điện mãi!”2
Vinh và Thanh cả hai đều phá lên cười. Vinh nói:
- Anh bảo ngày xửa, ngày xưa; nhưng ngày xưa thì làm gì có tàu điện! - Ấy thế mới là trào phúng ngộ nghĩnh! Và trong câu chuyện trào phúng con con đó, tác giả đã ngụ một ý nghĩa có vẻ triết lý. Tác giả muốn nói rằng cuộc đời là phẳng lặng, tầm thường; từ đời nọ sang đời kia chỉ những việc ấy cũng giống nhau lại xảy ra. Trong cách sống ta không tìm được cái gì mới lạ cả.
Vinh tỏ vẻ sung sướng khi được hiểu rõ cái ý nghĩa sâu sắc của câu chuyện.
Thanh cầm quyển sách giở tới mấy bức tranh và chỉ cho Vinh biết: “Đây là người cha chờ tàu điện, đây là đứa cháu đau bụng nằm trên giường”. Chàng giở trang: “Đây là lúc người ông đã mua được thuốc trở về nhà”. Vinh cũng đặt tay trên trang giấy lần theo bàn tay Thanh. Dưới ánh sáng ngọn nến, Thanh ngắm nghía những ngón tay xinh xắn của Vinh. Bỗng chàng thấy trong người rạo rực. Và tất cả sức mạnh của ái tình, xô đẩy trong trí óc, trong mạch máu chàng.
Thanh cố đánh bạo cầm lấy tay Vinh. Nhưng chẳng hiểu tại sao vừa đưa tay ra, chàng đã thành rụt rè, không còn đủ can đảm để nắm tay Vinh trong tay mình. Muốn giấu giếm cử chỉ đó, chàng vội với quyển sách ngay trước mặt, lôi sát vào trong lòng mình. Lại ngay trong lúc đó, Vinh cựa người trên chiếc ghế. Nàng nghiêng mình về phía Thanh; chiếc ghế đổ nghiêng khiến nàng ngả hẳn đầu vào vai Thanh. Trong phút chốc, Thanh lại thấy rạo rực. Chàng như không còn thể trấn tĩnh được.
Vinh thấy trong lòng nàng lúc đó có nhiều ước muốn tầm thường, nhiều ý nghĩ bất chính có thể hại được cả đời nàng. Các điệu bộ của nàng cũng giả dối, không tỏ đúng tính tình lúc đó. Nếu Thanh sỗ sàng một chút, có lẽ nàng đã hiến thân cho chàng. Nhưng vì Thanh e dè quá nên nàng cũng trấn tĩnh được. Song muốn tránh sự lôi cuốn, nàng vội vàng đứng dậy. Khi đã ra khỏi gian buồng Thanh, nàng có cảm tưởng sung sướng như người vừa thoát được một tai nạn. Và nàng không hiểu cái ý nghĩ cao siêu nào đã giúp được nàng không phạm lỗi. Thanh chỉ đưa mắt nhìn nàng cho đến khi nàng khuất trong bóng tối. Chàng thấy giây phút đó hệ trọng quá, không dám giữ Vinh lại như lần trước.
Lúc lên giường ngủ, Thanh bỗng nhiên thành ra tự giận mình.
Chàng tự trách đã không có đủ táo bạo để nắm tay Vinh, nói rõ cho nàng biết rằng mình đã đem lòng yêu nàng. Chàng cũng đã biết rằng Vinh đã hiểu tình yêu của mình, và nàng cũng đã yêu mình. Nhưng chàng cho rằng cần phải tỏ rõ với nhau thì mới là đầy đủ. Cái ý nghĩ đó đã khiến chàng càng thêm tức tối với chính chàng đã bỏ lỡ một dịp rất tốt, một dịp có thể thổ lộ được mọi tình yêu của cả hai người. Chàng loay hoay không biết bao ý nghĩ, rồi vì mệt quá, chàng ngủ thiếp lúc nào không rõ.