PHẦN THỨ CHÍN
Từ ngày Thúc lấy vợ, chàng ăn tiêu sắm sửa hoang phí quá. Chàng e sợ rằng Hân, vợ chàng, đã sống quen trong cảnh giàu sang, mỗi lần thiếu thốn gì sẽ làm nàng khó chịu. Với ý nghĩ đó nên chàng đã làm cho nàng được mọi phần đầy đủ và nhiều khi đã vì thế mà chàng thành ra xa hoa một cách rất vô lý. Ngày cưới, chàng sắm chiếc giường gần ba trăm, trang hoàng trong phòng ngủ mất tới gần ba trăm nữa. Rồi cách đó ít lâu, chàng sắm bộ bàn ăn hơn một trăm, bộ salon ngót ba trăm đồng. Sự hoang phí đó đã một đôi khi chàng thành ra quá ư kiểu cách. Trước khi lên tàu để đi Sài Gòn, liền một lúc chàng đã bỏ ra tới hơn hai trăm đồng để may mấy chiếc robes de chambre, mua hai ba chiếc kimonos và may tới năm sáu bộ pyjamas hạng đắt tiền nhất. Sự tiêu dùng hoang phí đó đã khiến chàng phá hết món tiền chàng đã dành dụm được từ khi mới đi làm. Trong sự sắm sửa chàng như có vẻ kiêu hãnh với Hân rằng mình cũng là một kẻ ăn chơi sành sỏi không kém gì những người giàu có tới tiền vạn. Ngay trong cách chi tiêu trong nhà về ăn uống cũng vậy, chàng chẳng hề dè dặt. Một đôi khi vợ chàng tìm cách ngăn ngừa, chàng làm ra vẻ không cần tiền và lại phung phí hơn. Trong nhà thì mỗi ngày một bọn khách. Điều này đã dĩ nhiên. Ở vào địa vị nào, thường thường ta có những người quen biết trong cái địa vị ấy.
Từ ngày đi làm, dần dần len lỏi vào những nơi sang quý, chàng hết sức rộng rãi với mọi người quen biết. Một phần như để phô trương cái địa vị của mình, một phần để tránh tiếng là keo bẩn. Nhiều khi nhớ lại cái hồi chàng còn đi học, mẹ chàng phải nhọc nhằn buôn bán để kiếm cho chàng được có đủ ăn, học, chàng cũng thấy hối hận và tiếc những món tiền to chàng đã vung tay tiêu phí. Song sự hối hận chỉ lướt qua óc chàng, và chẳng bao giờ chàng tìm cách tằn tiện. Trái lại có khi sự nhớ lại những ngày thiếu thốn đó chỉ như xui chàng tiêu pha hơn nữa cho được sướng tay, để bù lại những lúc chàng ao ước, thèm tiền.
Khi chưa lấy vợ, mỗi tháng thường thường chàng gửi về cho mẹ chừng trăm đồng. Từ ngày đã cưới vợ, không tháng nào chàng có thể dành dụm được dăm ba chục, tuy lương chàng mỗi tháng gần ba trăm và tiền nhà chàng không phải trả! Và vì thế mà đã có lần ba bốn tháng liền, chàng chỉ gửi về cho mẹ được năm chục đồng. Vợ chàng đã cố tìm cách khuyên bảo chàng không nên phung phí, nhưng chàng vẫn không hề muốn nghe lời vợ. Có khi chàng còn ngờ những lời khuyên của vợ chỉ là những lời để thử lòng xem chàng có phải là keo bẩn không.
Về phẩn bà Cang, bà rất lấy làm lạ về sự thay đổi tính nết của con, Nhiều khi bà đã thành chán nản, không còn thiết gì đến sự gây dựng cho Vinh nữa. Bà đã biết rõ rằng khi còn là học trò, Thúc rất cần kiệm, có khi tiền cho để ăn quà chàng cũng dành dụm để mua giấy hoặc sách vở; và khi mới đi làm, mỗi khi tiêu pha món gì chừng năm sáu chục giở lên là chàng bàn bạc với mẹ ngay.
- Mà bây giờ thì nó như thế! - Bà nghĩ thầm.
Nghĩ đến sự gây dựng cho Vinh, bà đem lòng ngờ rằng chàng đã sống như một kẻ ích kỷ, chỉ biết có vợ, quên hẳn người mẹ già và đứa em gái nhỏ. Bà tự bảo như để trách móc con giai:
- Còn em nó đây, có lẽ nó không giúp đỡ cho em nó hay sao! Nó biết đi lấy vợ thì nó cũng phải làm thế nào cho em nó có tấm chồng chứ!
Điều làm bà chán nản hơn cả là bà không còn cái hy vọng nhờ vả vào Thúc để gây dựng cho Vinh lấy Thanh. Lãi lời đồng nào thì tiêu pha lặt vặt trong nhà hết, còn đâu mà kiếm vốn cho Vinh! Bà gửi thư đi Sài Gòn mắng trách Thúc. Lá thư thứ nhất không thấy chàng trả lời. Bà lại gửi liền tới hai, ba cái nữa, mới thấy thư của Thúc về. Trả lời mẹ, chàng chỉ biết nói là vì cần phải tiêu vào toàn những việc bắt buộc cả. Thật là một mối lo lớn cho bà. Nếu không gây được cái vốn cho Vinh thì công việc “hôn nhân” của nàng với Thanh khó lòng mà xong xuôi được.
- Cơ màu này, thì đến dở dang hết! - Bà nghĩ thầm.
Và sự lo ngại của bà đã xui bà có một ý nghĩ khác: là thôi không gả Vinh cho Thanh nữa. Bà lại có ý muốn để cho con gái thân thiện với Phúc rồi gả cho chàng. Như thế cũng không có điều gì cản trở khó khăn. Vì Phúc và mẹ Phúc chưa hề biết rằng bà Cang đã có ý định gả Vinh cho Thanh. Câu chuyện này có lẽ mới có một mình bà Hiến được biết. Nhưng bà này thì rất kín đáo, bà chẳng hề nói lại với ai; ngay cả với mẹ Phúc là chỗ bạn bè thân mật bà cũng chưa hề kể lại nửa lời. Thấy công việc dạy học của Thanh không có gì là chắc chắn, và lương bổng ít ỏi quá, tháng tháng chừng ba bốn chục đồng, bà lại lo lắng cho cảnh sống của con mình về sau. Nhưng nghĩ rằng nếu gả cho Phúc thì lại sa vào cái cảnh mẹ chồng, nàng dâu, nên bà lại rụt rè. Giá Phúc đã đi làm và có thể ở riêng sau khi lấy vợ thì bà cũng gả vậy. Nhưng chàng hãy còn đi học. Thi đỗ Thành chung xong, chàng đã vào ban Tú tài theo học. Bà hỏi dò mãi, và đã được biết rằng còn ba năm nữa Phúc mới học xong ban này. Bà ngồi tính toán: Vinh đã mười tám tuổi. Chờ cho Phúc thi ra rồi đi làm thì ít ra cũng phải vào quãng hai mươi hai hay hai mươi ba nàng mới có thể lập gia đình riêng được. Thấy cái thời hạn để cho con gái chờ đợi trong vòng bốn hay năm năm nữa, bà cho là lâu quá. Và bà e rằng trong thời gian đó, nhỡ ra Vinh sẽ thành hư thân chăng...
Nhất là các cô lại cùng tuổi với con gái bà. Bà thường nghĩ thầm:
- Cái con Vinh nhà này mà cũng lại đến như thế thì mình mặt mũi nào mà sống ở cái tỉnh này!
Sau cái mối lo này, bà còn đeo thêm một mối lo khác, có lẽ cũng ngang với mối lo trên kia: Bà sợ rằng để cho Vinh chờ Phúc, rồi đến khi đã thi đỗ đi làm, Phúc lại “ưng món nào khác, có duyên, có sắc hơn” rồi bỏ con gái bà.
- Lúc đó mình còn biết xoay xở ra sao! bà tự bảo, hai mươi ba tuổi! Không khéo thì đến ế! Thời này thì hai mươi ba người ta đã chê là gái già rồi?
Suy tính như vậy, bà Cang cho rằng lại tìm cách gây tình liên lạc để rồi gả Vinh cho Phúc là thất sách! Và bà lại bỏ cái ý nghĩ đó ngay. Không bao giờ bà quên rằng nếu hùn được cho Vinh cái vốn để nàng buôn bán rồi gả nàng cho Thanh thì vẫn hơn. Bà bèn đi Sài Gòn để dò xét Thúc xem ra sao. Cái trí óc gây dựng cho Vinh một đôi khi khiến bà đem lòng ghét Thúc và bất công với chàng.
Một sự bất ngờ: tới Sài Gòn, bà được gặp Lân, một người bạn cùng học với Thúc ở trường Bưởi. Hiện nay, Lân làm tham biện kho bạc. Chàng mới đổi vào Sài Gòn được chừng gần một tháng. Khi mới vào, chàng định chỉ ở tạm độ một hai tuần lễ rồi tìm được chỗ trọ sẽ dọn đi. Nhưng nhà Thúc ở rất rộng mà độc trọi chỉ có hai vợ chồng; Thúc giữ Lân cùng ở lại cho vui. Chàng thu xếp lên gác. Và dưới nhà chỉ bày một bộ bàn ăn, dành hẳn cho Lân một gian buồng riêng khá rộng.
Lần này bà Cang vào Sài Gòn vừa đúng một tháng rưỡi. Bà tìm cách bắt bẻ Thúc trong sự ăn tiêu và trong mọi công việc nhà. Bà khuyên bảo Hân nên can ngăn chồng để tránh những xa xỉ vô ích. Và trong cái thời kỳ đó bà được hiểu biết Lân cũng như bà đã được hiểu biết Thanh. Bà được biết rõ ràng rằng Lân chưa vợ, là con một gia đình quê. Hiện nay, cha mẹ trông nom về cày cấy. Tất cả gia tài có chừng hơn ba mươi mẫu. Ngay từ khi mới gặp Lân bà đã tìm cách dò xét chàng. Bà cũng thấy chàng là người nết na chăm chỉ. Tuy vẫn đi làm nhưng cũng chịu khó học thêm để thi cử nhân luật. Ngày hai buổi đi làm về, chàng chỉ cặm cụi học. Bà thấy chàng cũng có vẻ đứng đắn, hòa nhã, lễ phép. Món tiền lương mỗi tháng hơn trăm đồng chàng chỉ tiêu pha hết chừng vài chục. Mỗi tháng chàng cũng dành dụm được tới trăm đồng. Bởi thế mà từ ngày vào Sài Gòn, mỗi lần mắng Thúc, bà vẫn lấy Lân ra làm gương mẫu. Cái tình cảm của bà đối với Lân đã khiến bà có ý so sánh, so sánh chàng với Thanh.
Bà Cang đã ở Sài Gòn về. Trong khoảng một tháng rưỡi bà đi xa, Thanh vẫn luôn luôn gửi thư về cho Vinh, và đã một lần chàng về hẳn Phúc Yên thăm nàng. Trong lúc về chơi như thế, chàng chỉ như đóng vai một người khách thân. Chưa bao giờ chàng có can đảm ngỏ tình yêu với Vinh, mà Vinh cũng vậy. Hai người gặp nhau trong khi bà Cang vắng nhà lại càng cố giữ ý tứ, không dám tự tiện quá, e người bà già sẽ đem lòng ghét bỏ. Trong thư từ cũng vậy, chưa người nào hạ bút viết ra những câu yêu đương nồng nàn. Chỉ toàn những chuyện vui hay những câu bông đùa.
Lần thứ hai chàng về là một buổi chiều thứ bảy. Khi tới nơi vừa đúng chín giờ tối. Cả nhà đều sắp sửa đi ngủ. Thanh gõ cửa. Tiếng Vinh ở trong hỏi ra: “Ai!”, chàng đùa nghịch cố đổi giọng trả lời:
- Cô làm ơn bán tôi hai xu ô mai hay hai xu bánh quế cũng được.
Bà Cang tưởng là có khách hàng ra mở cửa. Thanh rất ngạc nhiên khi nhìn thấy bà. Chàng vội hỏi ngay:
- Kìa, bà về hôm nào thế? Con không thấy bà lại đằng con.
Bà Cang nhanh nhảu trả lời: “Ấy, hôm về tôi cũng định lại đằng anh, nhưng vì bận quá rồi lại mang bao nhiêu đồ đạc thành ra phải về thẳng ngay Phúc Yên”.
Sự thực đã chẳng phải như thế. Ngay từ hôm ở Sài Gòn ra về với cái ý định sẽ quên Thanh để tìm cách gả con gái cho Lân, bà Cang đã không còn muốn gặp gỡ Thanh nữa. Một phần vì bà thấy tự thẹn với lòng mình, một phần vì bà muốn nhờ có sự xa cách của bà rồi Thanh có thể quên Vinh đi. Vì bà đã thừa hiểu rằng Thanh đã đem lòng yêu Vinh rồi. Chứng cứ để tỏ điều đó thì bà có rất nhiều. Nhưng chẳng cần tìm đâu xa. Cứ nói ngay đến cái cuộc về chơi của Thanh đây cũng đủ rồi. Bà tự bảo:
- Nếu chẳng say mê con Vinh thì sao giữa lúc mình đi vắng cũng mò về đây! Về chơi với ai mới được chứ!
Vinh chưa biết gì về sự thay đổi ý kiến đó của bà. Mà cả Thanh nữa. Thứ nhất là lần này cũng như nhiều lần khác, bà Cang vẫn tiếp đãi chàng một cách rất ân cần.
Thanh ở Phúc Yên hết ngày chủ nhật lại trở về Hà Nội. Trong khi có Thanh bà Cang chỉ nói đến các việc buôn bán, phong tục ở Sài Gòn và sự làm ăn của Thúc ở sở. Bà hết sức tránh, không nói gì về Lân với Thanh.
Rồi cách đó ít lâu, bà Cang lại đi Sài Gòn. Nhưng lần này thì bà mang theo cả con gái đi. Độc giả hẳn cũng thừa biết chủ định của bà là cốt để Vinh và Lân được gần nhau, cũng như trước kia bà đã muốn Vinh và Thanh gần nhau. Vì bà Cang đã so sánh kỹ càng Lân với Thanh. Trong sự so sánh này, phần thắng đã về Lân. Bà Cang thấy rõ ràng Lân có đủ mọi đức tính của Thanh, về cách ăn nói giao thiệp cũng như về “đường ăn nhẽ ở”. Có khi bà lại còn có ý nghĩ rằng Lân lại có một địa vị khả quan và chắc chắn.
Tác giả cần phải công bằng mà viết ngay rằng sự thực bà Cang cũng không hề ham hố gì cái chức tham biện hay tiền của. Nếu bà tham danh vọng cho con thì bà đã gả Vinh cho một ông huyện góa vợ (Tuy gái tân mà lấy góa thì cũng có nhiều cái khó chịu thật, nhưng đã được cái tiếng là bà huyện). Và nếu bà tham tiền của thì đã gả Vinh cho con một ông hàn cùng tỉnh có tới hơn ba mươi nóc nhà. Song bà đã sống cái cảnh nghèo túng từ khi phải xa chồng và bà đã cảm thấy nhiều nỗi đau khổ xui nên bởi cách thiếu thốn. Nào tiền ăn học của con, nào lúc con ốm đau, nào may vá, bà đã "còng lưng buộc bụng” ngược xuôi mà hai con bà vẫn phải chịu phần thiếu thốn. Nhờ sự từng trải bà đã được biết rằng đồng tiền chẳng khiến ta hoàn toàn sung sướng nhưng cũng giúp ta tránh được nhiều nỗi cơ cực nó có thể giết chết được cõi lòng ta. Nhờ có sự dồi dào về đồng tiền mà ta có thể thoát được những cái bần tiện nhỏ nhen trong cuộc đời.
Mỗi lần nghĩ đến sự giàu nghèo, bà không khỏi quên được cái lần bà mang tiền lại trả nợ một người quen cho vay. Hồi ấy Thúc chưa đi làm, trong nhà còn túng thiếu. Bà nhớ rõ rằng bà đã vay của người đó một món tiền hai mươi đồng, ước hẹn sau một tháng sẽ trả thành ba mươi nhăm đồng. Cái lãi ấy bà cho là quá nặng, nhưng vì cần tiền quá, bà đành cứ vay liều. Thời hạn hết, bà chạy chọt mãi mới có đủ món tiền ba mươi nhăm đồng để mang trả.
Người chủ nợ cứ khăng khăng rằng sau một tháng phải trả bốn mươi nhăm đồng chứ không phải ba mươi nhăm đồng. Bà phân trần. Người ta cứ nhất định không nghe và sau hết người ta cũng nhận tiền, nhưng người ta không nể nang nói thẳng ngay với bà: “Tôi cũng thí cho bà mười đồng ấy. Mang về mà làm giàu rồi nuôi con ăn học”. Lòng bà uất ức; nhưng bà đành cố nén; và nghẹn ngào bà không dám nói gì, đứng dậy ra về. Ra khỏi cửa, không biết bao nhiêu ý nghĩ lộn xộn trong óc bà. Bà nghĩ thầm: “Giá sẵn tiền mà bỏ ngay ra lúc đó mười đồng trả nó thì nó đã tử tế với mình chán ra đấy. Nó đã chẳng nói đay nghiến như vậy”. Bà đã thở dài thốt ra câu: “Thực chỉ có mười đồng bạc, chứ trăm nghìn vạn mớ gì!”.
Cái việc con con trên đây đã khiến bà đánh giá được đồng tiền và khiến bà ghê sợ cho sự nghèo nàn thiếu thốn. Bởi lẽ đó mà tuy bà không mơ ước gì danh vọng tiền của cho con gái, nhưng bà cũng muốn rằng khi đã có chồng có con thì cũng phải cho đủ ăn đủ tiêu mọi cái cần thiết. Sự suy tính trên đây đã xui bà quên hẳn tình cảm mà bà vẫn cho là trẻ con, không đứng đắn. Bởi thế tuy bà đã biết Vinh yêu Thanh, bà cũng vẫn muốn gả nàng cho Lân. Bà thường chậc lưỡi tự bảo: “Khi trước người ta đi lấy chồng có biết chồng mặt ngang mũi dọc ra sao. Thế mà rồi cũng ăn đời ở kiếp với nhau được! Chỉ có mình gặp bước không may thì mới phải chia rẽ nhau như thế này chứ! Yêu đương là cái quái gì! Chỉ khéo vẽ trò!”.
Thế là bà Cang cố tìm cách chia rẽ Thanh. Và bà chẳng hề thấy có điều gì để tự trách. Lòng thương con gái, nỗi băn khoăn về tương lai chắc chắn của con khi bà đã qua đời đã làm bà trở nên khắt khe, sắt đá. Thực ra nếu bà có vốn liếng thì bà cũng chẳng nghĩ đến xoay chiều. Nhưng bà không còn hy vọng gì vào sự cấp đỡ của Thúc cho lắm, nên bà mới nghĩ đến cách gả Vinh cho Lân. Trong việc này có một điều khiến bà lo ngại là Lân còn cha mẹ. Và bà lại hơi sợ cái cảnh làm dâu của con gái bà. Nhưng dò xét và suy nghĩ mãi bà đã phá tan được nỗi lo lắng.
- Tuy cha mẹ “người ta” còn cả, bà nghĩ thầm, nhưng còn ở nhà quê trông nom cày cấy chứ có theo dõi con đâu mà lo. Khi đã có vợ rồi thì “người ta” chồng một vợ một ở một tỉnh nào đó để đi làm, còn cha mẹ “người ta” thì họa hoằn mới tới thăm nom, mỗi tháng một hay hai lần là cùng. Xa cách như thế thì còn lo gì! Có phải lúc nào cũng kèm ngay tận nách đâu mà cũng được tự do như không có ai. Cũng chẳng kém gì cái cảnh bồ côi của anh Thanh.
Tính toán kỹ càng như thế rồi, bà nhất định đưa Vinh vào Sài Gòn để nàng và Lân được biết nhau.
Hôm ra đi Thanh và cả Vinh cũng chưa biết gì về sự thay đổi trong trí óc bà Cang. Bởi thế nên khi đưa hai người lên tàu, Thanh không buồn nản cho lắm. Chàng sẽ không được thỉnh thoảng về Phúc Yên thăm nàng như trước nhưng chàng cũng vẫn có thể viết thư cho Vinh. Thấy bà Cang nói chỉ ở trong ấy một tháng, chàng vớ vẩn tự an ủi bằng câu:
- Ba mươi ngày chứ bao nhiêu!
Chàng hỏi bà Cang vì cớ gì lại phải đi Sài Gòn với cả Vinh, bà dối rằng vào đó để còn bảo ban Hân, vì nàng “còn nhỏ người non dạ”, chưa biết gì. Và sở dĩ bà mang cả Vinh vào vì Thúc nhớ em. Bà lấy giọng tự nhiên bảo Thanh:
- Khốn nạn! Lần trước, tôi vào không cho em Vinh vào nó cứ bắt đền, bắt vạ tôi mãi. Rồi khi tôi về nó cứ láy đi láy lại thế nào cũng cho em nó vào chơi kẻo nó buồn.
Bà mỉm cười nhìn Thanh:
- Nó cứ thế này chứ: có vợ mà không có em cũng chán lắm. Chỉ có em là hơn cả!
Thanh tin lời, mỉm cười nhìn Vinh. Nàng cũng cười lại.
Lúc tàu gần chạy, Thanh còn dặn đi dặn lại Vinh năng gửi thư về cho chàng. Khi tàu đã chạy xa xa, Thanh đứng dưới còn vẫy theo mấy cái và còn cất tiếng dặn thêm Vinh:
- Mỗi tuần phải gửi hai cái đấy nhé!
Bà Cang ngồi thu hình trong một góc toa, nhếch mép cười, một cái cười khó hiểu.