PHẦN THỨ MƯỜI
Chết mất! Trời ơi, tôi chết mất!
Thanh biết rằng kêu như thế cũng chẳng ích gì, nhưng suốt từ sáng sớm, chàng vẫn luôn luôn kêu lên câu đó. Kêu xong chàng lại nằm thở. Rồi cơn ho lại kéo đến. Hai tay ôm chặt lấy ngực, chàng ho đến nỗi đầu nẩy cao trên chiếc gối, thân mình và hai chân giựt co lại, làm lay chuyển cả chiếc giường. Xong cơn ho chàng lại cố nghiêng mình về một bên nhổ đờm hay nước bọt vào chiếc ống nhổ con để ngay đầu giường, rồi nằm thở. Mỗi lần cơn ho qua, da mặt chàng tái hẳn đi và người mệt lả. Hai mắt chàng không còn được chút tinh tường, lờ đờ nhắm suốt ngày. Đôi má lõm hẳn lại, khiến hai lưỡng quyền nhô hẳn lên. Chàng gầy hẳn. Nhác trông chàng, người ta tưởng chừng như chàng già thêm chín mười tuổi. Từ sáng sớm đến giờ đã bao nhiêu cơn ho liên tiếp, chàng mệt lả, nằm nghĩ vơ vẩn lại thấy mệt thêm. Chàng cố nhắm mắt để ngủ cho khỏi phải nghĩ ngợi.
Thanh đau ngực và bị ho đã hơn hai tháng nay. Chứng bệnh phát lên sau khi bà Cang và Vinh đi Sài Gòn được gần một tháng. Chẳng phải chàng buồn bực gì về câu chuyện tình duyên giữa Vinh và chàng vì chàng vẫn chưa biết gì về sự thay đổi ý kiến của bà Cang. Cái chứng ho và đau ngực, chàng mắc phải từ hồi còn ở nhà trường, bởi chàng đã thức khuya nhiều để cặm cụi học thi. Phổi chàng yếu dần, chàng dạy học được hai năm thì chứng đau ngực lại thêm nặng. Lần đó chàng đã phải nghỉ đúng bốn tháng để điều trị tại một nhà thương tư. Khi đã lành rồi, bác sĩ cũng vẫn dặn dò chàng cần phải giữ gìn, không nên chăm chỉ đến những công việc về tinh thần quá đến nỗi thành mệt nhọc. Nghe lời bác sĩ chàng cũng vẫn giữ gìn cẩn thận. Cái nghề dạy học cần phải nói nhiều, không hợp với sức khỏe của chàng, nhưng vì sự sinh sống, chàng cần phải giữ lấy. Bởi thế chứng bệnh không sao khỏi hẳn được. Và hình như nó đã bắt đầu tái phát từ ngày ở Cầu Giát về, rồi chàng mê man trong những nhà vui, uống rượu, hút thuốc phiện, không còn thiết gì đến sức khỏe. Rồi từ ngày yêu Vinh và được biết bà Cang muốn gả Vinh cho mình, Thanh đã nhận dạy thêm nhiều giờ ở mấy lớp khác để kiếm thêm tiền.
Chàng vẫn biết thêm rằng với một trí óc giản dị, một cách sống xuềnh xoàng thì sự nhiều tiền không phải là điều cần thiết; song chàng đã thừa hiểu rằng trong việc lập gia đình, lúc mới đầu thế nào cũng tốn kém nhiều vì cái gì cũng phải sắm sửa, không thể nào tằn tiện, chịu thiếu thốn cả đến những vật tối cần hằng ngày được. Vì vậy mà tuy chàng không có trí óc chỉ cốt kiếm cho nhiều tiền, trong mấy tháng gần đây chàng cũng phải cố ra công để được món lương kha khá hơn trước. Còn như về cái ý định của bà Cang muốn cấp vốn cho Vinh để gây dựng cho chàng, thì Thanh không hề biết gì đến. Chẳng phải vì bà Cang muốn cấp giúp chàng vốn liếng mà chàng đã mê man muốn lấy Vinh. Đối với chàng thì chàng chỉ có nghĩ đến phần tình cảm. Và bao giờ chàng cũng vẫn nghĩ rằng yêu ai mà có thể lấy được thì chàng không hề rụt rè, còn sự giàu nghèo, chàng không hề quan tâm đến. Tiền của vẫn không huyễn hoặc được lòng chàng. Chàng vẫn cho sự chăm chỉ làm việc là một cách sống vững vàng hơn cả. Từ ngày được biết bà Cang muốn gả Vinh cho chàng và được biết Vinh đã yêu mình, Thanh đã làm việc một cách quá đáng. Trừ những giờ dạy ở nhà trường, chàng lại còn nhận dạy thêm học trò ở nhà. Thành ra mỗi ngày chàng đã dạy tới chín mười giờ. Bởi thế chàng đã sinh yếu sức và chứng đau ngực lại trở lại. Khi chứng bệnh mới bắt đầu, chàng vẫn cố gượng làm việc, mãi tới khi mệt quá, nói không ra tiếng, chàng mới đành nằm nghỉ ở nhà. Chàng có gửi thư cho bà Cang, Vinh và Thúc biết. Nhưng chàng hy vọng rằng chỉ trong vài ngày sẽ khỏi nên chàng cũng viết là “chứng bệnh rất xoàng, chỉ cần nghỉ ngơi chừng hai, ba ngày sẽ có thể khỏi ngay được.” Không ngờ lá thư gửi đi được mấy ngày thì chứng bệnh tăng hẳn lên. Chàng không muốn báo tin cho bà Cang, Vinh và Thúc biết e rồi lại thêm lo hộ chàng. Nhằm vào những lúc cơn đau dìu dịu, bớt ho, chàng cũng cố viết thư cho cả ba người. Tất cả, từ ngày bà Cang đi với Vinh, chàng đã gửi tới gần mười lá thư. Chàng cũng vẫn giấu và chỉ nói ho xoàng và mệt xoàng. Thúc trả lời được hai lá, Vinh một lá. Chàng hơi lấy làm lạ. Thúc thì bận rộn quá, không thể viết thư cho chàng, chàng vẫn biết thế. Nhưng còn Vinh thì vì lẽ gì cũng không năng viết thư cho chàng. Trước kia khi Vinh còn ở Phúc Yên, mỗi tuần lễ ít nhất chàng cũng nhận được của nàng một lá thư. Sự khác thường đó đã khiến chàng, cách đây chừng tám, chín ngày, tuy mệt, cũng cố gượng viết cho nàng một lá thư. Trong lá thư này, chàng đã thực thà nói là ốm nặng.
Rồi đã mấy ngày nay, Thanh ngóng đợi thư trả lời...
Thanh đã lim dim gần ngủ hẳn được thì lại một cơn ho nữa tới làm chàng giật mình thức giấc. Chàng lại thấy đau ngực. Chàng đưa tay ôm ngực và cố gượng không ho. Cơn tức lại càng mạnh hơn. Chàng lại buồn rầu kêu lên:
- Chết mất! Trời ơi! Tôi chết mất!
Kêu xong câu đó, chàng lại nằm yên, người mệt lả. Còi mười giờ đã kéo. Cũng như mọi ngày, chàng gọi thằng bếp vào hỏi xem có thư không, vì theo thường lệ, thì người chạy giấy ở phố chàng bao giờ cũng tới vào giờ đó. Vẫn không một tin tức gì. Thanh buồn rầu trong lòng, như đến muốn khóc. Nhưng chàng lại lạc quan ngay được. Vì lòng tin tưởng ở bà Cang và Vinh vẫn khiến chàng đoán rằng được tin mình ốm bà và Vinh đã thu xếp ra về để săn sóc chàng.
Rồi cũng như mấy ngày trước, chàng lại nằm sung sướng tưởng tượng cuộc ra về của bà Cang và Vinh. Hai mẹ con lên tàu. Tàu bắt đầu chạy. Chàng lẩm bẩm tính ngày nào tàu tới Huế, ngày nào tới Ninh Bình, Nam Định, Phủ Lý... Rồi tàu đến Hà Nội. Chàng tưởng như nhìn rõ thấy bà Cang và Vinh vui vẻ tươi cười bước vào phòng mình. Trong khi tính toán ngày giờ và mơ tưởng như thế, những cơn ho liên tiếp khiến chàng phải ngắt đoạn. Xong cơn ho, chàng lại bắt đầu tính toán mơ tưởng lại. Đã một hai lần, chàng mệt trí từ sáng cho tới gần chiều mới làm xong cái cuộc du lịch tưởng tượng đó của bà Cang và Vinh. Và bao giờ cũng vậy, khi mơ tưởng đến chỗ Vinh vào phòng của mình, nét mặt chàng bỗng tươi sáng lên và chàng mỉm cười một mình, vẻ vui sướng, như sự thực đã được như chàng tưởng tượng và chàng đã khỏi hẳn chứng bệnh.
Đối với Lân cũng như trước kia đối với Thanh, bà Cang vẫn không quên rằng “lửa gần rơm lâu ngày sẽ bén”; vì thế bà đã không lưỡng lự mang Vinh vào Sài Gòn để nàng và Lân được gần gụi nhau. Trước kia bà đã chiều đãi Phúc, ra công săn sóc đến Thanh, thì bây giờ bà lại tìm cách nâng niu Lân.
Từ ngày vào ở Sài Gòn, bà đã chăm nom Lân không khác gì chính Thúc vậy. Trong bữa cơm, Lân thích món gì, bà cố xoay xở, tự tay bà hay dặn dò Vinh nấu nướng cho chàng vừa ý. Cả nhà chỉ có một mình chàng thích ăn chả nướng mà ngày nào bà cũng ra công lọc thịt đốt than rồi nướng cho chàng một đĩa chả thực thơm. Lại có đủ cả rau thơm, rau húng nữa! Ăn lót dạ buổi sáng, Lân thích nhất cháo hoa. Bà bảo cháo nấu bán rong không ngon; còn cháo hiệu thì có khi là cơm nguội ế, nên sáng bà dậy từ hơn bốn giờ, giục thằng bếp nấu riêng cho chàng một niêu chừng hai bát cháo, rồi rán cho chàng hai tấm đậu thực phồng. Có khi bà thay đậu bằng trứng gà để Lân ăn cho đổi vị. Trứng gà thì bà mua từng trăm, để tích trữ phòng khi hiếm hoi. Mà lúc mua thì bà xem xét, soi đi soi lại đến hàng giờ để được những quả trứng thực tốt cho Lân ăn.
Thường lệ cứ bảy giờ chàng đi làm. Bà ở nhà lại thu xếp gian buồng cho chàng. Quần áo thay ra bà gấp bỏ tủ, cái nào hơi bẩn bà bỏ ra đưa giặt; sách vở báo chí ngổn ngang bà xếp gọn vào một góc bàn. Cả đến những đôi giày, đôi dép hay đôi guốc mòn bà cũng để vào ngăn thành hàng thành lối. Thấy thế, nhiều khi Lân cũng hơi ngượng, và chàng cũng cố tự thu dọn lấy. Thì bà Cang lại bảo chàng:
- Cứ để đấy rồi tôi dọn cho. Đi làm kẻo nhỡ giờ.
Lân có bảo là còn sớm thì bà ngọt ngào:
- Sớm thì nghỉ một tý cho nó khỏe người. Vạ gì mà phải thu với vén. Đã có tôi, hay em Vinh, hay thằng nhỏ. Nhà bao nhiêu người, chứ hiếm hoi gì!
Cũng có khi bà sai Vinh xếp đặt cho Lân. Quần áo của chàng có cái nào rách, bà bắt chàng bỏ ra cho Vinh vá. Bà ôn tồn dặn con gái:
- Vá cho anh ấy kheo khéo một tí con ạ. Vá xấu xí rồi anh ấy lại bỏ không mặc, đi may cái mới phí cả tiền đi...
Thấy Lân gầy, - sự thực chàng cũng chẳng gầy, nhưng bà tưởng thế để có cớ mà săn sóc - bà khuyên chàng nên uống thuốc tẩm bổ. Lân nghe lời bà, định uống thuốc Tây. Bà nhất định bảo chàng ở Sài Gòn đã nóng mà thuốc Tây cũng lại nóng, uống vào e không chịu, thành yếu người. Bà bảo chàng uống thuốc Nam. Rồi bà ngồi cố moi óc nghĩ để nhớ lại địa chỉ của một ông lang bà quen ngoài Bắc, gửi thư về xin ông một cái đơn. Muốn tỏ cho chàng biết là bà đã có công săn sóc đến chàng, cả ngày hôm ấy, bà hết lên gác lại xuống nhà, lấy vẻ mệt nhọc thẫn thờ, rồi vờ như nói một mình nhưng cất cao giọng để Lân nghe tiếng: “Gớm, có nhớ lại cái chỗ ở của ông lang để xin cho anh Lân cái đơn thuốc mà đến nhức cả đầu!”.
Khi đã nhận được đơn của ông lang gửi vào, bà đã thân chinh đi cắt thuốc lấy cho Lân.
- Tôi cũng võ vẽ về thuốc, bà nói với chàng, cái gì tốt, xấu, tôi biết; vị nào giả, vị nào thật, ông lang không thể giấu tôi được. Anh mà đi cắt lấy thì rồi không khéo chỉ uống thuốc xấu suốt đời rồi lại tổ gầy thêm!
Thế cũng còn chưa đủ; bà lại tự sắc thuốc cho chàng, e rằng để thằng bếp làm cạn hay để trào hết chất bổ. Cứ ngày hai lần, trước khi ăn cơm, bà sai Vinh bưng thuốc lên cho Lân uống. Hễ thấy chàng ngại ngùng, bà lại ngọt ngào giục:
- Uống đi, anh Lân ạ. Cho nó béo tốt ra một tí chứ. Con giai gì mà lại như con chão chàng ấy!
Rồi bà mỉm cười nhìn chàng, giọng thân mật:
- Anh thử tính xem, tôi đi bốc thuốc lấy này, tôi lại tự tay sắc lấy cho anh này... Bao nhiêu khó nhọc mới được bát thuốc đấy chứ! Cứ nghĩ đến cái công tôi, anh cũng nên uống rồi chứ đừng nói gì đến béo với tốt nữa...
Cái tình thân mật, cái vẻ quyến luyến đó đã có từ khi bà Cang bắt đầu săn sóc đến Lân. Trước cái cách đối đãi thương yêu đó của bà Cang, Lân cũng như Thanh, rất cảm kích, và chẳng bao lâu, chàng có cảm tình mặn mà với bà ngay. Còn giữa chàng với Vinh, hai người cũng chỉ ngượng ngùng lúc mới gặp nhau. Dần dần cũng thành tự nhiên, thân mật. Bà Cang vui lòng lắm. Bà vẫn trông nom Vinh để nàng khỏi “quá bước” với Lân, nhưng bà cũng mong cho “công việc nó chong chóng lên một tí” kẻo rồi bất ưng, Lân lại phải đổi đi đâu xa Thúc thì không còn dịp nào nữa chăng. Bởi vậy, muốn cho đôi trai gái chóng quyến luyến nhau hơn, bà Cang đã tìm cách làm cho cả hai luôn luôn được gặp nhau bằng cách để cho Vinh học Lân vào buổi tối sau bữa cơm chiều. Thúc cũng ưng ý với mẹ, vì chàng vẫn có ý muốn cho em học để biết thêm chút ít. Chàng không hề biết gì đến cái thâm ý của mẹ. Trước sự săn sóc quá ư tỉ mỉ của mẹ đối với Lân, chàng chỉ nghĩ rằng mẹ mình sở dĩ tốt với Lân là muốn cho tình bè bạn giữa chàng và Lân được bền chặt rồi để mong có ngày chàng sẽ theo gương Lân mà bớt sự tiêu pha xa xỉ. Chàng không hề ngờ rằng mẹ chàng đã trông nom cẩn thận Lân để cầu lợi về đồng tiền. Cứ kể có Lân trong nhà cũng tốn kém lên nhiều, nhưng chẳng bao giờ bà chịu nhận món tiền cơm hàng tháng chàng đưa cho. Bà dịu dàng nói với chàng:
- Có là bao mà anh cứ vẽ vời! Tôi chỉ cầu anh ở đây cho em nó có bạn cho vui nhà, kẻo độc trọi có hai vợ chồng thì nó buồn. Cái ơn ấy đáng lẽ tôi phải trả thêm tiền cho anh nữa mới phải, chứ đâu lại còn dám cầm tiền của anh.
Song bà không cần cái lợi đó, thì bà đã muốn có cái lợi to tát, “ra tấm ra miếng” hơn.
Vì sự luôn luôn gần gụi nhau, và bà Cang lại như xui đẩy cả đôi, nên chẳng bao lâu Lân và Vinh đã đem lòng yêu nhau.
Đối với Thanh, tuy rằng Vinh đã yêu chàng nhưng cái tình yêu đó chưa tiết lộ hẳn để thành một lời đính ước; và nàng thấy rằng cái tình yêu đó không lấy gì làm sâu sắc. Bởi vậy, khi xa Thanh và gần Lân, nàng đã quên được chàng ngay. Cũng như trước kia, nàng đã dần dần quên Phúc để yêu Thanh vậy. Có lẽ khi đã xa Lân rồi nàng cũng có thể quên được Lân để yêu người nào khác cũng nên. Cái tình yêu hời hợt, không sâu sắc ấy, đã khiến nàng một đôi khi tưởng như mình chưa hề được yêu ai và chưa được ai yêu. Và cứ mỗi lần đi sâu vào cõi lòng để tự dò xét, nàng lại rùng rợn thấy mình như không hề có tình cảm và mình đã đánh giá “ái tình” một. cách hạ quá và dễ dàng quá.
Khi còn ở Phúc Yên, mỗi khi nhận được những lá thư phong bì màu xanh xanh của Thanh, nàng thấy trong lòng hồi hộp, hy vọng vui vui; bây giờ bên nàng đã có Lân, nên nàng không còn thấy trong lòng cái cảm giác ấy. Trái lại, nàng lại còn rất lãnh đạm trước những lá thư của Thanh báo tin chàng bị ốm nặng, nàng cũng chỉ hơi thấy chạnh lòng trong chốc lát rồi nàng chẳng hề quan tâm đến nữa. Khi nàng nói lại rằng Thanh bị ốm nặng, mẹ nàng ngờ rằng chàng nhớ Vinh quá, nên bịa đặt ra thế để ngộ nàng có về Bắc chăng. Bà tự bảo thầm:
- Gớm! Có dễ tý tý mà về ngay được! Còn bao nhiêu là việc ở trong này chứ?
Rồi bà thản nhiên, không hề áy náy một điều gì. Về phần Thúc, tuy luôn luôn thấy thư của Thanh gửi vào cho em mình, chàng cũng chẳng hề ngờ rằng Thanh đã yêu em mình. Có lẽ chỉ suy nghĩ một chút, chàng cũng có thể biết được mối tình đó, nhưng từ ngày lấy vợ, chàng như thành người lười, không suy nghĩ gì, và vì thế chàng chỉ cho rằng đó là những lá thư xã giao, thăm hỏi vì sự quen biết thân mật mà có.
Người chú ý đến thư của Thanh hơn cả là người không hề quen biết chàng, nghĩa là Lân. Từ khi yêu Vinh, Lân vẫn sợ những lá thư màu xanh xanh ở ngoài Bắc gửi vào cho nàng. Chàng chỉ sợ rồi Vinh lại chán mình và nghĩ đến Thanh. Nhưng chàng rất sung sướng thấy Vinh nghe lời mẹ không trả lời thư của Thanh. Vì từ ngày để cho Vinh gần gụi Lân bà Cang lại tìm cách cho Vinh thôi không được thư từ với Thanh nữa, cũng như trước kia, khi nghĩ đến Thanh, bà đã không muốn cho con gái thư từ với Phúc. Bởi lẽ đó mà Thanh ở ngoài Bắc đã hoài công ngóng đợi những lá thư trả lời chàng.
Nhưng dù sao, Lân cũng vẫn lo sợ, không được yên tâm trong tình yêu của chàng. Bởi vậy, một hôm chàng đã đánh bạo tự mình nói với bà Cang, xin lấy Vinh. Đó là một điều bà Cang đã biết trước rồi sẽ có. Bà tự kiêu như một kẻ đứng đầu một đoàn quân trong một thế trận: Bà xoay ra sao những kẻ dưới quyền mình và sống gần mình đều phải theo chiều cả. Bà vẫn ngồi rình cái thế trận chính tay bà đã thu xếp và nay đã thấy rõ sự đắc thắng.
Khi Lân đã ngỏ lời hỏi Vinh xong, bà Cang sung sướng mỉm cười. Chàng cho đó là cái cười thân yêu. Nhưng chính thực là cái cười của một người đắc thắng, đã được như ý định. Thực không khác một kẻ giăng lưới bắt chim và nay đã thấy chim sa lưới. Cái mồi bả bà đã dùng là vẻ thân mật trên nét mặt, cái giọng nói dịu dàng, ngọt ngào, cái vẻ thương yêu bề ngoài, và thứ nhất là cái săn sóc tỉ mỉ. Đối với Phúc, với Thanh, rồi sau hết với Lân bà chỉ dùng một thứ mồi đó ngay từ khi bà mới gặp gỡ quen biết họ. Và cả ba đã bị mắc mồi Thanh cũng đã bị bà quyến rũ và bây giờ đến lượt Lân, chàng cũng bị bà quyến rũ nốt. Nhưng những kẻ bị sa lưới chẳng một ai biết mình bị lôi cuốn, vẫn ngây thơ tin rằng mình được kẻ khác chiều chuộng thương yêu. Vì bà Cang đã che đậy được sự thay đổi thâm trầm của lòng bà một cách kín đáo. Và sự thực đối với tất cả ba người Phúc, Thanh, Lân, bà chẳng hề thương yêu một ai: người nào đối với bà cũng đến thế, và sở dĩ bà đã đem lòng quyến luyến, ra chiều thương yêu họ là chỉ vì có như thế mới có thể hiểu rõ ràng được tính nết của họ, để tránh được những người chồng tai ác, chơi bời cho con bà. Vả lại bằng sự quyến luyến thân mật bà sẽ dễ dàng chiếm đoạt được tình yêu của họ cho con bà. Nếu bà may mắn được biết một người thứ tư nào mà bà cho là hoàn toàn hơn Lân, chắc chắn rằng bà sẽ không lưỡng lự quên Lân - cũng như bà đã quên Phúc, quên Thanh - để rồi lại ra công săn sóc cho người ấy. Sự cân nhắc đã khiến bà có cái ý nghĩ rất khôn ngoan là chọn một người chàng rể trong số những bạn bè thân mật của con giai bà. Dựa vào tình bè bạn, bà sẽ do thám dễ dàng hơn. “Người ngoài, không phải là chỗ quen biết thân thiết thì làm thế nào mà luôn luôn gần gụi được họ!”, đó là câu bà thường tự bảo.
Mỗi lần nghĩ lại rằng tất cả ba Phúc, Thanh, Lân đã chất phác thực thà với bà, mà bà lại là con người xảo quyệt, suy tính chi ly và chỉ vồn vã ngọt ngào bề ngoài để chuốc lòng họ, bà cũng hơi áy náy và cũng hơi thương họ còn quá đỗi ngây thơ. Thứ nhất là đối với Thanh thì bà lại càng cảm thấy điều đó rõ rệt lắm. Vì chàng đã sống trong sự thiếu yêu đương, thiếu chiều chuộng; nên chàng đã vồ vập lấy cái tình thương của bà mà chàng không hề biết là giả dối, cầu lợi, tựa như một người khách bộ hành trên con đường nắng gắt mê man với một bóng cây râm mát. Nhưng nghĩ đến Vinh bà lại chép miệng nói thầm:
- Nhưng còn con mình thì sao! Liệu có ai thương không mới được chứ!
Sau cái mỉm cười, bà thản nhiên khoan thai đáp lời Lân:
- Được, anh cứ chịu khó làm ăn đi! Đã có lòng thương đến em, tôi sẽ để nó cho anh. Đã bao nhiêu người hỏi rồi đấy, nhưng tôi đều từ chối. Nhưng thôi, tôi sẽ “để dành” nó cho anh.
Bà vừa cười vừa nói hai tiếng “để dành” ra vẻ thương mến Lân lắm. Muốn cho câu chuyện được chặt chẽ, lời đính ước được căn cứ để Lân sau này khỏi thoái thác, bà dõng dạc nói thêm:
- Tôi đã nói sao là như vậy. Đã nói một lời là một lời. Không bao giờ tôi thay lòng đổi dạ. Anh cứ yên tâm làm ăn, rồi tôi sẽ gả “nó” cho.
Vài ngày sau, bà nói lại cho Vinh biết là bà đã nhận lời gả nàng cho Lân. Bà ngọt ngào bảo nàng:
- Tao cũng định gả mày cho anh Thanh, rồi gây dựng cho mày, cho anh ấy, cũng là cái hay. Lấy anh ấy thì sướng được cái là không sợ cha mẹ chồng bắt bẻ gì. Anh ấy chỉ có một mình. Nhưng khốn nỗi rằng anh ấy lại nghèo túng quá, mà dạy học dạy hành thì lương bổng chẳng được là bao, mà cũng chẳng có gì là chắc chắn. Gây dựng cho anh ấy thì tao không tiếc, nhưng cũng cần phải có vốn liếng. Nhà mình thì mày tính, còn có đâu. Anh mày đi làm thì lại về cái phận của nó. Chẳng lẽ cứ câu thúc nó, bắt bẻ nó rồi lấy của nó mà bù cho mày thì tao cũng không đang tâm. Lấy anh Lân thì mày không còn lo lắng thiếu ăn thiếu mặc. Cha mẹ anh ấy tuy còn cả, nhưng cũng không đi theo anh ấy, thì mày cũng không sợ cái cảnh mẹ chồng, nàng dâu. Tao đã suy tính kỹ càng...
Nói đến đây bà cũng hiểu rõ rằng đối với Thanh, bà đã là con người tráo trở và bà biết rằng chính Vinh cũng biết như thế, nên bà sợ rằng vì thế mà con bà đem lòng khinh bà, nên bà đã tìm cách tự bênh vực:
- Câu chuyện này mà người ngoài biết thì tao chắc sẽ có nhiều người chê trách khinh bỉ tao; nhưng chẳng qua cũng là vì mày cả. Chẳng lẽ đến khi tao đã hai tay buông xuôi, lại để cho mày nghèo nàn, túng bấn. Bao giờ thì cũng thương con cái, nghĩ đến tương lai con cái hơn cả chứ!
Trước những lời phân trần đó của mẹ, Vinh cũng chỉ nghe và tuân theo cũng như từ trước đến nay nàng đã tuân theo mẹ trong hết mọi việc. Vì nàng đã sống theo đường của mẹ vạch sẵn. Mẹ nàng đã quá luôn luôn săn sóc nàng, đến nỗi nàng không hề có chút sống tự lập về tinh thần hay tình cảm. Nàng chẳng khác gì một thứ dây leo, tuy có được tươi tốt nhưng phải quấn mình quanh một cái cây to, nghĩa là người mẹ mà nàng vẫn tin là vững vàng chắc chắn có thể che đỡ được nàng về mọi phương diện. Học hành ít và sự giáo dục của nàng không có gì cao xa, chỉ quanh quẩn trong việc tính toán công việc con con hằng ngày, hoặc lợi, hoặc hại, nên nàng đã không có trong tinh thần một chút gì mạnh mẽ để có thể tự mình gây lấy cảnh sống cho mình.
Nàng cũng biết rằng nếu mẹ nàng khuyên răn nàng nên lấy Thanh, chắc nàng cũng không cưỡng lời. Tuy Thanh nghèo và công việc làm ăn không có gì chắc chắn, nhưng đối với chàng, nàng đã có chút tình yêu dù không sâu sắc chăng nữa. Đến lúc đó nàng mới được hiểu rõ rằng đã từ lâu mẹ nàng đã xui nàng quên Phúc để nghĩ tới Thanh và bây giờ lại tìm cách để cho nàng quên Thanh để rồi lấy Lân. Trước sự thay đổi đó của mẹ, nàng không hề đem lòng khinh bỉ mẹ, vì nàng đã biết đó chỉ là bởi sự lo lắng về tương lai của nàng. Sự xoay sở của mẹ chẳng hề gây một tính tình gì làm giảm bớt sự kính trọng nàng vẫn có trong lòng đối với mẹ. Cũng như mẹ, nàng đã cảm thấy nhiều nỗi thiếu thốn, nhiều sự đau khổ về mọi phương diện gây nên bởi sự kém cỏi về đồng tiền: Lòng ghét bỏ, khinh thường của người đời, sự thờ ơ lãnh đạm của những người thân thuộc trong gia đình. Một điều nhận xét nàng thấy ngay trước mặt: Anh nàng khi xưa còn nghèo nàn, chẳng còn ai muốn chơi bời làm quen với, trừ một vài người bạn cùng trường. Bây giờ nhờ có địa vị và đồng tiền kiếm ra, anh nàng đã được bao nhiêu người tôn trọng. Không nói gì người ngoài, ngay các anh em về bên nội cũng vậy. Trước kia thì thực chẳng còn ai muốn thăm nom mà bây giờ thì thỉnh thoảng đã thấy họ đi lại ra chiều thân mật lắm. Nàng còn nhớ khi anh nàng còn làm ở Nam Định, bác, làm tham biện, muốn biết giờ tàu xuôi Hà Nội đã thân chinh đến tận nơi anh nàng để hỏi giờ. Đó chẳng qua cũng chỉ là một lối để làm thân vì lẽ anh nàng đã đi tới một địa vị. Tất cả những điều quan sát ấy đã khiến nàng cảm thấy rằng nhờ có đồng tiền, sự sống sẽ nới giãn, không bị gò bó. Cũng như mẹ, nàng đã thấy đồng tiền, dù sao chăng nữa, cũng mang lại cho mình một đôi chút sung sướng. Nàng nghiệm ra rằng ngay từ khi anh nàng đi làm, sự chi tiêu trong nhà được dồi dào, từ quần áo và các thức trang điểm của nàng đều được hào nhoáng, bóng bẩy hơn trước. Cái bề ngoài đó đã giúp nàng có được bao nhiêu thiện cảm chung quanh mình. Nào giữa bạn bè, giữa những người quen biết, nào trong sự xã giao hằng ngày. Càng đi sâu vào những cái con con về thực tế đó, nàng càng thấy sự cần thiết của đồng tiền. Và nàng ghê sợ cái nghèo nàng đã phải sống qua. Cái thế giới xa hoa trong đó có những bữa cơm sáng, những cuộc hội họp chuyện trò với những bộ quần áo màu rực rỡ, với những kiểu cách lòe loẹt bên ngoài của những kẻ phú quý mà trước kia nàng tin là nàng không thể đặt chân vào dược thì bây giờ, nhờ có địa vị của người anh đã là một thế giới quen thân của nàng. Và nàng tưởng như đã đặt chân vào đó thì không còn có thể rời bỏ ra được. Nàng rùng mình khi có ý tưởng rằng một ngày kia vì một lẽ gì mà nàng lại bắt buộc phải từ giã cái chốn phù phiếm đó. Cái giáo dục tầm thường của nàng đã không thể gây được cho nàng một ý tưởng cao xa gì để chống lại với sự quyến rũ nhỏ nhen về vật chất đó. Thế là sự hèn yếu không dám sống trong cảnh nghèo đã xui nàng nhận lời lấy Lân. Nàng có một cảm giác ghê sợ, rùng rợn khi ngỏ lời ưng ý với mẹ. Đó là cái ghê sợ gây nên bởi sự e hãi lòng khinh bỉ của mẹ, cũng như mẹ nàng đã e sợ lòng khinh bỉ của chính nàng. Vì tất cả hai, bà Cang cũng như Vinh đều e sợ sự khinh lẫn nhau. Mẹ khinh con bỏ tình yêu để kiếm địa vị và con khinh mẹ đã luôn xoay chiều vì đặt sự gây dựng lên trên mọi tính tình cao thượng khác. Muốn tự bào chữa cho mình, nàng đã rụt rè nói với mẹ: “Mợ bảo sao, con xin nghe vậy”.
Sự thực đó chỉ là câu giả dối, nàng dùng để che đậy cái ý muốn của nàng. Nàng đã không nghe gì sự quyết định của mẹ. Tuân theo lời mẹ, nàng chỉ theo sự suy tính của chính nàng. Vì đã quen ỷ lại vào mẹ về đủ mọi phương diện, nên hễ mẹ xoay chiều thì vô tình nàng cũng xoay chiều lúc nào không rõ. Và vì thế mà sự quyết định của mẹ cũng lại là sự quyết định của chính nàng.
Chưa bao giờ bà Cang thấy sung sướng trong lòng bằng cái lúc con gái đã tỏ ý nhận lời lấy Lân đó. Vì bà đã làm xong cái việc bà băn khoăn từ khi con gái bắt đầu khôn lớn; việc lớn ấy là sự gây dựng, nghĩa là tìm được dâu và kiếm được rể. Tìm dâu, bà đã dòm dỏ gia đình nàng dâu từ nóc đến nền, rồi kén dâu từ đầu tới chân; kiếm rể, bà đã mưu sự sống, sự an nhàn chắc chắn cho chính con gái bà; nào đủ ăn, đủ mặc, rồi lại tránh sao cho khỏi cái cảnh mẹ chồng nàng dâu.
Bà chỉ ao ước có sự chu đáo, “toàn vẹn mọi bề”. Và chỉ có thế thôi. Mọi cái khác đối với bà đều là thừa. Gây dựng được cho Vinh lấy Thanh thì bà đã có thể kiêu hãnh với người ngoài và thứ nhất là những người nhà chồng rằng tay không mà đã lấy được chồng cho con rồi lại còn trợ cấp được cho chàng rể; mà bây giờ gả Vinh cho Lân thì bà lại có cái kiêu là kiếm được một chàng rể có địa vị cao quý. Đằng nào bà cũng không còn sợ ai chê trách, và chỉ có lời khen.
Nghĩ lại, bà thấy công việc khó khăn dài dòng, mà nay đã được yên ổn cả, bà sung sướng như sắp được sống một cuộc đời mới tốt đẹp khác. Bà sung sướng nhất khi nghĩ rằng bao nhiêu người giàu có mà con trai thì lông bông, con gái thì ế ẩm mà bà thì tuy kém cỏi nhiều nhưng trai, gái đều “chu tất”.
Bà cho rằng công việc của Vinh đến đó đã tạm gọi là xong. Bà thu xếp đưa Vinh về Bắc. Bà chỉ nói qua cho Thúc biết là bà đã nhận lời gả Vinh cho Lân. Bà không có một lời bàn bạc gì hơn. Vì bà vẫn tin rằng trong sự gây dựng cho Vinh, Thúc không có quyền gì; chỉ một mình bà định đoạt là đủ, cũng như bà đã định đoạt việc của chính Thúc. Khi được tin đó, Thúc cũng chẳng biết nói sao, cứ để mặc mẹ định liệu, vì chàng không hề biết rằng chính Thanh, bạn chàng, đã đem lòng yêu em mình. Điều này, Thanh vẫn giấu kín, không cho Thúc biết, chàng vẫn e rằng bạn sẽ ngờ mình vì muốn cầu lợi mà đã tỏ tình thân mật với bạn.
Khi thấy bà sửa soạn đưa Vinh về Bắc, Lân đoán chừng bà Cang e ngại rằng chàng đã yêu Vinh mà còn để nàng lại thì sẽ xảy ra chuyện không hay. Chàng ngỏ lời muốn xin để cho Vinh ở lại và đối với nàng, chàng sẽ giữ gìn đứng đắn; chàng cam đoan sẽ không để xảy ra điều gì để bà phải hối hận. Song bà Cang nhất định từ chối, và nói cho Vinh về không phải vì sự giữ gìn, nhưng chỉ để nàng thăm bà ở nhà. Bà thầm kín bảo Lân:
- Chả lẽ để nó ở trong này mãi rồi bà cụ ở nhà nhớ nó, lại bảo đi là đi biệt, không còn thiết gì đến nhà!
Sự lo lắng về Vinh đã khiến bà không lúc nào xa hẳn nàng. Bởi thế nên tuy trở về Phúc Yên cũng chẳng có gì bận bịu, bà cũng mang Vinh về.
Trước kia, khi bà còn muốn gả Vinh cho Thanh, thì về Phúc Yên, nàng còn phải học buôn bán; bây giờ về nhà cũng chẳng có việc gì, có lẽ chỉ có ăn rồi ngủ; nhưng dù thế chăng nữa, bà không muốn để Vinh ở lại. Chưa gả bán hẳn cho Lân, thì bà còn cần phải giữ gìn. Trước khi về Bắc, bà đã cẩn thận dặn dò Lân:
- Anh đừng lo lắng gì; dù em nó ở đây hay về Bắc cũng vậy, tôi đã hứa như thế là như thế. Bao giờ anh muốn làm lễ hỏi thì cứ bảo Thúc nó viết giấy về hay anh viết lấy cũng được, gửi về Phúc Yên cho tôi biết trước vài ngày.
Lời dặn dò để Lân bớt lo thì ít, nhưng để cho câu chuyện kết nút chặt chẽ hơn, để chàng không thể thoái thác được thì nhiều.
Rồi bà Cang cùng con gái lên tàu về Bắc.