Chương 10
Tôi đã quan sát từ trên cầu thang được một thời gian, nên tôi biết. Một người đàn ông với những lọn tóc xoăn màu đen, đội mũ rộng vành, mặc áo gió của công nhân, quần vải tuýt, ống nhét vào trong đôi bốt buộc dây cao cổ. Những chiếc va-li cũ nhìn giống như đạo cụ từ những bộ phim ngày xưa, buộc cùng với chiếc giỏ mây cho con mèo bằng cái dây da đã mòn. Và Birdie đứng ngay cạnh ông ta, mặc một chiếc váy trông không khác gì váy ngủ.
“Anh ơi!” Tôi nghe mẹ tôi gọi cha tôi. “Ra đây gặp Justin này.”
Tôi nhìn cha tôi đi ra từ phòng khách. Ông mặc một chiếc áo len xù màu xanh, miệng ngậm điếu xì gà.
“Vậy,” ông nói, siết chặt tay người đàn ông kia, “anh là bạn trai của Birdie à?”
“Đối tác,” Birdie chen vào. “Justin là đối tác của tôi.”
Cha tôi nhìn cô ta bằng cái cách mà ông vẫn nhìn khi ông nghĩ có ai đó đang cố tình làm ông trông giống một thằng ngốc, như thể ông đang cân nhắc có nên động tay động chân hay không. Nhưng ánh mắt ấy lướt qua nhanh chóng, và tôi thấy ông cố gượng cười xí xóa. “Phải,” ông nói. “Tất nhiên rồi. Hiện đại bây giờ người ta nói như thế, đúng không?”
Birdie nói với mẹ tôi rằng cô ta và đối tác của cô ta cần một chỗ để ở trong mấy ngày tới. Chủ nhà cũ của họ đuổi họ ra ngoài vì họ nuôi mèo—có ai lại ngu đến nỗi mang một con mèo về mà không thèm kiểm tra xem hợp đồng thuê nhà có cho phép không cơ chứ? Tôi chưa đến mười một tuổi và chưa bao giờ đi thuê nhà mà tôi còn biết điều đó—và Birdie trong tình huống này không có ai khác để trông cậy cả. Giờ khi tôi đã trưởng thành, ngót nghét bốn mươi tuổi, tôi thường lặp lại điệp khúc này khi tôi cần nhờ vả ai đó làm điều gì cho tôi. Tôi không còn ai khác để trông cậy cả. Nó khiến người mà bạn đang cố thao túng không có sự lựa chọn nào khác. Họ chỉ còn biết đầu hàng mà thôi. Và đó chính là điều mẹ tôi đã làm.
“Nhưng nhà ta có quá trời phòng,” bà nói khi tôi than thở về chuyện bà sắp xếp chỗ ở cho Birdie trong những ngày sắp tới. “Với lại họ cũng chỉ nán lại đây có vài ngày thôi.”
Thực ra, tôi nghĩ mẹ tôi chỉ muốn có một ngôi sao nhạc pop sống trong nhà.
Em gái tôi đi ngang qua tôi trên cầu thang, và dừng lại hít nhẹ một hơi khi nó thấy cái giỏ mèo ở hành lang. “Nó tên là gì vậy ạ?” con bé hỏi, quỳ gối xuống để ngó qua tấm lưới sắt.
“Nó là mèo cái. Tên nó là Suki,” Birdie nói.
“Suki à,” con bé nói, đoạn luồn đốt ngón tay qua thanh sắt. Con mèo áp mình vào tay con bé, kêu grừ grừ.
Người đàn ông tên Justin xách chiếc va-li trông như đạo cụ sân khấu của ông ta lên và nói, “Chúng tôi nên để đồ ở đâu, Martina?”
“Chúng tôi đã chuẩn bị sẵn một căn phòng đáng yêu cho hai bạn ở tầng trên cùng. Các con, mau chỉ cho khách của nhà ta lối lên căn phòng màu vàng đi chứ?”
Em gái tôi chỉ đường cho họ. Trước giờ con bé vẫn hòa đồng hơn tôi nhiều. Tôi thấy người lớn có phần đáng sợ, trong khi em gái tôi lại rất thích họ. Con bé đang mặc bộ đồ ngủ màu xanh. Còn tôi mặc một chiếc áo choàng kẻ sọc và đi đôi dép nỉ xanh. Lúc ấy đã gần chín giờ rồi, cũng là lúc mà chúng tôi sắp phải đi ngủ.
“Ơ,” Birdie nói khi em gái tôi đẩy cánh cửa bí mật trên tấm ván gỗ mở ra lối cầu thang dẫn lên tầng trên cùng. “Cháu đang dẫn bọn cô đi đâu thế?”
“Đây là lối cầu thang phía sau,” em gái tôi đáp. “Để lên căn phòng màu vàng.”
“Ý cháu là lối cho người ở á?” Birdie đáp lại khinh khỉnh.
“Vâng ạ,” em gái tôi trả lời, nét mặt vẫn rạng rỡ, vì dù con bé chỉ nhỏ hơn tôi có một tuổi rưỡi, nó còn quá bé để hiểu rằng không phải ai cũng nghĩ việc được ngủ trong căn phòng bí mật ở trên đỉnh của lối cầu thang bí mật là một chuyến phiêu lưu thú vị; rằng có một số người cảm thấy bị xúc phạm vì họ nghĩ họ xứng đáng có được một căn phòng ngủ rộng rãi đúng nghĩa.
Ở trên đỉnh của lối cầu thang bí mật có một cánh cửa gỗ dẫn đến một hành lang dài và hẹp, bao quanh bởi những bức tường sần sùi, ọp ẹp, ở dưới là những miếng ván lát sàn nhà cong vênh, lắc lư, đi qua đó cảm giác như đi trên một đoàn tàu đang di chuyển. Căn phòng màu vàng là căn phòng đẹp nhất trong bốn căn phòng ở trên đó. Nó có ba cửa sổ ở trên trần, và một cái giường lớn, với vỏ chăn màu vàng, tiệp với màu vàng của giấy dán tường hiệu Laura Ashley, cùng những chiếc đèn bàn hiện đại, và chụp đèn bằng kính màu xanh lam. Mẹ chúng tôi đã chuẩn bị sẵn một bình hoa tulip đỏ và vàng. Tôi quan sát nét mặt của Birdie khi cô ta nhìn ngắm khắp căn phòng, cằm miễn cưỡng vếch lên như thể muốn tỏ ra rằng: thôi cũng tạm được.
Chúng tôi để bọn họ ở lại đó, và tôi theo chân em gái tôi khi con bé chọn không đi qua lối cầu thang bí mật, mà băng qua phòng khách để đi xuống bếp.
Cha tôi đang mở nút chai rượu vang. Mẹ tôi mặc chiếc tạp dề có diềm xếp xung quanh và trộn salad. “Mấy người đó định ở đây bao lâu vậy ạ?” Tôi buột miệng hỏi. Tôi thấy mặt cha tôi thoáng sa sầm khi tôi không giấu nổi cái tính láo xược của mình.
“Ồ. Không lâu đâu.” Mẹ tôi đóng nút chai giấm vang đỏ lại và đặt nó sang một bên, mỉm cười hiền hậu.
“Bọn con thức muộn một chút được không?” em gái tôi hỏi, lúc này nó chỉ tập trung vào điều nó muốn mà không buồn để ý bối cảnh bấy giờ.
“Đêm nay thì không được,” mẹ tôi trả lời. “Mai thì có thể, vì mai là cuối tuần.”
“Và sau đó, họ sẽ đi phải không ạ?” Tôi hỏi, khẽ đẩy cái ranh giới giữa tôi và sự kiên nhẫn của cha tôi. “Sau cuối tuần ấy ạ?”
Tôi quay người lại khi cảm nhận được ánh mắt của mẹ đang lướt qua vai tôi. Birdie đang đứng ở ngưỡng cửa, tay ôm con mèo. Lông nó màu nâu pha trắng, mặt giống như mặt nữ hoàng Ai Cập. Birdie nhìn tôi và nói, “Yên tâm đi nhóc, bọn cô sẽ không ở lại lâu đâu. Chỉ đến khi cô và Justin tìm được chỗ ở mới thôi.”
“Tên cháu là Henry,” tôi nói, ngỡ ngàng khi một người lạ đứng trong nhà tôi lại dám gọi tôi là “nhóc”.
“Henry,” Birdie lặp lại, nhìn tôi bằng cặp mắt sắc lẹm. “Phải, tất nhiên rồi.”
Em gái tôi hau háu nhìn con mèo và Birdie nói, “Cháu có muốn bế nó không?”
Con bé gật đầu và Birdie đặt con mèo vào tay nó. Ngay lập tức con mèo xoay một trăm tám mươi độ như một mảnh dây chun co giãn và nhảy ra khỏi em gái tôi, để lại trên tay nó một vết cào đỏ lòm. Tôi thấy mắt nó rơm rớm nước, nhưng miệng nó vẫn méo mó nặn ra một nụ cười dũng cảm.
“Con không sao đâu,” nó nói, khi mẹ tôi lao ngay đến bên nó, đoạn lấy khăn ướt chấm chấm vào cánh tay.
“Henry, con đi lấy cho mẹ một ít thuốc sát trùng Germolene được không, ở trên tủ trong phòng tắm của mẹ ấy.”
Tôi liếc mắt nhìn Birdie khi tôi đi qua, để cảnh báo cho cô ta biết rằng tôi đã thấy sự bất cẩn của cô ta khi cô ta đưa con mèo cho em gái tôi. Cô ta đưa mắt nhìn lại tôi, mắt cô ta bé ti hí, đến nỗi tôi khó mà nhìn ra được xem chúng màu gì.
Tôi là một cậu bé kỳ lạ. Giờ thì tôi thấy được điều ấy. Tôi đã gặp những cậu bé giống tôi: ít cười, lúc nào cũng căng thẳng, thận trọng, hay đề phòng. Tôi đoán Birdie cũng từng là một cô bé không giống ai. Có lẽ cô ta nhận ra chính bản thân mình khi cô ta nhìn thấy tôi. Nhưng tôi biết là cô ta ghét tôi, ngay từ buổi hôm ấy. Điều đó rất rõ ràng. Và nó đến từ cả hai bên.
Tôi lướt qua Justin khi tôi đi qua hành lang. Tay ông ta cầm một hộp chocolate Black Magic móp méo, mặt có vẻ như đang không tìm thấy đường. “Cha mẹ cháu đang ở hướng ấy à?” ông ta hỏi, chỉ tay về phía bếp.
“Vâng,” tôi đáp. “Ở trong bếp. Đi qua cái cửa tò vò đó.”
“Merci beaucoup (Cảm ơn nhiều),” ông ta nói, và dù tôi chỉ mới mười tuổi thôi, tôi đã đủ lớn để biết là ông ta đang cố khoa trương.
Sau đó không lâu thì chúng tôi phải đi ngủ, em gái tôi lên giường với cánh tay bị băng bó, còn bụng tôi thì cứ bồn chồn. Tôi nằm trong số những đứa trẻ cảm nhận được cảm xúc đang xâu xé trong ruột gan của mình.
Tôi nghe thấy tiếng chân họ sột soạt ở trên lầu. Tôi kéo một chiếc gối lên đầu và quay đi ngủ.
Sáng sớm hôm sau khi tôi chạy xuống nhà, hộp Black Magic vẫn ở trên bàn bếp mà chưa có ai mở. Tôi cảm thấy như có ai đó đang xúi giục tôi bóc lớp giấy bóng kính kia và mở nó ra. Một hành động nổi loạn nho nhỏ hẳn có thể làm tôi cảm thấy khoái chí ngay lúc này, nhưng sẽ để lại hậu quả về lâu về dài. Tôi nghe thấy có tiếng động sau lưng tôi và rồi thấy con mèo đang cố chui qua cánh cửa. Tôi nghĩ về vết cào trên tay em gái tôi và điệu bộ tặc lưỡi sốt ruột của Birdie: “Chỉ là tai nạn thôi, con bé không bế con mèo đúng cách, chứ Suki không bao giờ cố ý cào ai cả.”
Cơn giận bừng bừng bỗng trào lên trong tôi, tôi rít thật to và đuổi con mèo ra khỏi phòng.
Tôi cảm thấy nhẹ nhõm khi đi học ngày hôm ấy, vì đó là một vài tiếng mà tôi được sống một cách bình thường. Tôi vừa mới bắt đầu học kỳ cuối ở trường tiểu học. Tháng tới là tôi tròn mười một tuổi, tôi là một trong những nam sinh bé nhất khối, và sau đó tôi sẽ chuyển đến ngôi trường lớn hơn, gần nhà hơn, và không phải mặc quần đũng rộng nữa. Lúc ấy tôi rất chú trọng việc này. Tôi đã trưởng thành hơn rất nhiều so với ngôi trường tôi đang học, trưởng thành hơn cả những đứa trẻ lớn lên cùng tôi nữa. Tôi biết là tôi khác biệt. Hoàn toàn khác biệt. Không có ai ở đây giống tôi cả, tôi vẫn mơ được đi học ở trường lớn và tìm được những người giống mình. Mọi thứ sẽ tốt hơn khi tôi chuyển sang trường lớn. Tôi chỉ còn mười tuần nữa thôi, và một mùa hè buồn tẻ, nhưng sau đó mọi thứ sẽ bắt đầu.
Tôi không hề biết, cũng không có một chút ý niệm nào, về chuyện cuộc đời tôi sẽ bước sang một trang hoàn toàn mới vào cuối mùa hè năm ấy, và tất cả những thứ mà tôi hằng chờ đợi trong chốc lát bỗng biến thành những giấc mơ xa vời.