← Quay lại trang sách

Chương 40

David nhốt Phin trong phòng suốt một tuần sau đêm cậu ấy đẩy tôi xuống sông. Suốt một tuần trời. Một phần nào đó tôi cũng cảm thấy mừng, vì tôi không chịu nổi cảm giác phải nhìn thẳng vào mắt Phin. Cậu ấy đẩy tôi xuống sông, nhưng những gì tôi đã làm còn tệ hơn rất, rất nhiều lần.

Phần nhiều là tôi cảm thấy đau. Đau vì hối hận, vì tiếc nuối, vì giận dữ, vì bất lực, và vì nhớ cậu ấy. Đến bữa, thức ăn của Phin được mang đến tận nơi, và cậu ấy chỉ được phép đi vào nhà vệ sinh mỗi ngày hai lần, dưới sự giám sát của cha cậu, người đứng ngay ngoài cửa và khoanh tay trước bụng như một tay bảo kê hung ác.

Không khí trong nhà những ngày này rất nặng nề và khó mà đoán biết trước được. Mọi thứ đều bắt nguồn từ David. Ông ta tỏa ra thứ năng lượng đen tối khủng khiếp, và mọi người đều tránh chọc giận ông ta, trong đó có cả tôi.

Một buổi chiều trong thời gian Phin đang bị giam giữ, tôi ngồi phân loại thảo mộc với Justin. Tôi nhìn lên bức tường sau nhà về phía cửa sổ phòng Phin.

“Chú có nghĩ,” tôi nói, “David nhốt Phin lại như thế là đúng không?”

Ông nhún vai. “Cậu ta đã có thể giết chết cháu, anh bạn à. Cháu có thể đã chết rồi.”

“Vâng, cháu biết. Nhưng cậu ấy đã không làm như thế. Cháu vẫn còn sống. Chỉ là cháu thấy như thế là… sai trái mà thôi.”

“Ừ, đúng vậy, nếu là chú có thể chú sẽ không làm như thế, nhưng chú chưa bao giờ làm cha, và chú không hiểu có con thì sẽ như thế nào. David chỉ đang làm tròn ‘trách nhiệm’ của ông ấy mà thôi, chú đoán thế.” Ông giơ ngón tay ra hiệu dấu ngoặc kép khi nói hai từ đó.

“Trách nhiệm á?” tôi nói. “Ý chú là gì?”

“Chà, cháu biết đấy, nắm quyền kiểm soát tuyệt đối với mọi thứ trong nhà.”

“Cháu ghét ông ta,” tôi nói, giọng tôi bỗng nhiên nức nở.

“Ừ, thế thì chú cháu mình có điểm chung đấy.”

“Thế tại sao chú không bỏ đi?”

Ông liếc mắt nhìn tôi, rồi quay lại nhìn cánh cửa. “Chú cũng định thế,” ông thì thầm. “Nhưng đừng nói với ai nhé, được chứ?”

Tôi gật đầu.

“Có một điền chủ nhỏ. Ở Wales. Người phụ nữ chú gặp ở chợ nói cho chú biết. Nhà họ đang tìm ai đó để giúp trồng khu vườn thảo mộc. Cũng giống như ở đây, chú sẽ được ăn ở miễn phí. Nhưng sẽ không có chúa tể cu bự chết tiệt nào ở đó cả.” Ông đảo mắt về phía ngôi nhà một lần nữa.

Tôi cười. Chúa tể cu bự. Tôi thích cụm từ này.

“Chú định bao giờ đi?”

“Sớm thôi,” ông nói. “Rất sớm thôi.” Ông vội ngước lên nhìn tôi. “Muốn đi cùng không?”

Tôi chớp mắt. “Tới Wales ấy ạ?”

“Ừ. Tới Wales. Cháu có thể tiếp tục làm tập sự nhí của chú.”

“Nhưng cháu mới chỉ có mười bốn tuổi.”

Ông không nói gì, chỉ gật đầu và tiếp tục gói các loại thảo mộc.

Phải sau đó một lúc tôi mới hiểu những lời Justin nói. Ông không rủ tôi tới Wales để làm tập sự nhí của ông; ông không rủ tôi đi cùng vì ông cần tôi. Ông rủ tôi đi cùng vì ông nghĩ, khi đi cùng ông tôi sẽ an toàn hơn ở lại chính ngôi nhà của mình.

Hai ngày sau Justin biến mất. Ông không nói chuyện này với ai, và ông bỏ đi từ sớm tinh mơ, đến cả David cũng chưa kịp thức dậy. Rút kinh nghiệm từ vụ của Phin, tôi không nói với ai về người điền chủ ở Wales cả. Tôi có cảm giác ông ấy không muốn ai biết mình đi đâu. Chiều hôm đấy tôi vào phòng ông ấy. Khi đến Justin không có nhiều đồ đạc, khi đi ông còn mang ít hơn. Tôi bước đến bên bệ cửa sổ, nơi tất cả những quyển sách của ông xếp thành một hàng.

Ma thuật và Bùa chú thời Hiện đại.

Ma thuật cho người mới bắt đầu.

Cẩm nang Ma thuật các Bùa chú Thảo mộc.

Tôi cảm giác như ông cố tình để lại sách cho tôi.

Tôi liếc ra hành lang, sau khi biết chắc rằng không có ai ở đấy, tôi nhét mấy cuốn sách vào trong áo len của tôi.

Khi chuẩn bị chạy về phòng thì tôi bắt gặp thứ gì đó ở trên bàn bên cạnh giường. Thứ gì đó be bé và nhiều lông lá. Đầu tiên tôi tưởng đấy là con chuột chết, nhưng hóa ra đấy lại là một cái chân thỏ được cắt ra và gắn vào sợi dây chuyền nhỏ. Tôi biết lơ mơ là cái này dùng để cầu may, như cây thạch nam hay cỏ bốn lá. Tôi vội nhét nó vào trong túi và chạy ngay về phòng, giấu tất cả mọi thứ tôi vừa tìm được xuống dưới đệm.

Tôi luôn mong được nghe thêm tin gì đấy về Justin.

Sau khi ba cái xác được phát hiện, cảnh sát bắt đầu vào cuộc để điều tra nguyên nhân cái chết và truy lùng dấu vết của “những đứa trẻ mất tích bi thảm” nhà Lamb, tôi đã chờ, chờ mãi, để thấy Justin xuất hiện trên bản tin thời sự lúc sáu giờ sáng và kể về quãng thời gian ông ở ngôi nhà này, cùng chuyện David Thomsen đã nhốt đứa con tuổi vị thành niên của mình trong phòng ngủ ra sao, và theo sát tất cả mọi người trong nhà đi đâu, về đâu, ăn gì, mặc gì.

Từ đó đến nay tôi đã thử tìm Justin rất, rất nhiều lần trên mạng, nhưng tôi không kiếm nổi bất cứ dấu vết nào của ông, ở bất cứ đâu. Tôi chỉ có thể giả định rằng hoặc là ông ấy đã chết, hoặc là ông ấy di cư đến một nơi nào đó xa xôi hẻo lánh ít người biết tới, hoặc là ông biết chuyện gì đã xảy ra với gia đình chúng tôi nhưng quyết định giữ im lặng và không muốn bị liên lụy. Dù sự thật là gì đi chăng nữa, trong thâm tâm tôi luôn cảm thấy nhẹ nhõm. Nhưng khi ông ấy đi rồi, tôi thấy nhớ ông ấy. Mới đầu tôi không thích Justin, nhưng hóa ra ông ấy lại là người khiến tôi ít lo lắng nhất, so với hàng đống thứ chết tiệt mà tôi đã phải trải qua.

Mấy tháng trôi qua. Hè chuyển sang đông. Tôi tiếp quản vườn thảo mộc của Justin. David tích cực ủng hộ tôi trong chuyện này, vì nó ăn khớp với hệ tư tưởng của ông ta. Trẻ con cần lao động chăm chỉ, tập trung làm những công việc bổ ích, lành mạnh. Trẻ con không nên học những kỹ năng mà sau này có thể khiến chúng phạm phải những tội ác của chế độ tư bản. Ông ta không hề biết về những cuốn sách tôi đang giấu dưới gầm giường, hay những kỹ năng mới mà tôi đang tự mày mò nghiên cứu và phát triển. Mỗi tối tôi lại mang một nắm rau húng tây và rau bạc hà tươi vào trong bếp, để chiếm được sự ưng thuận và cưng chiều từ những người lớn trong nhà. Một buổi tối Birdie còn đổ nước vào trong bồn tắm sẵn cho tôi, khi cô ta thấy tôi đứng dưới mưa để che cho những cây giống mỏng manh mới gieo.

“Cháu làm tốt lắm,” cô ta nói, tay đưa cho tôi cái khăn tắm khi tôi bước lên lầu. “David rất hài lòng.”

David rất hài lòng.

Tôi muốn cắn cô ta, như một con chó.

Như dự đoán, Sally không kiếm được căn hộ nào ở Hammersmith mà vẫn ngủ trên ghế xô-pha ở Brixton, và giờ bàn đến chuyện chuyển xuống Cornwall.

Một buổi tối xe kéo đưa cả Sally, Phin và Clemency về nhà tôi, sau khi Sally dẫn Phin và Clemency đến bữa tiệc ở nhà người bạn chiều hôm đó, và rõ ràng là ở đấy bà đã uống quá chén. Trước đó tôi đã nhìn thấy người lớn say rượu rồi, nhiều nữa là đằng khác, khi cha mẹ tôi còn quảng giao và thích tổ chức tiệc vào mỗi cuối tuần. Nhưng tôi không chắc tôi đã từng thấy ai say như Sally tối hôm ấy.

“Tôi không thể tin được,” tôi nghe thấy tiếng David nói, giọng căng thẳng, giận dữ, “là cô lại nghĩ tôi sẽ cho cô cơ hội được đón hai đứa trẻ này về nuôi. Có xuống địa ngục tôi cũng không đồng ý. Nhìn bộ dạng cô lúc này mà xem!”

“Anh!” Sally nói. “Anh mà cũng đòi dạy đời tôi sao! Nhìn lại chính bộ dạng của anh đi! Anh nghĩ anh là ai? Anh thật đáng thương. Đáng thương. Anh và con ả xấu hoắc đó. Có Chúa mới biết được anh còn đang dâm ô với ai nữa. Chúa mới biết được.”

Tôi thấy David đang cố xô Sally về phía cửa. Tôi có thể thấy ông ta rất muốn đánh Sally, và đang cố kiềm chế để không phải thượng cẳng chân hạ cẳng tay.

Nhưng rồi mẹ tôi xuất hiện. “Để tôi pha cho chị cốc cà phê,” mẹ tôi nói, chạm nhẹ vào khuỷu tay Sally, rồi ném cho David ánh nhìn cảnh cáo. “Thôi nào. Có chuyện gì thì vào đây giải quyết.”

Tôi vờ như không biết chuyện gì, ít phút sau lân la đi xuống bếp.

“Con xuống lấy nước,” tôi nói, dù không ai quan tâm. Tôi giả vờ bỏ đi, rồi lặng lẽ nấp sau cánh cửa của kho lương thực.

Sally khóc, nước mắt rơi trong im lặng, chấm chấm khăn tay lên mặt. Tôi nghe thấy bà ấy nói, “Làm ơn giữ cho các con tôi được an toàn. Làm ơn giữ cho các con tôi được an toàn giúp tôi. Tôi không biết bao giờ tôi mới có thể…” Những lời còn lại của bà ấy bị nuốt chửng bởi tiếng còi inh ỏi của một con thuyền trên sông ngoài cửa trước. “Tôi lo lắm. Phin kể với tôi là nó bị nhốt ở trong phòng, và tôi hiểu, vâng, việc nó làm là xấu. Ý tôi là, Chúa ơi, Henry có thể đã chết rồi. Nhưng như thế chẳng phải… quá lạnh lùng hay sao? Đúng vậy không? Nhốt một đứa trẻ con lại như thế. Anh ta lạnh lùng quá…”

“Chị biết tính David thế nào mà…” Mẹ tôi trả lời. “Đấy là cách anh ấy giữ cho mọi thứ đi đúng quỹ đạo của nó. Anh ấy đã cứu vớt gia đình chúng tôi. Thật lòng đấy. Trước khi anh ấy tới, tôi không thấy sống từ ngày này qua ngày khác có bất cứ ý nghĩa gì. Nhưng giờ mỗi buổi sáng thức dậy, tôi đều cảm thấy hạnh phúc về sự tồn tại của chính mình. Của chính tôi. Tôi không lấy đi thứ gì từ thế giới này. Tôi không góp phần vào hiện tượng Trái Đất nóng lên. Các con tôi khi lớn sẽ không phải ngồi sau những chiếc bàn kính và lấy tiền của người nghèo. Tôi chỉ ước,” bà nói, “rằng David bước vào cuộc đời chúng tôi sớm hơn.”