Chương 41
Libby đập cửa. Miller cũng thế. Đây là cửa chống cháy, được xây rất chắc chắn. Miller nhìn ra cửa sổ xem có đường nào khác để thoát ra không, nhưng tất cả đều bị đóng kín, chỉ còn lối duy nhất là nhảy từ trên tầng mười xuống đất.
Họ lục quanh phòng để tìm điện thoại, nhưng một lần nữa họ vẫn không thấy chúng ở đâu.
Sau nửa tiếng đồng hồ họ không đập cửa nữa, mà ngồi gục trên sàn, lưng tựa vào thành giường.
“Giờ sao?” Libby hỏi.
“Chờ thêm nửa tiếng nữa, tôi sẽ đá thử xem nó có mở ra được không?”
“Sao anh không đá luôn bây giờ?”
“Cô biết đấy, trông tôi thế thôi nhưng tôi không khỏe lắm đâu. Lưng tôi bị chấn thương từ ngày xưa. Nên tôi phải cẩn thận.”
“Vậy thì mười phút nữa nhé,” cô nói.
“Được, mười phút.”
“Mà anh nghĩ ông ta đang chơi trò quái quỷ gì vậy?” cô hỏi.
“Tôi chịu.”
“Anh nghĩ ông ta có định giết chúng ta không?”
“Ôi, tôi không nghĩ thế đâu.”
“Thế tại sao ông ta lại nhốt chúng ta ở đây?”
“Nhỡ tay chẳng hạn, biết đâu đấy?”
Libby nhìn anh ta với ánh mắt nghi ngờ. “Anh không thực sự tin điều anh vừa nói, đúng không?” Chiếc đồng hồ báo thức chỉ 7 giờ 37 phút sáng. Cô đang cố tính chừng nào cô mới đến được chỗ làm, rồi cả hai ngồi thẳng lưng khi nghe thấy tiếng sập cửa. Rồi họ nghe thấy một giọng nói. Đấy là giọng của Phin, gã ta đang nói chuyện với một con mèo. Họ nghe thấy những tiếng hôn chùn chụt. Họ đứng dậy và bắt đầu đập cửa.
Một lát sau cửa mở, và Phin đứng nhìn họ.
“Ôi Chúa ơi,” gã nói, tay ôm lấy miệng. “Ôi Chúa ơi. Tôi rất xin lỗi. Tôi hay bị mộng du. Có lần tôi đã đi vào trong phòng của khách, đã thế tôi còn lẻn vào giường ngủ cùng với họ. Thế nên tôi khóa cửa phòng hai người trước khi tôi đi ngủ. Và sáng nay tôi dậy sớm, sớm một cách ngớ ngẩn, vậy là tôi quyết định đi chạy bộ. Quên béng đi mất là hai người vẫn còn đang ngủ. Tôi vô cùng xin lỗi. Nào, ra đây. Ra đây. Chúng ta ăn sáng cùng nhau nhé?”
“Tôi không ở lại ăn sáng được. Tôi muộn làm rồi.”
“Ôi dào, cô gọi điện cho sếp là được mà, kể cho sếp cô chuyện gì đã xảy ra. Tôi chắc là người ta sẽ hiểu cho cô thôi. Thôi nào. Tôi có nước cam tươi và mọi thứ chuẩn bị sẵn sàng rồi. Hôm nay trời đẹp lắm. Chúng ta có thể ăn trên sân thượng. Đi mà.”
Lại nữa, lại là cái giọng nài nỉ, y hệt đêm hôm trước. Libby cảm thấy như mình đang bị mắc kẹt.
“Sao ông không nói trước với chúng tôi một câu,” cô nói, “tối qua ấy? Sao ông không nói trước là ông sẽ khóa cửa? Hay bảo chúng tôi tự khóa cửa lại từ bên trong?”
“Lúc ấy cũng muộn lắm rồi,” gã trả lời, “tôi lại say nữa, nên tôi đã có những hành động ngu ngốc.”
“Ông suýt làm chúng tôi chết khiếp, ông biết không. Tôi phát hoảng cả lên đấy.” Nói đến đây giọng Libby như vỡ ra, sự căng thẳng từ những giây phút trước cũng vơi đi dần.
“Làm ơn tha lỗi cho tôi,” gã nói. “Tôi là một thằng đần. Tôi không biết suy nghĩ trước sau. Hai người đang ngủ và tôi không muốn đánh thức hai người dậy. Nên tôi khóa cửa lại. Một cách vô thức. Thôi nào. Ra đây để tôi lấy cái gì cho hai người ăn.”
Cô và Miller liếc mắt nhìn nhau. Cô thấy là anh muốn ở lại. Cô gật đầu. “Được, nhưng nhanh thôi nhé. Mà ông Phin này?”
Gã nhìn cô âu yếm.
“Điện thoại của chúng tôi đâu?”
“Ô,” gã nói. “Thế không có ở trong phòng à?”
“Không,” cô trả lời. “Cả hai đều không luôn.”
“Vậy có khi tối qua cô để quên ở bên ngoài cũng nên. Chúng ta ra đấy tìm thử nhé.”
Họ đi theo gã ta qua hành lang và đi vào trong một phòng khách có không gian mở. “Ồ,” gã ta nói nhẹ bẫng. “Đây rồi. Cô sạc điện thoại trong bếp. Chắc tối qua chúng ta phải say bí tỉ thì mọi thứ mới gọn gàng ngăn nắp như thế này. Đi,” gã nói, “đi ra ngoài sân thượng ngồi. Tôi sẽ mang bữa sáng ra cho hai người.”
Họ ngồi cạnh nhau trên ghế xô-pha. Lúc này mặt trời đang tỏa nắng rực rỡ phía bên kia sông, làm cửa sổ những ngôi nhà trên đường Cheyne sáng rực lên.
Cô cảm thấy Miller ghé sát vào người cô. “Tôi không chấp nhận được cái lý do đó,” anh thì thầm vào tai cô. “Tôi không tin chuyện ‘ôi tôi say quá, tôi nhốt hai người ở trong phòng mà không báo trước cho hai người biết’. Và chuyện hai cái điện thoại di động tôi cũng không tin nốt. Tối qua tôi say thật, nhưng tôi nhớ tôi vẫn cầm điện thoại trên tay khi chúng ta lên giường đi ngủ. Tôi ngửi thấy có điều gì đó mờ ám.”
Libby gật đầu đồng ý. “Tôi biết,” cô nói. “Có điều gì đó không ổn lắm.”
Cô bật điện thoại lên và gọi cho Dido. Dido không bắt máy, nên cô để lại lời nhắn trong hộp thư thoại. “Chuyện dài lắm,” cô nói. “Nhưng em vẫn ở Chelsea. Chị có thể nhờ Claire tiếp nhà Morgan giúp em lúc mười giờ được không? Cô ấy đã có đủ các thông tin chi tiết. Giá mới nhất đã được cập nhật trên hệ thống. Chỉ cần in ra là xong. Những cuộc hẹn tiếp theo em sẽ có mặt. Em hứa. Em rất xin lỗi, và em sẽ giải thích mọi thứ khi em gặp chị. Và nếu mười giờ ba mươi mà em vẫn chưa có mặt thì chị gọi cho em. Nếu em không bắt máy,” cô vội quay lại, và thấy Phin vẫn đang đứng ở quầy bếp cắt bánh mì. “Em đang ở Battersea, trong một căn hộ chung cư ngay đối diện với nhà em. Được chứ? Em không biết số nhà là gì. Nhưng em ở trên tầng mười. Lát nữa em gặp chị. Em xin lỗi. Tạm biệt chị.”
Miller liếc mắt nhìn cô và mỉm cười dịu dàng. “Tôi sẽ không để điều gì xấu xảy ra với cô đâu,” anh nói. “Tôi sẽ đảm bảo cô đến những cuộc họp tiếp theo đúng giờ. Và vẫn còn sống. Được chưa?”
Trong cô ngập tràn cảm giác yêu thương ấm áp. Cô mỉm cười, gật đầu.
Phin xuất hiện với hai cái khay và đặt xuống trước mặt họ. Trứng bác, quả bơ dầm, rắc hạt ở trên, một chồng bánh mì lúa mạch nguyên cám đã nướng sẵn, một miếng bơ trắng và một bình nước cam lạnh. “Nhìn ngon chưa này,” gã nói, rồi đưa đĩa cho Libby và Miller.
“Trông ngon tuyệt,” Miller đáp, xoa tay vào nhau, trước khi lấy bánh mì bỏ vào đĩa của mình.
“Cà phê nhé?” Phin mời. “Hay trà?”
Libby xin một cốc cà phê và lấy sữa từ trong bình đổ thêm vào. Cô lấy một lát bánh mì nhưng cô không có tâm trí đâu mà ăn. Cô nhìn Phin. Cô muốn hỏi gã về chuyện gã kể với họ đêm qua nhưng cô không nhớ nổi nó là gì; nó dần trôi vào trong miền ký ức xa lắc mà cô không chạm được vào. Chuyện gì đó liên quan đến người phụ nữ chơi đàn violin tên là Birdie. Chuyện gì đó liên quan đến con mèo. Chuyện gì đó bao gồm một danh sách những luật lệ và sự hy sinh của kẻ ngoại giáo, và có một điều rất, rất kinh khủng liên quan đến Henry. Nhưng tất cả đều quá mơ hồ đến nỗi khi cô tự ngẫm lại, cô cảm thấy như gã ta chưa bao giờ kể cho họ nghe bất cứ chuyện gì. Thay vào đó, cô nói, “Ông có bức ảnh nào chụp các ông các bà hồi còn bé không?”
“Không,” gã trả lời, giọng có phần hối lỗi. “Một tấm cũng không có. Cô nhớ không, trong nhà không còn một cái gì khi chúng tôi bỏ đi. Cha tôi đem tất cả đi bán sạch, đến một mảnh vụn cũng không còn. Và những thứ ông ấy không bán được, ông ấy ném cho mấy cửa hàng từ thiện. Nhưng…” Gã ngưng lại. “Cô có nhớ một bài hát? Từ những năm tám mươi ấy, gọi là gì ấy nhỉ… Không, chắc cô không nhớ rồi, hồi đấy cô còn bé quá. Nhưng có một bài hát của một ban nhạc tên là Original Version? Đứng đầu bảng xếp hạng mấy tuần liền trong một mùa hè, trước khi chúng tôi đến sống ở ngôi nhà. Birdie, người phụ nữ tôi kể cho cô tối qua. Cô ta ở trong ban nhạc đó một thời gian. Cả Birdie và Justin. Và video ca nhạc của bài hát ấy được quay ở đường Cheyne. Cô có muốn xem không?”
Libby thở gắt. Ngoài bức ảnh cha mẹ cô mặc trang phục dạ hội trong bài báo của Miller đăng trên tờ Guardian, đây là cơ hội duy nhất giúp cô có thể hiểu thêm được phần nào về nơi cô đã sinh ra.
Họ đi vào trong phòng khách và Phin kết nối điện thoại của mình với chiếc ti-vi plasma màn hình lớn. Gã lên YouTube tìm và bấm nút phát video.
Libby nhận ra bài hát này ngay lập tức. Trước đây cô chưa từng biết nó tên là gì, hay của nhóm nào sáng tác, nhưng riêng phần nhạc thì cô biết rất rõ.
Video mở đầu với ban nhạc biểu diễn ở trước dòng sông. Tất cả các thành viên đều diện quần áo may bằng vải tuýt, đeo dây nịt, đầu đội mũ, chân đi bốt Dr. Martens. Nhóm có nhiều thành viên, trông có vẻ như mười người tất cả. Hai trong số đó là phụ nữ, một người chơi đàn violin, người kia chơi một loại trống da.
“Đây,” Phin nói, đoạn tạm dừng video lại và chỉ vào màn hình. “Đây là Birdie. Người có mái tóc dài.”
Libby dán mắt vào người phụ nữ trên màn hình. Trông cô ta gầy giơ xương, cằm mỏng và có vẻ rất nghiêm túc. Cô ta giữ chắc cây đàn violin ở dưới cằm, mắt ngước lên, nhìn thẳng vào camera. “Đó là Birdie ư?” cô hỏi. Cô không thể đánh đồng người phụ nữ mỏng manh, trông chẳng có điểm nào là ấn tượng này với người phụ nữ mà Phin kể với cô ngày hôm qua, người phụ nữ độc ác đã thống trị cả một gia đình và đứng đằng sau biết bao vụ ngược đãi tàn nhẫn.
Phin gật đầu. “Chính xác. Con quỷ cái độc ác.”
Gã ấn nút phát tiếp video, và giờ ban nhạc đã ở bên trong một căn nhà, một căn nhà tráng lệ, huyên náo, với bức tranh sơn dầu và những món đồ nội thất hoành tráng, nào là chiếc ngai nệm nhung đỏ, những thanh kiếm sáng choang, những tấm ốp được đánh bóng loáng, rèm cửa cong, đầu nai sừng tấm, cáo nhồi bông và đèn chùm lấp lánh. Camera đi theo ban nhạc khi họ lướt qua ngôi nhà với những nhạc cụ của họ, tạo dáng trên những bậc cầu thang được chạm khắc và trang trí công phu, nhảy xuống hành lang ốp gỗ, chơi đấu kiếm, đội mũ hiệp sĩ làm mẫu, cưỡi khẩu súng thần công ở trước vườn và trước một lò sưởi bằng đá khổng lồ, trong chứa đầy những khúc gỗ đang cháy.
“Ôi lạy Chúa,” Libby nói. “Đẹp quá đi mất thôi.”
“Đúng vậy,” Phin đáp khô khan. “Đẹp phải không? Vậy mà con quỷ cái kia và cha tôi đã phá hủy tất cả, một cách có hệ thống.”
Libby hướng mắt lại về phía màn hình ti-vi. Mười người trẻ, trong một ngôi nhà đầy đủ vật chất, tràn ngập sức sống, năng lượng và hơi ấm. “Tôi không hiểu,” cô khẽ nói, “tại sao mọi chuyện lại ra nông nỗi này.”