← Quay lại trang sách

Chương 45 & 46

Đến tháng Năm năm 1992, gia đình chúng tôi đã vón cục lại và chuyển hóa thành một cái gì đó quái dị. Chỉ những bài tập thể dục mồ hôi mồ kê nhễ nhại và những bông hoa xinh đẹp không đủ để chống chọi với thế giới toàn những kẻ ăn thịt, đầy vi khuẩn và khói bụi ngoài kia, và điều này chắc chắn sẽ giết chết nòi giống vô giá của David. Chính vì thế mà không ai được phép đi ra khỏi nhà. Mỗi tuần chúng tôi đều có người giao rau đến tận cửa, và trong chạn thức ăn chúng tôi đã tích trữ ngũ cốc và các loại đậu đỗ, đủ dùng trong ít nhất năm năm tới. Rồi một ngày, không lâu sau sinh nhật thứ mười lăm của tôi, David ra lệnh cho chúng tôi phải mang bỏ giày dép của mình đi.

Giày dép của chúng tôi.

Tất cả các loại giày dép, kể cả loại không được sản xuất từ động vật chết, đều rất, rất, rất xấu. Chúng chính là hiện thân của những vỉa hè bẩn thỉu, và những bước lê lết ủ rũ của giới văn phòng xấu xa, nơi những người giàu kiếm tiền và tiêu xài phung phí, để những người nghèo phải chịu xiềng xích trong cảnh túng thiếu do chính phủ góp phần tạo nên. Người nghèo ở Ấn Độ rõ ràng không có giày mà đi; vì vậy, chúng tôi cũng nên như thế. Tất cả giày dép của chúng tôi được gom vào trong một thùng các-tông rồi mang để ở bên ngoài một cửa hàng từ thiện gần nhất.

Kể từ ngày David lấy giày của chúng tôi cho đến đêm chúng tôi chạy trốn hai năm sau đó, không có một ai trong nhà đặt chân ra ngoài.

46

Miller đang ngồi ăn khi Libby bước vào quán cà phê trên đường West End.

“Cái gì thế?” Cô hỏi, treo túi xách lên lưng ghế rồi ngồi xuống.

“Bánh mì cuộn gà và chorizo,” anh trả lời, đoạn lấy tay quẹt xốt còn đang dính trên khóe miệng. “Ngon. Rất, rất ngon.”

“Đã bốn giờ chiều rồi,” cô nói, “ăn thế này thì anh định tính là bữa trưa hay bữa tối?”

Miller cân nhắc câu trả lời. “Bữa trưa muộn? Hay bữa tối sớm? Bữa tưa? Bữa trối? Cô ăn gì chưa?”

Cô lắc đầu. Cả ngày hôm nay cô chưa ăn gì kể từ bữa sáng trên sân thượng nhà Phin. Vả lại, cô cũng chẳng muốn ăn. “Tôi không đói,” cô nói,

Anh nhún vai và cắn thêm một miếng bánh mì.

Libby gọi một ấm trà và ngồi đợi Miller ăn xong.

Nhìn Miller ăn ngon lành làm Libby cảm thấy anh quyến rũ đến kỳ lạ. Anh ăn như thể trên đời này anh không còn muốn làm việc gì khác, ngoài ăn. Cách anh ăn, theo Libby quan sát, rất tập trung và có chủ ý.

“Giờ thì,” Miller nói, đoạn mở máy tính xách tay ra và gõ vài chữ, rồi quay màn hình lại cho Libby nhìn. “Mời cô gặp Birdie Dunlop-Evers. Tên đầy đủ là Bridget Elspeth Veronica Dunlop-Evers. Sinh ra ở Gloucestershire, tháng Tư năm 1964. Năm 1982 chuyển đến London và theo học violin tại Học viện Âm nhạc Hoàng gia. Thường đi hát rong vào cuối tuần, sau đó tham gia vào một ban nhạc có tên gọi là Green Sunday với bạn trai cũ Roger Milton. Ai ngờ cuối cùng Roger Milton lại trở thành hát chính của nhóm The Crows.”

Anh nhìn cô với ánh mắt đầy mong đợi.

Cô ngây người nhìn anh. “Nhóm đấy có nổi tiếng không?”

Anh đảo mắt. “Thôi bỏ đi,” anh tiếp tục. “Dù sao thì, cô ta chơi violin kiếm tiền mấy năm, rồi sau đó ứng tuyển cho một ban nhạc tên là Original Version. Cô ta bắt đầu quan hệ với một người đàn ông tên là Justin Redding, rồi đưa luôn ông này vào nhóm để chơi bộ gõ. Dựa theo những bài phỏng vấn thời đó thì cô ta là người thích kiểm soát. Không ai thích cô ta cả. Họ có một ca khúc thành công, dẫn đầu các bảng xếp hạng vào năm 1988, rồi sau đó phát hành thêm một đĩa đơn nữa với cô ta và Justin, nhưng khi ca khúc ấy đổ bể, cô ta đổ lỗi cho tất cả mọi người, nổi cơn tam bành rồi đùng đùng bỏ đi, kéo theo luôn cả Justin. Và đó là kết thúc của câu chuyện về cuộc đời Dunlop-Evers trên mạng Internet. Từ đó đến nay không có thêm thông tin gì nữa. Chỉ…” Anh dùng tay để diễn tả một vật rơi xuống từ trên vách đá.

“Thế còn cha mẹ cô ta thì sao?”

“Không có gì cả. Cô ta là một trong tám người con của một gia đình Công giáo giàu có. Tôi đoán là cha mẹ cô ta vẫn còn sống, ít nhất từ những gì tôi tìm thấy thì không có gì cho thấy là họ đã chết cả, và có cả tá những Dunlop-Evers nhí ngoài kia chơi đủ các loại nhạc cụ và điều hành các dịch vụ giao thức ăn thuần chay. Nhưng vì một lý do gì đấy, gia đình cô ta không để ý, hoặc có thể họ cũng chẳng quan tâm đến việc đứa con gái thứ tư của họ bốc hơi khỏi bề mặt Trái Đất này vào năm 1994.”

“Thế còn bạn trai của cô ta thì sao? Justin ấy?”

“Chẳng có gì cả. Có vài bài báo nhắc đến ông ta dưới danh nghĩa là nghệ sĩ chơi bộ gõ trong hai bài hát nổi tiếng của Original Version. Ngoài ra không có gì khác.”

Libby tạm dừng để tiếp thu tất cả những thông tin này. Làm sao người ta có thể sống ở bên lề xã hội được như thế? Làm sao không có ai để ý đến sự biến mất của họ?

Anh quay màn hình lại và bắt đầu gõ. “Và,” anh nói, “sau đó tôi bắt đầu lục đến ca của Phin. Tôi liên hệ với chủ nhà trên Airbnb, nói rằng tôi đang điều tra một vụ án giết người và cần tên của người cuối cùng thuê căn hộ đó. Anh ta rất sẵn lòng, rõ ràng là cũng phấn khích vì muốn được tham gia. Justin Redding.”

Libby giật mình quay lại nhìn anh. “Gì cơ?”

“Phin, dù tên thật của hắn là gì đi nữa, đã sử dụng tên bạn trai cũ của Birdie để đặt phòng Airbnb.”

“Ồ,” cô nói. “Wow.”

“Phải, đúng không?” Anh lại tiếp tục gõ thêm gì đó vào trong máy tính. “Và cuối cùng, nhưng tất nhiên cũng không kém phần quan trọng, hãy để tôi giới thiệu tới cô Sally Radlett.”

Anh lại quay màn hình về phía cô. Ở trên đấy cô thấy một người phụ nữ lớn tuổi, tóc trắng, cắt kiểu gáo dừa úp ngược, mắt xanh ngấn nước, đeo kính gọng sừng, miệng cười khẽ, xương quai xanh thấp thoáng, các góc mặt toát lên vẻ đẹp của thiên thần. Dưới ảnh của bà đăng dòng chữ, “Chuyên gia trị liệu và huấn luyện viên phong cách sống. Penreath, Cornwall”.

“Đúng địa chỉ. Đúng tuổi. Nhìn chung thì có vẻ nghề nghiệp cũng đúng nốt, cô biết đấy, chuyên gia trị liệu phong cách sống. Một trong những thứ nhảm nhí mà cô sẽ làm, đúng không? Nếu cô là Sally Thomsen?”

Anh nhìn cô, đắc thắng. “Cô nghĩ sao?” anh nói. “Có phải bà ta không?”

Cô nhún vai. “Vâng, cũng có thể. Tôi đoán thế.”

“Và đây là địa chỉ của bà ta.” Anh chỉ tay vào màn hình, và cô có thể thấy được câu hỏi tiếp theo hiện lên trong mắt của anh.

“Cô nghĩ chúng ta có nên đi không?”

“Có, tôi nghĩ chúng ta nên đi?”

“Khi nào?”

Miller rướn mày, mỉm cười, rồi bấm số vào điện thoại. Anh hắng giọng và nói, “Xin chào, cho hỏi đây có phải Sally Radlett không?”

Cô nghe thấy đầu dây bên kia trả lời vâng, đúng rồi ạ.

Rồi, cũng đột ngột như lúc anh gọi, Miller cúp máy. Anh nhìn Libby và nói, “Giờ sao?”

“Nhưng…” Cô chuẩn bị viện lý do tại sao giờ cô không thể đi cùng anh được, nhưng chợt nhớ ra là cô không có lý do nào cả. “Tôi cần đi tắm,” cô xoay xở.

Anh mỉm cười, quay màn hình máy tính lại phía mình và bắt đầu gõ. “Ở B&B?” anh nói. “Hay nhà nghỉ Premier Inn?”

“Premier Inn.”

“Tuyệt vời.” Chỉ với vài cú click chuột anh đã đặt hai phòng cho cả anh và cô ở Premier Inn Truro. “Cô có thể tắm ở đó.” Anh đóng màn hình lại và rút dây sạc máy tính ra, rồi cho vào trong bao đựng bằng nylon. “Sẵn sàng chưa?”

Cô đứng dậy, cảm thấy hứng thú một cách lạ lùng, trước viễn cảnh được chia sẻ tất cả những khoảnh khắc còn lại trong ngày với anh.

“Sẵn sàng.”