Chương 51
Hai tuần sau khi David thả tôi ra khỏi phòng, trên bàn ăn tối, ông ta thông báo em gái tôi đã có bầu. Con bé chỉ mới mười bốn tuổi.
Tôi thấy Clemency lùi xa khỏi em gái tôi, rụt người lại như thể bị bỏng dầu nóng. Tôi nhìn mặt mẹ tôi, ánh mắt trống rỗng, chết lặng, rõ ràng là bà đã biết trước chuyện này. Tôi nhìn Birdie. Cô ta nhìn tôi cười. Khi tôi thấy hàm răng bé tí của cô ta, tôi bốc hoả. Tôi nhảy qua bàn và lao vào người David. Tôi muốn cho ông ta một trận. Thật ra, tôi muốn giết ông ta thì đúng hơn. Đó là ý định của tôi.
Nhưng tôi thì nhỏ người, còn David thì to con, và tất nhiên Birdie cố nhảy vào giữa để can chúng tôi, và bằng một cách nào đó tôi bị kéo ra và đẩy về chỗ cũ. Tôi nhìn em gái tôi, nhìn nụ cười kỳ lạ nở trên môi con bé. Tôi không thể tin là tôi lại không dự đoán trước được điều này, không thể tưởng tượng nổi đứa em gái ngu ngốc của tôi lại mắc vào bẫy của David, và giờ David trong mắt nó cũng giống David trong mắt mẹ tôi và David trong mắt Birdie. Cũng giống họ, có lẽ nó cảm thấy tự hào vì David đã chọn nó, và tự hào khi được mang trong mình giọt máu của ông ta.
Và rồi tôi nhận ra.
David không chỉ muốn lấy tiền của gia đình chúng tôi. David còn muốn chiếm cả ngôi nhà.
Và đó là tất cả những gì ông ta muốn kể từ ngày đầu tiên ông ta bước chân vào ngôi nhà này. Có con với em gái tôi sẽ giúp ông ta đảm bảo được mình cũng sẽ có phần trong đó.
Ngày hôm sau tôi vào phòng của cha mẹ tôi. Tôi mở thùng các-tông đựng những món đồ có giá trị, nhưng giờ tất cả đều trống rỗng, cũng giống như đồ nội thất, chúng đã bị đem đi cho hết. Tôi cảm thấy cha tôi đang nhìn tôi.
“Cha ơi,” tôi nói, “bản di chúc của cha ở đâu? Bản di chúc nói về điều gì sẽ xảy ra với ngôi nhà này sau khi cha mất ấy?”
Tôi cảm nhận được ông đang cố phát ra từ gì đó ở trong cuống họng. Ông nhếch miệng lên được một hoặc hai milimét. Tôi tiến lại gần ông hơn. “Cha! Cha có biết không? Cha có biết giấy tờ ở đâu không?”
Ánh mắt ông chuyển từ khuôn mặt tôi sang cánh cửa phòng.
“Nó ở đó ạ?” Tôi hỏi. “Giấy tờ ở đó ạ?”
Ông nháy mắt.
Thỉnh thoảng khi được đút cho ăn ông cũng hay làm như thế. Nếu mẹ tôi nói, “Có ngon không, anh yêu?” ông sẽ nháy mắt và mẹ tôi sẽ nói, “Tốt. Tốt,” rồi đút cho ông thêm một thìa đầy nữa.
“Phòng nào ạ?” tôi hỏi. “Phòng nào vậy cha?”
Tôi nhìn thấy mắt ông di chuyển một chút sang bên trái. Về phía phòng của David và Birdie.
“Ở trong phòng của David ạ?”
Ông nháy mắt.
Trái tim tôi chùng xuống.
Tôi không thể vào phòng của David và Birdie được. Đầu tiên là lúc nào cửa phòng họ cũng khóa. Mà kể cả không thế đi chăng nữa, nếu bị bắt thì hậu quả của việc lẻn trộm vào phòng là rất khôn lường.
Một lần nữa tôi lại nhờ đến sự trợ giúp của cuốn sách thần chú rất hữu dụng mà Justin để lại.
“Thần chú gây mê tạm thời.”
Điều đó nghe có vẻ như chính xác là thứ mà tôi đang cần. Câu thần chú hứa hẹn sẽ khiến nạn nhân cảm thấy lơ mơ và buồn ngủ trong chốc lát, “một cảm giác tạm quên nho nhỏ và khó nhận ra”.
Thành phần của nó bao gồm cây bóng đêm chết chóc, Atropa belladonna, một loại độc dược mà Justin đã kể với tôi từ nhiều tháng trước. Tôi đã bí mật trồng nó, sau khi tôi tìm thấy hạt của cây này trong ngăn tủ bào chế thuốc của Justin. Tôi đã ngâm hạt trong tủ lạnh được hai tuần. Tôi nói với người lớn là tôi đang thí nghiệm loại thảo dược mới để giúp Phin bớt buồn chán.
Sau đó tôi mang hạt ra vườn và trồng chúng vào hai cái chậu lớn. Phải mất ba tuần hạt mới nảy mầm, và lần cuối tôi ra kiểm tra cây đã trổ hoa. Dựa theo tài liệu hướng dẫn, Atropa belladonna rất khó trồng, nên tôi cảm thấy vô cùng hài lòng về bản thân khi nụ hoa tím đầu tiên trổ bông. Giờ thì tôi lẻn ra vườn và hái một vài nhánh, nhét vào trong cạp quần, rồi nhanh chóng chạy lên nhà. Trong phòng tôi chế một loại thuốc với lá cúc La Mã, pha với đường và nước. Đáng lẽ ra công thức còn cần thêm hai sợi lông từ lưng của một con mèo vàng và hơi thở từ miệng của một bà già, nhưng tôi là dược sĩ, không phải là phù thủy.
Món trà thảo mộc của tôi rất được ưa chuộng. Tôi nói với David và Birdie rằng tôi đang thí nghiệm một công thức pha chế mới gồm cúc La Mã và lá cây mâm xôi. Họ nhìn tôi âu yếm và nói rằng nghe có vẻ ngon đấy.
Tôi xin lỗi Birdie khi cô ta uống trà và nói nó có thể hơi ngọt; tôi nói với cô ta rằng tôi chỉ cho một xíu mật ong thôi, để làm trung hòa vị đắng của lá cây mâm xôi. Câu thần chú đã chỉ định rằng mỗi người phải uống ít nhất nửa cốc. Thế là tôi ngồi và nhìn họ uống với ánh mắt trìu mến, như thể tôi đã cố lấy lòng họ, để họ tiếp tục uống, dù họ có thích vị trà tôi pha hay không.
Nhưng họ thích vị đó, và cả hai uống hết một cốc.
“Chà,” một lúc sau Birdie nói khi chúng tôi rửa cốc và cất cốc đi. “Loại trà cháu pha làm cô cảm thấy siêu, siêu thư giãn, Henry ạ. Cô cảm thấy như cô có thể… Thực ra…” Tôi thấy mắt cô ta hơi ríu lại. “Có khi cô phải đi ngủ đây.”
Giờ tôi thấy David cũng đang phải cố lắm để giữ cho hai mắt ông ta không díp chặt, “Ừ,” ông ta nói. “Có khi phải đi chợp mắt một chút.”
“Thôi đây,” tôi nói, “để cháu giúp hai người. Chúa ơi, cháu rất xin lỗi. Chắc cháu lại cho hơi nhiều cúc La Mã vào trong trà ấy mà. Đây, đây.” Tôi để Birdie bám lấy tay tôi.
Cô ta áp má vào vai tôi và nói, “Cô rất thích trà cháu pha, Henry ạ. Cốc trà ngon nhất mà cô từng uống.”
“Trà rất, rất ngon.” David đồng ý.
David lần mò tìm chìa khóa phòng trong túi áo choàng. Khi ông ta tìm chìa khóa, tôi thấy dưới lớp áo ông ta có đeo một chiếc túi đeo chéo ở bên trong. Tôi đoán chắc đây là chiếc túi mà ông ta đựng chìa khóa của tất cả các phòng trong nhà. Giờ thì ông ta đang chật vật để đút chìa khóa vào trong ổ, nên tôi giúp ông ta. Sau đó tôi đưa cả hai lên giường, và ngay lập tức họ chìm vào một giấc ngủ sâu.
Tôi đứng ở đó. Trong phòng của David và Birdie. Đã mấy năm rồi tôi chưa đặt chân vào căn phòng này, kể từ khi David và Sally vẫn ở bên nhau.
Tôi nhìn quanh và cảm thấy khó có tiếp thu hết nổi những gì tôi đang nhìn thấy. Hàng chồng thùng các-tông chất đống lên nhau, nhìn qua kẽ hở tôi thấy có vẻ như bên trong đựng sách vở, quần áo, đồ đạc, những đồ đạc mà chúng tôi vẫn được dạy là xấu xa và tồi tệ. Tôi nhìn thấy có hai đôi giày ở trong góc phòng, một đôi của ông ta và một đôi của cô ả. Tôi nhìn thấy một chai rượu đang uống dở, nút chai bằng vỏ cây đã được thay thế bằng nút chai khác, một cái ly dưới đáy có dính chất gì đó sẫm màu, và vài chai rượu whiskey đắt tiền của cha tôi. Tôi nhìn thấy một hộp bánh bích quy, vỏ của một thanh kẹo Mars. Tôi nhìn thấy một chiếc quần lót lụa và một chai dầu gội đầu Elvive.
Nhưng giờ tôi sẽ lờ đi hết. Tôi không biết trạng thái “gây mê tạm thời” này sẽ kéo dài trong bao lâu. Tôi cần tìm giấy tờ của cha tôi và đi ra khỏi đây.
Khi tay tôi lướt qua những chiếc hộp, tôi bắt gặp hộp bút chì cũ của tôi. Tôi chưa được nhìn thấy nó kể từ ngày cuối cùng tôi đến trường tiểu học. Tôi vội ôm nó trên tay và nhìn nó chằm chằm như thể chiếc hộp bút này là di tích của một nền văn minh khác. Tôi thoáng nghĩ về cậu bé mặc chiếc quần knickerbocker màu nâu năm nào. Cậu cố tình trốn buổi học cuối cùng, cằm cậu thì vênh lên tự đắc khi tưởng tượng một thế giới mới sắp được mở ra trước mắt. Tôi kéo khóa hộp bút, hít hà mùi của vỏ bút chì và sự ngây thơ, sau đó tôi giắt nó vào trong cạp quần, để mang vào trong phòng giấu.
Tôi tìm thấy một chiếc váy dạ hội của mẹ tôi. Tôi tìm thấy những khẩu súng ngắn của cha tôi. Tôi tìm thấy chiếc áo nịt và váy xòe ba lê của em gái tôi, và lý do tại sao đến giờ nó vẫn được giữ ở đây thì tôi không hiểu nổi.
Và rồi, trong chiếc hộp thứ ba, tôi tìm thấy giấy tờ của cha tôi: trong hộp đựng tài liệu màu xám cẩm thạch, cùng những chiếc kẹp kim loại xấu hoắc. Tôi lấy một tệp có nhãn “Việc Gia Đình” và giở qua để xem nội dung.
Đây rồi, bản chúc thư và di chúc cuối cùng của Henry Roger Lamb và Martina Zeynep Lamb. Tôi lại nhét tập giấy vào trong cạp quần bó. Về phòng rồi tôi sẽ đọc sau. Tôi nghe thấy tiếng Birdie thở gấp và thấy chân cô ta hơi co lại. Tôi vội lôi một cái hộp nữa về phía mình. Trong đây tôi thấy có mấy cuốn hộ chiếu. Tôi nhặt chúng lên và giở trang cuối ra: hộ chiếu của tôi, của em gái tôi, của cha mẹ tôi. Tôi cảm thấy lửa giận bắt đầu bùng lên trong tôi. Hộ chiếu của chúng tôi! Người đàn ông này đã lấy đi hộ chiếu của chúng tôi! Việc này còn ác hơn cả chuyện ông ta nhốt chúng tôi lại trong chính căn nhà của mình. Ăn cắp hộ chiếu của một người khác, cũng chính là cướp đi phương tiện để họ chạy trốn, phiêu lưu, khám phá, học hỏi và tận dụng tất cả những cơ hội mà thế giới này có thể mang lại. Tim tôi lồng lên vì quá tức giận. Tôi để ý thấy hộ chiếu của tôi đã hết hạn, của em gái tôi thì còn sáu tháng nữa. Nhưng giờ thì cũng đâu có tác dụng gì.
Tôi nghe thấy tiếng David khẽ lầm bầm.
Sự gây mê tạm thời có vẻ như hơi tạm thời quá và tôi không chắc tôi có thể thuyết phục họ uống loại “trà mới” đặc biệt mà tôi pha một lần nữa hay không. Có lẽ đây sẽ là cơ hội duy nhất mà tôi có được để khám phá những bí mật bị chôn vùi trong căn phòng này.
Tôi tìm thấy một gói nhỏ đựng paracetamol. Một gói kẹo ho. Một hộp bao cao su. Và ở dưới tất cả những thứ này, tôi tìm thấy một đống tiền mặt. Tôi lướt ngón tay xuống hai bên của chồng tiền. Những tờ tiền kêu soàn soạt rất sướng tai, có vẻ như chỗ này cũng khá nhiều. Một nghìn bảng chăng, tôi đoán thế. Có khi còn nhiều hơn? Tôi lấy một vài tờ mười bảng ở trên cùng, gấp lại và nhét vào chỗ giấy tờ tôi đã giấu sẵn trong cạp quần bằng thun co giãn của tôi.
Birdie rên rỉ.
David rên rỉ.
Tôi đứng dậy, kẹp chặt bản di chúc của cha tôi, hộp bút chì của tôi và năm tờ mười bảng ở dưới bụng.
Tôi nhón chân ra khỏi phòng, khẽ đóng cánh cửa đằng sau tôi lại.