← Quay lại trang sách

Chương 50

Mẹ tôi không bao giờ hồi phục hoàn toàn từ sau khi mất đứa bé.

Bà dần dần rút lui ra khỏi cuộc sống trong nhà. Bà cũng rút lui ra khỏi David. Bà bắt đầu dành nhiều thời gian hơn với cha tôi, cả hai người họ ngồi bên nhau trong im lặng.

Tất nhiên tôi cảm thấy mình phải chịu trách nhiệm hoàn toàn cho sự bất hạnh của mẹ. Tôi cố gắng sửa lỗi bằng cách pha chế những bài thuốc có tác dụng chữa khỏi bệnh u sầu mà tôi học được từ mấy quyển sách của Justin. Nhưng bà gần như không ăn uống được gì, nên tôi có cố gắng đến đâu cũng hầu như vô ích.

Có vẻ như David cũng đã từ bỏ bà ấy. Tôi cảm thấy ngạc nhiên. Tôi đã lầm tưởng rằng ông ta sẽ chăm sóc bà, giúp bà nhanh chóng hồi phục. Nhưng ông ta giữ khoảng cách với mẹ tôi, gần như lạnh lùng.

Một ngày, không lâu sau khi mẹ tôi mất đứa bé, tôi hỏi David, “Tại sao bác không nói chuyện với mẹ cháu nữa?”

Ông ta nhìn tôi, thở dài. “Mẹ cháu đang hồi phục. Để làm được điều đó, mẹ cháu cần tự đi theo con đường của riêng mình.”

Con đường của riêng mình.

Tôi cảm thấy máu trong người tôi bắt đầu sôi lên. “Cháu không nghĩ là mẹ cháu đang hồi phục,” tôi trả lời. “Cháu nghĩ mẹ cháu đang yếu dần. Và còn cha cháu thì sao? Chẳng lẽ ông ấy lại không nhận được bất cứ sự chăm sóc nào sao? Một vài liệu pháp điều trị? Cả ngày ông ấy chỉ ngồi ở trên ghế. Biết đâu ở ngoài kia có ai đó có thể giúp được ông ấy thì sao. Biết đâu có phương pháp nào đó. Biết đâu ngay cả sốc điện hay cái gì đại loại như thế có thể giúp được. Biết đâu đã có rất nhiều tiến bộ y tế để giúp các bệnh nhân đột quỵ hồi phục mà chúng ta không biết tới vì tất cả chúng ta bị mắc kẹt ở đây…” Tôi bắt đầu lớn tiếng, và ngay khi từ ngữ bắt đầu tuôn ra khỏi miệng tôi, tôi biết mình đã rơi vào thế xấu. Thế rồi cái gì tới cũng tới, một bàn tay lạnh thình lình đập mạnh vào quai hàm của tôi.

Tôi nếm được mùi tanh như kim loại từ máu ở bên trong miệng tôi, cảm thấy môi tôi đang tê đi dần. Tôi chạm ngón tay vào máu trên môi tôi, và nhìn David với ánh mắt kinh hãi.

Ông ta nhìn tôi chằm chằm, ánh mắt như muốn ghìm tôi xuống, hai vai ông ta gồng lên đến tận tai, tĩnh mạch nổi lên hai bên thái dương. Thật khó có thể tin được rằng từ một người đàn ông duy tâm, trầm tính, hắn có thể biến thành một con quái vật hung hãn nhanh chóng đến như thế. “Mày không có quyền gì để mà nói về những chuyện này,” ông ta gầm lên. “Mày không biết một cái gì hết. Mày không khác gì một đứa trẻ sơ sinh.”

“Nhưng ông ấy là cha tôi. Và từ khi ông bước vào nhà tôi, ông đối xử với ông ấy như cứt vậy!”

Bàn tay ông ta quay trở lại, lần này đáp vào phía bên kia mặt tôi. Tôi luôn biết rằng chuyện này sẽ xảy ra. Kể từ lần đầu tiên gặp ông ta, tôi đã biết là David Thomsen sẽ tấn công nếu tôi dám đối đầu với ông ta. Và cuối cùng thì ngày ấy cũng đến.

“Ông đã huỷ hoại mọi thứ,” tôi nói, cảm xúc dâng trào, giờ tôi chẳng còn gì để mất. “Ông nghĩ là ông rất quyền lực và quan trọng nhưng thật ra không phải thế! Ông chỉ là một kẻ bắt nạt mà thôi! Ông bước vào nhà tôi và ông bắt nạt tất cả mọi người, để tất cả chúng tôi phải nghe theo lệnh của ông. Và rồi ông làm mẹ tôi có bầu, và giờ bà ấy đang rất đau khổ nhưng ông không thèm quan tâm, ông không thèm quan tâm một tí nào. Bởi vì ông chỉ quan tâm đến bản thân ông thôi!”

Lần này ông ta đánh tôi mạnh đến nỗi tôi ngã xuống sàn.

“Đứng dậy!” ông ta hét lên. “Đứng dậy và đi vào trong phòng mày. Mày sẽ bị cấm túc một tuần.”

“Ông định nhốt tôi lại ư?” tôi nói. “Vì tôi dám nói chuyện với ông? Vì tôi dám nói lên những gì tôi thấy à?”

“Không,” ông ta gầm gừ. “Tao nhốt mày lại là bởi vì tao không thể nhìn nổi mày. Mày làm tao ghê tởm. Còn giờ, mày có muốn tự đi lên không, hay để tao phải kéo mày lên? Chọn đi!”

Tôi đứng dậy và tôi chạy. Nhưng tôi không chạy lên lầu, tôi chạy ra cửa chính. Tôi xoay tay nắm cửa rồi kéo, và tôi đã sẵn sàng, sẵn sàng để phi ngay ra ngoài, ra hiệu cho một người lạ dừng lại và cầu cứu, Xin Chúa hãy giúp lấy chúng con, chúng con bị mắc kẹt trong nhà với một kẻ vĩ cuồng. Chúa làm ơn hãy giúp chúng con! Nhưng cửa đã bị khóa.

Làm sao mà tôi lại không biết cơ chứ? Tôi ra sức kéo, rồi quay lại nhìn ông ta và nói, “Ông đã nhốt chúng tôi lại!”

“Không,” ông ta bảo. “Chỉ là cửa đã bị khóa. Hai điều này hoàn toàn không giống nhau. Giờ, chúng ta đi chứ?”

Tôi giậm chân thình thịch từ chân cầu thang đằng sau cho đến tầng áp mái, David đi theo sau.

Tôi nghe thấy tiếng cửa phòng tôi bị khóa. Tôi gào thét thảm hại như một đứa trẻ đã lớn đầu mà còn khóc nhè.

Tôi nghe thấy tiếng Phin hét lên từ bên kia bức tường phòng của cậu ấy: “Câm mồm đi! Im đi!”

Tôi gào lên gọi mẹ tôi nhưng bà không tới.

Chẳng ai tới cả.

Đêm hôm đó mặt tôi đau nhức vì bị David đánh, còn dạ dày của tôi thì réo lên cồn cào. Tôi không ngủ được, nên chỉ nằm thức ngắm những đám mây trôi qua mặt trăng, ngắm bóng của những con chim đậu trên cành, lắng nghe tiếng ngôi nhà hết kêu cọt kẹt lại thở hổn hển.

Tôi nghĩ tuần sau đó tôi đã phát điên. Tôi lấy móng tay cào lên tường cho đến khi móng tay tôi chảy máu. Tôi đập đầu vào tường. Tôi gầm lên như thú. Tôi nhìn thấy những thứ không có thật. Tôi nghĩ David tưởng là sau thời gian bị giam giữ, tôi sẽ chịu khuất phục và sẵn sàng bắt đầu lại từ đầu. Nhưng ông ta đã nhầm.

Một tuần sau, khi cửa phòng tôi mở và tôi lại được đi lại trong nhà, tôi không hề cảm thấy bị khuất phục. Tôi cảm thấy như mình đã bị nuốt chửng bởi một cơn thịnh nộ khổng lồ, nhưng chính đáng. Tôi sẽ kết liễu David, một lần cho mãi mãi.

Khi tôi lấy lại được tự do, tôi cảm thấy bầu không khí trong nhà có gì đó khác lạ. Một bí mật lớn đang phảng phất giữa không trung, cuốn theo cùng những hạt bụi và những tia nắng, kẹt lại ở giữa những sợi tơ nhện trong góc nhà.

Buổi sáng đầu tiên sau khi được thả ra khỏi phòng, tôi ngồi xuống bàn ăn sáng với mọi người, và quay sang hỏi Phin, “Có chuyện gì thế? Sao thái độ mọi người lạ vậy?”

Phin nhún vai và đáp, “Chẳng phải lúc nào thái độ mọi người cũng lạ sao?”

Tôi nói, “Không. Lạ hơn bình thường. Như thể có chuyện gì đó đang xảy ra vậy.”

Tới thời điểm này, tôi có thể thấy rõ là Phin không được khỏe. Da của cậu ấy từng rất mịn màng, không một khuyết điểm, giờ trông xám xịt và loang lổ. Tóc cậu ấy bết lại và rũ sang một bên. Và người cậu ấy có mùi gì đấy hơi ngai ngái, chua chua.

Tôi đề cập vấn đề này với Birdie. “Có vẻ Phin đang bị ốm,” tôi nói.

Cô ta cáu kỉnh đáp, “Phin chẳng làm sao hết. Phin chỉ cần tập thể dục thêm thôi.”

Qua cánh cửa phòng tập, tôi nghe thấy tiếng cha Phin đôn đốc cậu ấy, yêu cầu cậu ấy cần phải cố gắng hơn. “Thêm nữa nào, con có thể làm được. Đẩy về phía sau. Đẩy mạnh về phía sau. Thôi nào! Con chẳng cố chút nào cả.” Và sau đó tôi nhìn thấy Phin rời khỏi phòng thể dục với vẻ uể oải và khổ sở, chậm rãi lết lên tầng áp mái, như thể chỉ bước đi thôi cũng đủ để làm cậu ấy đau.

Tôi nói, “Cậu nên đi ra vườn với tớ. Ra ngoài thở khí trời cậu sẽ thấy khỏe hơn.”

Cậu nói, “Tôi không muốn đi bất cứ đâu với cậu.”

“Cậu không cần phải đi với tớ. Cậu đi ra vườn một mình cũng được.”

“Cậu không thấy à?” Phin nói. “Chẳng có cái gì trong ngôi nhà này có thể khiến tôi cảm thấy khỏe được cả. Điều duy nhất giúp tôi khỏe trở lại đó là không ở trong cái nhà này nữa. Tôi cần phải ra khỏi đây. Tôi cần phải”, Phin nói, ánh mắt cậu xoáy sâu vào mắt tôi, “ra khỏi đây.”

Tôi cảm thấy chính căn nhà này cũng đang chết dần. Đầu tiên là cha tôi lụi dần đi, sau đó đến mẹ tôi, và giờ đến Phin. Justin đã bỏ chúng tôi mà đi. Đứa bé thì đã chết. Thực sự tôi không biết sống ở đây vì mục đích gì nữa.

Và rồi một buổi chiều tôi nghe thấy tiếng cười cất lên từ dưới cầu thang. Tôi nhìn xuống hành lang và thấy David cùng Birdie đi ra từ phòng tập thể dục. Cả hai đều khỏe mạnh rạng rỡ. David vòng tay qua vai Birdie và ôm cô ta vào lòng, hôn lên môi cô ta một tiếng moa bệnh hoạn. Chính bọn họ; tôi biết rất rõ. Chính bọn họ là những kẻ đã bòn rút ngôi nhà này, như những con ma cà rồng, hút kiệt tất cả những năng lượng tử tế, tất cả tình yêu, tất cả sự sống, tất cả sự tốt đẹp, hút kiệt tất cả mọi thứ cho mình, hưởng thụ trên sự khốn khổ và suy sụp tinh thần của chúng tôi.

Sau đó tôi nhìn xung quanh, tất cả những gì tôi thấy là những bức tường trơ trọi, trên đó ngày xưa đã treo không biết bao nhiêu bức tranh sơn dầu, ở những góc trống, gia đình tôi đã trưng bày nhiều món nội thất cao cấp. Tôi nhớ về chiếc đèn chùm lấp lánh trong ánh nắng mặt trời. Vàng, bạc và đồng thau sáng loáng trên mọi bề mặt. Tôi nhớ về tủ quần áo hàng hiệu và những chiếc túi xách của mẹ tôi, những chiếc nhẫn tô điểm cho ngón tay của bà, những đôi khuyên tai bằng kim cương và mặt dây chuyền bằng đá sapphire. Giờ thì tất cả đã biến mất. Tất cả được mang đi để ủng hộ cho cái gọi là “từ thiện”, để giúp “những người nghèo”. Tôi ước tính giá trị của những món tài sản đã mất. Phải đến hàng nghìn bảng Anh, tôi đoán thế. Hàng nghìn bảng Anh.

Rồi tôi lại nhìn xuống David, tay ông ta vẫn quấn lấy Birdie, hai người nhìn rất tự do tự tại, không phải chịu bất cứ áp lực nào từ những gì đang diễn ra trong ngôi nhà này. Và tôi nghĩ: David Thomsen, ông không phải đấng cứu thế, đạo sư hay thần thánh. Ông không phải là nhà hảo tâm, cũng không phải mạnh thường quân. Ông không phải là một người theo đạo. Ông là một kẻ tội phạm. Ông đến và ông cướp bóc của cải nhà tôi. Và ông cũng chẳng phải là người giàu lòng trắc ẩn. Nếu ông có lòng trắc ẩn, bây giờ ông đã ở bên cạnh mẹ tôi khi bà ấy đang đau khổ vì mất đi đứa con của mình. Ông đã giúp cha tôi tìm cách thoát ra khỏi cái địa ngục trần gian này. Ông đã đưa con trai ông đến bác sĩ. Ông đã không đứng đây cười đùa với Birdie. Ông cũng sẽ cảm thấy ưu phiền bởi nỗi bất hạnh của những người khác. Và nếu ông không có lòng trắc ẩn, thì chẳng đời nào ông lại quyên góp tiền ủng hộ cho người nghèo. Ông sẽ giữ hết tiền cho riêng mình. Và đó hẳn là cái “ngân quỹ đen” mà mấy năm trước Phin đã kể cho tôi. Nếu đúng như vậy, thì cái ngân quỹ đó ở đâu? Và ông định làm gì với nó?