Chương 53
Tôi đến gặp mẹ sau khi David thông báo em gái tôi có bầu, và tôi nói, “Mẹ để cho con gái của mẹ quan hệ tình dục với một người đàn ông bằng tuổi mẹ. Điều đó thật bệnh hoạn.”
Bà chỉ đáp lại, “Không liên quan gì đến mẹ hết. Tất cả những gì mẹ biết là một em bé sắp chào đời và tất cả chúng ta nên cảm thấy hạnh phúc.”
Cho đến tận bây giờ, chưa bao giờ tôi cảm thấy hoàn toàn cô độc như lúc ấy. Tôi không còn cả cha lẫn mẹ nữa. Chúng tôi không có khách tới thăm nhà nữa. Chuông cửa không bao giờ reo. Đường dây điện thoại đã bị ngắt kết nối từ mấy tháng trước. Đã có thời gian, mấy ngày sau khi mẹ tôi mất đứa bé, có ai đó đã đến nhà tôi mỗi ngày, và đập cửa ba mươi phút liên tục, trong suốt gần một tuần liền. Chúng tôi bị nhốt trong phòng khi người đó đập cửa. Sau này mẹ tôi cho chúng tôi biết đó là anh trai của bà, bác Karl của tôi. Tôi thích bác Karl. Ông là kiểu người trẻ trung huyên náo, hay ném bọn trẻ con vào bể bơi, và nói những câu đùa khiếm nhã, khiến tất cả những người lớn khác phải tặc lưỡi. Lần cuối chúng tôi nhìn thấy bác là trong đám cưới của bác ở Hamburg, khi tôi khoảng mười tuổi. Bác mặc bộ suit ba mảnh in hoa. Nghĩ đến việc bác Karl đã đứng trước cửa nhà tôi nhưng chúng tôi lại không cho bác vào khiến một phần trái tim tôi tan vỡ. “Nhưng tại sao ạ?” tôi hỏi mẹ. “Sao chúng ta lại không cho bác ấy vào?”
Tôi bắt gặp Clemency trong nhà bếp vào một buổi chiều sau khi David thông báo em gái tôi có thai.
“Em đã biết trước rồi à?” tôi hỏi.
Mặt con bé đỏ lên một chút, vì rõ ràng là trong mấy năm vừa qua chúng tôi hiếm có khi nào nói chuyện, và giờ chúng tôi lại đang đề cập đến việc bạn thân nhất của nó đi ngủ với cha nó.
Nó nói, “Không. Em không biết.”
“Nhưng hai đứa thân thế cơ mà. Làm sao em lại không biết được cơ chứ?”
Con bé nhún vai. “Em chỉ nghĩ là họ tập thể dục cùng nhau.”
“Thế em nghĩ thế nào về chuyện ấy?”
“Em thấy kinh tởm.”
Tôi gật đầu liên tục, để nói với con bé rằng tốt, chúng ta có chung suy nghĩ.
“Vậy trước đấy cha em đã làm chuyện gì như thế này chưa?”
“Ý anh là…”
“Mấy đứa bé ấy. Trước đấy ông ta đã làm ai có bầu bao giờ chưa?”
“Ồ,” con bé khẽ nói. “Chưa. Chỉ có mẹ em thôi.”
Tôi bảo con bé lên phòng tôi và phút đầu tiên trông nó có vẻ sợ hãi, và điều đó làm tôi thấy bị tổn thương, nhưng rồi tôi thấy thế cũng tốt. Nếu tôi chuẩn bị lật đổ David và đưa được tất cả bọn tôi ra khỏi căn nhà này, thì nó thấy sợ cũng là điều dễ hiểu.
Ở trong phòng, tôi kéo đệm ra khỏi tường và lấy ra những món đồ tôi đã tìm thấy trong phòng của David và Birdie. Tôi rải chúng ra giữa sàn để cho con bé xem. Tôi nói với con bé rằng tôi đã tìm thấy chúng ở đâu.
“Nhưng làm sao mà anh vào trong đấy được?” nó hỏi.
“Anh không nói với em được,” tôi đáp.
Tôi thấy có chút gì đó bối rối chảy xuyên qua người con bé khi nó nhìn những vật dụng tôi bày ra sàn. “Hộp bút chì của anh đây à?”
“Ừ. Hộp bút chì của anh. Và còn có rất nhiều thứ đồ khác.” Tôi kể với con bé về chiếc quần lót bằng lụa, mấy chai rượu whiskey và một đống tiền mặt. Khi tôi kể cho con bé nghe, tôi có thể thấy là tôi đang khiến trái tim nó tan nát. Cảm giác này giống như ngày tôi kể với Phin về chuyện nhìn thấy cha cậu hôn Birdie. Tôi quên mất rằng tôi đang kể với một đứa trẻ về cha của nó, rằng giữa họ có những chuỗi phân tử di truyền bám sâu, những ký ức, những kết nối, rằng những lời tôi nói có thể xé nát trái tim của họ.
“Vậy là từ trước tới nay ông ấy đã nói dối chúng ta!” Con bé nói, đoạn lấy mu bàn tay dụi mắt. “Em cứ tưởng là chúng ta làm tất cả những việc này vì người nghèo. Em không hiểu! Em không hiểu!”
Tôi nhìn thẳng vào mắt con bé. “Đơn giản thôi,” tôi nói. “Cha em đã lấy hết tất cả mọi thứ có giá trị từ cha mẹ anh, và giờ ông ta muốn chiếm căn nhà này. Về mặt pháp lý, ngôi nhà này được đặt vào quỹ ủy thác cho anh và em gái anh cho đến khi bọn anh hai mươi lăm tuổi. Nhưng nhìn này.” Tôi cho con bé xem bản di chúc tôi lấy từ trong hộp ra. Nó có thêm một điều khoản bổ sung bằng chữ viết tay của David. Trong trường hợp cha mẹ tôi qua đời, ông ta tuyên bố bằng thứ ngôn từ pháp lý lố bịch, căn nhà giờ sẽ được chuyển giao cho David Sebastian Thomsen và con cháu của ông ta. Bản bổ sung di chúc này đã được mẹ tôi và Birdie chứng kiến và tiếp ký. Nếu mang ra tòa thì chắc đếch ai tin, nhưng ý định của ông ta thì đã rõ.
“Và ông ta muốn có một đứa con để đảm bảo mình cũng sẽ có phần trong căn nhà này.”
Clemency im lặng một lúc. Rồi con bé nói, “Chúng ta nên làm gì bây giờ?”
“Anh cũng chưa biết,” tôi nói, tay xoa xoa cằm như thể tôi có râu giống các nhà thông thái, nhưng tất nhiên là tôi không có. Phải đến tận những năm hai mươi tuổi tôi mới để râu, mà kể cả lúc đó nhìn râu của tôi cũng không được ấn tượng cho lắm. “Nhưng chúng ta sẽ phải làm gì đó.”
Con bé nhìn tôi, mắt mở to. “Được.”
“Nhưng,” tôi nói chắc nịch, “em phải hứa đây là bí mật giữa hai chúng ta.” Tôi chỉ tay vào những đồ vật mà tôi đã thó được từ phòng của David và Birdie. “Đừng nói với anh trai em. Mà cũng đừng nói với em gái anh. Đừng nói với ai cả. Được chứ?”
Con bé gật đầu. “Em hứa.” Con bé im lặng trong một phút, rồi ngẩng lên nhìn tôi và nói, “Ông ấy từng làm thế này rồi.”
“Gì cơ?”
Clemency nhìn xuống đùi. “Cha em đã cố ép bà của ông ấy ký tên chuyển nhượng căn nhà cho ông ấy. Khi bà già và lẫn. Chú em phát hiện ra và đuổi cả nhà em đi. Đó là khi gia đình em chuyển đến Pháp.” Con bé ngước lên nhìn tôi. “Anh nghĩ mình có nên gọi cảnh sát không?” Nó hỏi. “Kể cho họ biết ông ta đã làm gì?”
“Không,” tôi phản đối ngay lập tức. “Không. Bởi vì, thực sự, ông ta có phạm luật đâu, đúng không? Cái chúng ta cần là một kế hoạch. Chúng ta cần ra khỏi đây. Em sẽ giúp anh chứ?”
Con bé gật đầu.
“Em sẵn sàng làm bất kỳ điều gì chứ?”
Con bé lại gật đầu lần nữa.
Thực sự chúng tôi đang ở giữa ngã ba đường. Nhìn lại, có rất nhiều cách để chúng tôi vượt qua những cú sốc tinh thần từ chuyện này, nhưng vì tất cả những người tôi yêu nhất đã quay lưng lại với tôi, nên tôi đã chọn phương án tệ nhất có thể.