Chương 54
Mười phút sau, Libby và Miller rời văn phòng của Sally.
“Cô ổn không?” anh hỏi cô khi họ bước ra cái nóng oi ả.
Cô cố gượng cười, nhưng sau đấy cô nhận ra là cô sắp khóc và cô không thể ngăn nổi mình lại.
“Ôi Chúa ơi,” Miller nói. “Ôi trời. Thôi nào, thôi nào.” Anh dắt cô đến một cái sân nhỏ yên tĩnh và cả hai ngồi xuống băng ghế dưới gốc cây. Anh sờ túi quần áo. “Không có khăn giấy rồi, xin lỗi nhé.”
“Không sao,” cô nói. “Tôi có khăn giấy.”
Cô lấy gói khăn giấy du lịch từ trong túi ra và Miller mỉm cười.
“Cô đúng là kiểu người đi đâu cũng sẽ mang một gói khăn giấy du lịch đi theo.”
Cô nhìn anh chằm chằm. “Ý anh là gì?”
“Ý tôi là… ý tôi là…” nét mặt anh giãn ra. “Không có gì cả,” anh nói. “Ý tôi là cô sống rất có tổ chức. Thế thôi.”
Cô gật đầu. Riêng cái này thì cô biết. “Tôi phải như thế,” cô nói.
“Và tại sao lại như vậy?” anh hỏi.
Cô nhún vai. Tính cô không thích nói chuyện riêng tư. Nhưng với những gì họ đã trải qua trong hai ngày gần đây, cô cảm giác những giới hạn mà cô vẫn tự đặt ra cho sở thích trò chuyện thông thường đã bị phá vỡ.
Cô nói, “Mẹ tôi. Mẹ nuôi của tôi. Bà ấy hơi, biết nói thế nào nhỉ, hơi lộn xộn. Rất, rất, rất đáng yêu. Nhưng chính cha tôi là người giúp bà ấy sắp xếp mọi thứ. Nhưng ông mất năm tôi tám tuổi và sau đó… tôi lúc nào cũng muộn. Tôi không bao giờ mang đủ đồ tới trường. Tôi còn không đưa cho bà ấy xem thông báo về những chuyến đi dã ngoại hay những thứ đại loại thế vì cũng chẳng có ích gì. Bà ấy đặt vé đi nghỉ dưỡng ở Tây Ban Nha giữa lúc tôi thi chứng chỉ giáo dục phổ thông trung học. Chuyển sang Tây Ban Nha sống khi tôi mười tám tuổi.” Cô nhún vai. “Thế nên tôi phải làm người lớn. Anh biết đấy.”
“Người giữ khăn giấy?”
Cô cười. “Đúng. Người giữ khăn giấy. Tôi nhớ có một lần tôi bị ngã trên sân chơi và cùi chỏ của tôi bị xước. Mẹ tôi thì kiểu bối rối cố tìm xem có cái gì ở trong túi không, nhưng có một bà mẹ khác đến, tay mang một chiếc túi xách cùng kích cỡ với mẹ tôi, bà ấy mở nó ra và lấy ra hết miếng lau sát trùng rồi đến một gói băng vết thương. Và tôi nghĩ trong đầu: Wow, sau này tôi cũng muốn trở thành người có chiếc túi ma thuật như thế, anh biết đấy.”
Anh nhìn cô mỉm cười. “Cô làm rất tốt,” anh nói. “Cô biết điều đó, phải không?”
Cô cười lo lắng. “Tôi đang cố,” cô nói. “Cố để làm tốt nhất có thể.”
Họ ngồi im lặng trong giây lát. Đầu gối của họ chạm nhau, nhưng lại vội tách xa nhau ra.
Rồi Libby nói, “Chà, thật đúng là tốn thời gian, phải không nào?”
Miller ném cho cô ánh nhìn ranh ma. “Ồ,” anh nói, “cũng không hẳn là phí thời gian đâu. Cô gái ấy. Lola nhỉ? Cô ta là cháu của Sally.”
Libby thở dốc. “Làm sao anh biết?”
“Bởi vì tôi nhìn thấy trên bàn làm việc của Sally có bức ảnh Sally chụp với một người phụ nữ trẻ hơn đang bế một đứa trẻ sơ sinh. Rồi tôi lại thấy ở trên tường có bức ảnh Sally chụp với một người phụ nữ trẻ tóc vàng. Sau đó tôi thấy một bức tranh trẻ con vẽ được đóng khung trên tường có ghi ‘Cháu yêu bà’.” Anh nhún vai. “Tôi tổng hợp tất cả lại và úm ba la.” Anh nghiêng người về phía Libby và mở màn hình điện thoại ra cho cô xem.
“Cái gì vậy?”
“Đó là một lá thư gửi đến cho Lola. Tôi thấy nó thò ra từ trong túi xách dưới bàn làm việc của cô ấy. Tôi biểu diễn ngay trò quỳ-xuống-để-buộc-dây-giày kinh điển. Click.”
Libby nhìn anh bằng ánh mắt sửng sốt. “Nhưng điều gì làm anh nghĩ…?”
“Libby. Tôi là phóng viên điều tra. Đây là nghề của tôi. Và nếu giả thuyết tôi đưa ra là đúng, Lola chắc hẳn là con của Clemency. Có nghĩa là Clemency chắc sẽ sống xung quanh đây. Và vì thế, địa chỉ này,” anh chỉ vào màn hình, “cũng chính là địa chỉ của Clemency. Tôi nghĩ rất có thể chúng ta vừa mới tìm ra đứa trẻ mất tích thứ hai.”
Họ tới căn nhà gỗ thanh lịch và một người phụ nữ ra mở cửa. Con chó golden retriever ngoan ngoãn đứng bên cạnh cô ta, đuôi vẫy uể oải. Người phụ nữ này có vẻ hơi thừa cân; vòng một trông nặng nề, vòng hai đẫy đà, chân dài. Tóc cô ta đen nhánh, cắt ngắn ngang cằm. Cô ta đeo hoa tai tròn bằng vàng, mặc quần jeans màu xanh và áo hai dây màu hồng nhạt bằng vải lanh.
“Anh chị cần gì?”
“Ồ,” Miller nói. “Xin chào. Cô là Clemency?”
Người phụ nữ gật đầu.
“Tôi tên là Miller Roe. Đây là Libby Jones. Chúng tôi đã nói chuyện với mẹ cô. Ở trong thị trấn. Bà ấy nói là cô sống ở gần đây và…”
Cô ta nhìn qua Libby rồi quay lại nhìn thêm lần nữa. “Trông cô… Tôi cứ có cảm giác tôi biết cô là ai.”
Libby cúi đầu và nhường vinh dự được giới thiệu cho Miller.
“Đây là Serenity,” anh nói.
Ngay tức khắc Clemency dựa tay vào khung cửa và bám chặt lấy nó. Đầu cô ta hơi quay ra đằng sau, và trong giây lát Libby nghĩ là cô ta sắp ngất. Nhưng rồi cô ta định thần lại, cô ta đưa tay về phía Libby và nói, “Tất nhiên! Tất nhiên rồi! Cháu đã hai mươi lăm tuổi! Tất nhiên rồi. Đáng lẽ ra tôi phải nghĩ… Đáng lẽ tôi phải biết. Đáng lẽ ra tôi phải đoán trước được là cháu sẽ đến. Ôi lạy Chúa tôi. Mời vào. Mời vào.”
Bên trong căn nhà rất đẹp: sàn bằng gỗ, trên tường treo những bức tranh trừu tượng, lọ cắm đầy hoa, ánh mặt trời chiếu qua những ô cửa sổ kính màu.
Con chó ngồi dưới chân Libby trong lúc Clemency lấy nước cho họ, Libby vuốt đầu nó. Trời nồm làm con chó thở hổn hển, hơi thở của nó có mùi hôi, nhưng Libby chẳng bận tâm.
Clemency quay lại và ngồi xuống đối diện họ. “Ôi,” cô ta nói, mắt nhìn chằm chằm vào Libby. “Nhìn cháu mà xem! Xinh quá đi mất! Nhìn cháu… thật quá đi mất!”
Libby cười lo lắng.
Clemency nói, “Cháu chỉ mới lọt lòng khi cô bỏ đi. Cô chẳng có bức ảnh nào của cháu cả. Cũng không biết cháu đã đi đâu, ai nhận nuôi cháu rồi sau này cháu sống ra sao. Và cô không hình dung nổi cháu trông như thế nào. Tất cả những gì cô thấy là một đứa bé. Một đứa bé xinh như búp bê. Không giống thật cho lắm. Và ôi…” Mắt cô ta ngấn lệ, giọng cô ta nức nở. “Cô rất, rất xin lỗi. Cháu có…? Cháu thế nào rồi…? Mọi thứ có ổn không?”
Libby gật đầu. Cô nghĩ về mẹ nuôi của cô, bên người đàn ông mà bà gọi là đồ chơi (dù ông ta chỉ trẻ hơn bà có sáu tuổi) nằm dài trên cái sân hiên bé tí tại căn hộ chỉ có một phòng ngủ của bà ở Dénia (nên không có chỗ cho Libby ở khi cô đến thăm), mặc áo choàng kaftan màu hồng nóng bỏng, gọi cho cô qua Skype giải thích rằng bà quá bận để đặt vé máy bay về thăm Libby nhân dịp sinh nhật cô, và đến lúc bà tìm trên mạng thì hết vé rẻ mất rồi. Cô nhớ về ngày người ta chôn cha cô, cô nắm chặt tay mẹ cô, mắt nhìn lên trời, và tự hỏi không biết ông đã lên đến đấy an toàn hay chưa, lo lắng không biết từ giờ cô sẽ đến trường bằng cách nào vì mẹ cô không biết lái xe.
“Cũng ổn ạ,” cô nói. “Cháu được những người rất dễ thương nhận nuôi, cháu rất may mắn.”
Gương mặt của Clemency bừng sáng lên. “Vậy, giờ cháu sống ở đâu?”
“St Albans ạ,” cô trả lời.
“Ồ! Thế tốt. Và… cháu đã lấy chồng chưa? Cháu có con chưa?”
“Không, chỉ có mình cháu thôi ạ. Cháu vẫn độc thân. Sống một mình. Cháu chưa có con cái. Cháu cũng không nuôi con gì. Cháu chuyên bán các mẫu thiết kế nội thất trong nhà bếp. Chà, để nói về cháu thì cũng không có gì nhiều lắm. Hay chí ít, không có gì nhiều cho đến khi…”
“Ừ,” Clemency nói. “Ừ. Cô đoán là nghe tin này chắc cháu cũng cảm thấy sốc toàn tập.”
“Nói nhẹ là như thế.”
“Và cháu đã biết những gì rồi?” Cô ta hỏi, thận trọng. “Về ngôi nhà. Và về tất cả mọi chuyện.”
“Biết nói thế nào nhỉ,” Libby bắt đầu, “mọi thứ có vẻ hơi rối rắm. Đầu tiên là những gì cha mẹ cháu vẫn hay kể với cháu, rằng cha mẹ đẻ của cháu qua đời trong một vụ tai nạn ôtô khi cháu mới mười tháng tuổi. Rồi sau đó là những gì cháu đọc được qua bài báo của Miller. Bài báo đó nói rằng cha mẹ cháu là thành viên của một giáo phái và đã có một kiểu thỏa thuận tự tử nào đó diễn ra, sau đó cháu được người Digan chăm sóc. Rồi hai ngày trước cháu và Miller đang ở trong ngôi nhà trên đường Cheyne, và một người đàn ông xuất hiện. Lúc ấy cũng muộn rồi. Ông ta nói với chúng cháu là…” Cô ngừng lại. “Ông ta nói với chúng cháu ông ta tên là Phin.”
Clemency mở to mắt, miệng thở dốc. “Phin ư?” cô ta nói.
Libby lưỡng lự gật đầu.
Mắt Clemency ngấn lệ. “Cháu có chắc không?” cô ta hỏi. “Cháu có chắc đấy là Phin không?”
“Dạ, người đàn ông đó nói với chúng cháu đó là tên của ông ta. Ông ta nói cô là em gái ông ấy. Và nhiều năm rồi ông ấy chưa được gặp cô hay mẹ của cô.”
Cô ta lắc đầu. “Nhưng lúc cô bỏ anh ấy đi anh ấy yếu lắm. Yếu lắm. Gia đình cô đã đi tìm anh ấy khắp nơi, cô và mẹ cô. Khắp nơi. Năm này qua năm khác. Cô và mẹ cô đi hết tất cả các bệnh viện ở London. Đi lang thang khắp các công viên và các vẹt đường tàu. Cứ chờ mãi, chờ mãi, mong một ngày nào đó anh ấy sẽ xuất hiện trước cửa nhà cô. Nhưng ngày đấy không bao giờ đến và cuối cùng thì… cô và mẹ cô nghĩ là anh ấy đã chết. Nếu không thì tại sao anh ấy lại không quay về cơ chứ? Tại sao anh ấy lại không đi tìm cô với mẹ cô? Ý cô là, anh ấy sẽ làm như thế, đúng không?” Cô ta dừng lại. “Cháu có chắc đấy là Phin không?” Clemency hỏi lại lần nữa. “Tả cho cô nghe trông người đàn ông đó như thế nào.”
Libby miêu tả cặp kính gọng sừng, mái tóc vàng, hàng mi dài, khuôn miệng đầy đặn.
Clemency gật đầu.
Sau đó cô kể cho Clemency nghe về căn hộ sang trọng, và những con mèo Ba Tư. Cô nhắc lại câu nói đùa của Phin về con mèo tên là Dick, và Clemency lắc đầu.
“Không,” cô ta nói. “Nghe không giống Phin chút nào. Không giống chút nào.” Cô ta dừng lại một lúc để suy nghĩ, mắt cô ta đảo quanh phòng. “Cháu biết cô nghĩ gì không?” cuối cùng cô ta nói. “Cô nghĩ rất có thể người đàn ông đó là Henry.”
“Henry ạ?”
“Phải. Henry mê Phin lắm. Nhưng tình cảm ấy không được đáp lại. Như kiểu bị cuồng si vậy đó. Anh ta cứ nhìn Phin chằm chằm cả ngày. Anh ta ăn mặc giống Phin. Bắt chước kiểu tóc của Phin. Có lần anh ta còn định giết Phin nữa. Đẩy Phin xuống sông. Giữ Phin ở dưới nước. Nhưng may là Phin khỏe hơn Henry. To con hơn nữa. Thế nên Phin cũng chống trả lại được. Henry đã giết con mèo của Birdie, cháu có biết không?”
“Gì cơ?”
“Anh ta đã hạ độc con mèo. Cắt đuôi của nó đi. Ném xác nó xuống sông. Các dấu hiệu đã có ở đó từ trước rồi. Mặc dù nói về một đứa trẻ thế này có vẻ độc miệng, nhưng theo ý kiến của riêng cô, trong tính cách của Henry, có một phần thuộc về quỷ dữ.”