Chương V
Có cách nào để giúp được Quê?
Suốt đêm câu hỏi ấy cứ xoáy trong đầu Lê My khiến chị không thể chợp mắt được. Mười năm trước, khi đưa Quê về làng, My những tưởng mình đã làm được một nghĩa cử, và chị có thể hoàn toàn yên tâm về số phận của một cô gái, nào ngờ cái hành động tưởng như nhân đạo ấy lại là khởi đầu cho những tai hoạ khác.
Buổi sáng, vừa đúng giờ đầu tập thể dục, My đã trở dậy. Chị đáp xe lên tận Bưởi vay cô bạn một ít tiền rồi vội vàng trở về nhà. Vừa lúc bé Trang và Quê cũng thức giấc.
- Sáng nay chị phải đi làm - My nói với Quê sau khi cả nhà đã ăn xong bữa sáng. - Quê ở lại đây chơi với mẹ con chị vài ngày. Với chị, em đừng ngại gì cả. đây, chị có một ít tiền. Quê ra ngoài mậu dịch chọn mua lấy bộ quần áo. Còn tiền để mua cả cho con em nữa đấy. Chiều nay chị sẽ về sớm. Rồi chúng mình thử bàn xem…
Quê chỉ biết nhìn Lê My như nhìn một ân nhân. Cô nhận gói tiền mà không dám nói đến cả những lời khách sáo cám ơn.
Suốt cả buổi sáng chỉ có mình Quê ở nhà. Cả khu tập thể cửa khoá im ỉm. Dường như khắp mấy chục căn hộ chỉ có mình Quê là chủ nhân duy nhất. Kì thật. Quê, một cô gái điếm, và rất có thể là một kẻ ăn cắp, phường trấn lột, lừa đảo… Vậy mà người ta dám giao cho làm chủ nhân cả một khu tập thể, chí ít là chủ nhân hoàn toàn của một căn hộ, có chìa khoá, có quyền sở hữu hẳn hoi. Ôi, sao giữa cái đất thành thị xô bồ này mà vẫn có những con người cả tin, nhân ái đến thế. Hay chị ấy là công an, chị ấy có máy móc gì trong nhà, định giăng bẫy để thử mình chăng? Mà đúng thật rồi. Không dưng chị ấy lại xin với đồn công an đưa hẳn mình về nhà. Chỉ có lòng tốt và tình nghĩa với mình không thôi thì chị ấy cũng chẳng tội gì ôm rơm cho rặm bụng. Lại còn cho tiền để sắm quần áo nữa, giao cả chùm chìa khoá nhà nữa. Đúng là công an thực. Chị ấy đang thử thách mình đấy…
Những nghi vấn vởn lên trong đầu khiến nhiều lúc Quê cứ ngẩn ra không biết nên hiểu theo cách nào. Rồi Quê mở tiền ra đếm, cố soi rọi kỹ từng đồng xem chúng có dấu vết khác lạ gì không. Biết đâu trong những đồng tiền này có gài một thứ máy móc nào đó. Người ta bảo bây giờ công an có nhiều loại máy móc tinh vi lắm. Có chiếc máy chụp ảnh chỉ mỏng như tờ giấy. Lại có loại máy dính vào người, đi đâu phát sóng điện tới đó. Có khi là chị My đã nghi Quê mắc bệnh Siđa. Và chị ấy đang tìm mọi cách để theo dõi.
Quê bỗng thấy lo cho những ngày sắp tới của mình. Cô linh cảm thấy có một cái gì đó đang rình rập, săn đuổi cô. Phải trốn khỏi đây ngay. Quyết định ấy vụt loé lên. Cô bắt đầu thấy nghi ngờ cả những lòng tốt.
Cho đến giờ tan tầm chiều, khi Lê My đạp xe về nhà thì Quê đã bỏ đi từ lúc nào. Cô để lại bộ đồ ngủ của My, giặt phơi trên dây, mặc lại bộ đồ cũ của mình. Đồ đạc trong nhà không hề suy xuyển gì. Trước khi đi Quê còn bàn giao lại cho bé Trang vừa đi học về cả chùm chìa khoá.
Trên nóc tủ, cạnh chiếc đài vef, có một tờ lịch ghi mấy dòng của Quê để lại:
“Chị My ơi, chị là người tốt nhất trên đời. Nhưng em phải đi thôi. Em không thể lợi dụng lòng tốt của chị. Đừng tìm em nữa, chị nhé. Q”
Lê My chợt nghĩ đến những gốc cây mờ tối trong công viên, Quê lại về nơi ấy chăng?
☆☆☆
Đúng như điều Lê My dự đoán, Quê đã trở lại góc công viên ngay từ lúc xế chiều chứ không kịp đợi cho trời tối. Cô đi con đường mòn qua một lỗ chó chui ở bờ rào để đến một góc vườn cây xanh cổ thụ. Nơi đây cả ban ngày và ban đêm đều rất vắng vẻ. Người thành phố thích đến công viên nhưng họ lại ngại những chỗ quá vắng vẻ. Ở đây ban ngày thường là nơi tụ tập những hạng người tứ chiếng, những dân anh chị, những kẻ bụi đời. Họ vạ vật nằm ngủ dưới những gốc cây, trên những thảm cỏ, kiếm lá kiếm củi khô nấu nướng, ăn uống xì xụp quanh đó. Ban đêm họ phân tán đi các nơi, thường là đi hành nghề hoặc tìm một góc chợ, một lều quán bỏ không nào đó để ngủ qua đêm, những nơi đó ít ra cũng có chỗ che mưa, che sương, mùa đông thì ấm áp hơn, lại đỡ bị công an làm phiền nhiễu. Ban đêm nơi đây trở thành hang ổ của bọn đĩ điếm. Chúng đứng chờ ở ngoài đường, ven bờ hồ để bắt khách. Những ông khách “đi vòm”, “đi dù”, thì đã có các hang ổ thuê sẵn, phải trả tiền phòng cho chủ chứa. Những ông khách ít tiền, thích “đi nhanh” làm qua quýt một tí cho xả cơn nghiện thì chúng dẫn qua lỗ chó chui vào “góc rừng” này. Đêm ở đây là thế giới của quỷ. Chúng đứng ép nhau vào dưới gốc cây, co quắp nhau trên bãi cỏ. Các gái điếm sành sỏi ra sức giở thủ thuật nhà nghề bắt các gã đĩ đực phải thốc tháo cho xong hợp đồng để chúng còn kịp ra ngoài đường đón một kíp khách mới. Có đêm một cô ả vào cầu “đi nhanh” được đến chục khách mà sức lực, gân cốt vẫn không hề suy xuyển. Có ông khách vừa lướt cò bợ bước ra khỏi lỗ chó chui đã vội bổ ngửa quay lại vì vừa phát hiện ra mình bị mất chiếc đồng hồ đeo tay hoặc tiền nong giấy tờ trong túi áo. Dịch vụ làm tình và làm tiền lẫn lộn, chỉ chết những kẻ máu dê.
Dân đĩ bợm, anh chị, gọi góc công viên này là “Chiến khu”. Đó là một phần cuộc đời của những kẻ lang thang không nhà cửa. Với Quê, góc công viên “Chiến khu” này cũng là một phần cuộc đời cô, ít ra là hai năm nay. Chao ơi, đời người gì mà lại coi một xó chợ, một góc vườn cây, một chỗ khuất vỉa hè làm nơi sinh sống của mình. Cũng một kiếp người mà chỉ không đầy vài chục mét ngoài kia thôi, bao kẻ nhà lầu xe hơi, tiền tiêu như rác. Người ta sẵn sàng bỏ ra ba, bốn triệu đồng để mua một con chó Nhật, và hàng tháng tiếp tục bỏ ra chừng trăm ngàn đồng để nuôi chúng. So với chúng, Quê cũng chẳng đáng giá gì, huống gì kiếp người. Dẫu vậy vẫn cứ phải sống. Rồi còn phải nuôi con nữa. Cho nên Quê phải tạo cho mình một thứ triết lý riêng. Đó là lấy mình để nuôi mình, hành hạ cái thân xác của mình cho đến khi nào không thể khai thác nó được nữa.
Quê trở thành một trong những cư dân của “chiến khu”, của một góc xó chợ.
Bây giờ Quê đang trở về “căn nhà” của mình. Cô luồn qua lỗ chó chui đi về phía gốc cây của mình. Nhưng kìa, sao “nhà cửa” trống trơn thế kia? Vạt tro mọi ngày lụi ẩm. Những chiếc áo chiếc quần, không hơn gì những thứ đồ thải làm giẻ lau của nhiều người, mọi ngày vẫn phơi vạ vật trên những cành cây, giờ đâu cả rồi? Và hai bà cháu? Hai bà cháu đi đâu? Quê đứng ngẩn dưới gốc cây. Đến bây giờ Quê mới thấy nỗi nhớ con mà hai hôm nay cô cố kìm nén, bỗng cồn cào. Cái thằng cu Tẩm của Quê, nó mới năm tuổi đầu mà đã sớm trở thành một thành viên có thâm niên của dân làng bụi. Hai bà cháu nó đâu rồi?
Quê chạy bổ ra ngoài bờ hồ.
- Này Quyên tẹt, con đĩ, mày đi đâu từ hôm qua đến giờ? Bị CÁ đớp hả? - Cô gái bán thuốc lá bên gốc cây bỗng gọi giật. Quê nhận ra con Thảo bùng vừa gọi mình. Dân bớp vẫn thường gọi Quê là Quyên tẹt.
- Ừ, đớp. Này, mày có thấy hai bà cháu thằng cu Tẩm nhà tao đi đâu không?
- Đêm qua vẫn thấy ngủ trong xó chợ. Suốt đêm hai bà cháu cứ lo cho mày mãi. Sáng nay biến đâu mất rồi. Chắc là đi làm dịch vụ.
Quê hiểu làm dịch vụ tức là hai bà cháu đi xin ăn.
- Chán mớ đời. Tối nay biết là có về không? - Quê ngồi thụp xuống cạnh Thảo bùng, thuận tay lấy một điếu thuốc ViNa trên mẹt hàng châm lửa hút.
- Tối qua mày bị CÁ đớp thật hả?
- Ừ đớp. Nhưng lại hoá may. Tao gặp một người quen cũ. Chị ấy tốt lắm. Rủ tao về nhà ngủ, lại cho cả tiền.
- Chỉ xạo. Có mà mày đi xoáy của người ta - Thảo bùng bĩu môi rồi bỗng ghé sát vào người Quê - Này, tao vừa mới kí một hợp đồng. Thằng này trước tao đã tiếp một lần rồi. Nó vừa đến nói là tối nay cần chiêu đãi mấy thằng bạn. Đi vòm hẳn hoi. Tao đã bảo cái Lan lừa, cái Sâm lột. Với mày nữa là bốn. Bẩy giờ tối nay hội bọn nó sẽ đến đây. Phải chuẩn bị mắt xanh mỏ đỏ vào nhớ. Có mầu đấy. Lũ dê này có vẻ máu lắm.
Quê ngồi lơ đãng chụm môi nhả những vòng khói thuốc. Cô không nghiện thuốc, thậm chí cũng chẳng biết nó ngoan lành bổ béo gì, nhưng những lúc buồn chán hoặc có điều gì nghĩ ngợi cô vẫn thường hút chơi vậy.
- Ờ để xem sao… Quê nói và đứng dậy - Tao phải đi tìm bà cháu thằng cu Tẩm đây.
Lúc đó, ở một đường phố tấp nập, có hai bà cháu. Họ như cái mụn ghẻ của một cơ thể mĩ miều đầy son phấn. Họ là cái mụn vá nhom nhếch của một tấm áo nhiều màu sắc loè loẹt. Họ như hai bóng ma giữa chợ người nhộn nhịp.
Phải nói rằng thành phố vài năm gần đây thay đổi với tốc độ chóng mặt. Những hè phố rêu mốc, cửa đóng im ỉm, tường xây bịt bùng những năm trước, giờ bung ra, nhà nhà trổ cửa, tầng tầng cơi nới, rối rít, hối hả mở sạp hàng, đóng tủ kính, khênh cả nồi soong bát đĩa ra hè phố, ra lòng đường để bán bún ốc, thịt chó, riêu, phở, bánh cuốn bánh trôi… Khắp các phố phường chỗ nào cũng chợ búa, chỗ nào cũng ăn nhậu ồn ã. Cái cơ chế thị trường làm cho bộ mặt thành phố tươi rói lên, mật độ dân cư sống trên hè đường, đi lại trên đường tăng lên gấp bội. Kể ra dân thành phố cũng chóng giàu lên thật. Người ta dám bỏ ra năm mươi cây vàng để mua một căn nhà lụp xụp có diện tích đất một trăm mết vuông để phá đi, xây hẳn một ngôi nhà bốn tầng. Có gia đình, bốn đứa con mỗi đứa đi một chiếc cúp mười triệu đồng và chòng vào tai, vào cổ, vào tay một số vàng bằng chừng ấy nữa. Nhiều gia đình còn bỏ vàng ra sắm xe tải, xe ca, xe lam. Những chiếc xe Toyota mang biển số trắng tư nhân sang trọng hơn cả xe của nguyên thủ quốc gia. Vàng muôn năm, đô la muôn năm. Đồng tiền lên ngôi, trở thành thống soái, bất chấp mọi thang giá trị xã hội.
Song, cái sự giàu có ấy đâu phải chia đều cho tất cả mọi cư dân thành thị. Hơn chín mươi phần trăm người làm công vẫn chỉ cầm cự với năm mươi ngàn đồng lương một tháng, nghĩa là vừa xoẳn để đong hai yến gạo. Và, còn hàng ngàn người sống thấp hơn cả con số thu nhập đó. Còn một đội quân hùng hậu từ tứ xứ kéo đến, mỗi ngày lê bước trên các hè phố ngửa tay xin tiền, như hai bà cháu khốn khổ kia.
Đó là một “cặp bài” lý tưởng cho cái việc đi xin xỏ. Bà, tuổi chừng bẩy mươi, lưng hơi còng, mặt nhăn nheo như vỏ củ lạc già. Bộ quần áo trên người bà không đến nỗi cáu bẩn, nhưng đã quá sờn cũ. Cháu, là một thằng bé chừng sáu tuổi, người đen đúa sắt lại như một ông già. Không hiểu nó không được chăm sóc hay cố ý làm ra thế, mà cả gương mặt vốn có vẻ thông minh của nó cứ lem luốc một thứ mồ hôi lẫn mũi dãi, lẫn bụi đất và cả nhọ nồi. Nếu như bà cụ có vẻ khốn khổ một cách chân thật bao nhiêu thì thằng bé lại có vẻ láu lỉnh một cách khốn khổ bấy nhiêu. Nó khoác chéo người một cái bị cói, trong đó phình ra đủ mọi thứ, từ củ khoai luộc, mẩu bánh mì, quả dưa chuột… đến những miếng thịt chó, miếng lòng lợn người ta đang ăn dở. Một tay nó dắt bà cụ, còn tay kia thì chìa ra trước mặt mọi người. Chìa ra với tất cả vẻ nhẫn nại và van vỉ, với một quyết tâm sắt đá rằng nó chỉ có thể rụt tay lại khi bàn tay của nó đã có một cái gì đó.
- Lạy ông lạy bà cho con xin mấy đồng…
- Cháu xin các bác các chú. Hãy thương lấy bà cháu…
Nó nói với một âm điều đều đều, không cố ý thiểu não, nhưng cũng không hề chiếu lệ. Vừa nói, nó vừa nhìn thẳng vào mặt người đối diện, dọi vào họ ánh mắt trẻ thơ rất tội nghiệp, khiến cho cả người keo kiệt nhất, sắt đá nhất cũng phải mủi lòng.
Lúc này cái “phố bia” đang ở vào tầm cao điểm. Suốt một dãy phố dài các bàn bia tràn hết ra hai bên vỉa hè. Từng dãy dài xe máy, xe đạp, xe ô tô xếp san sát. Đông nhất là xe cúp, đủ loại, đủ màu. Khách ở phố bia toàn là loại khách sộp, túi anh nào cũng căng tiền, mặt anh nào cũng phừng phừng rất khí thế. Họ đến đây để giải khát một phần, nhưng cái chính là để giao tiếp, thù tạc bạn bè. Ít tiền thì uống với nhau một vại bia, ăn dăm củ lạc, nhiều tiền thì thịt chó, ốc luộc, bồ dục trần, tái dê. Một cuộc bia trăm ngàn là thường. Càng uống càng có nhiều chuyện để nói. Ngồi với nhau mà ra tiền, ra bạc. Chỗ nào có xe máy giá hời? Công trình xây dựng kia đấu thầu mấy trăm triệu? Giá đồng và kim loại quí ở biên giới bao nhiêu? Có chỗ nào cần tiêu thụ vàng, đô la, đá quí không?
Có một ông khách hình như lần đầu tiên xuất hiện ở phố bia. Mọi người chú ý đến ông không phải ở vẻ người, điệu bộ, mà chính vì cái đài Nationan chạy pin ông đeo cạnh người. Giá như ở cái thời điểm những năm sáu mươi, chắc hẳn ông sẽ được liệt vào loại người sang, hoặc chí ít là một cán bộ trung cấp, đi đâu đài điện cũng đeo cạnh người, kêu oang oang. Nhưng ở vào cái thời kỳ viđêô màu, tivi mấy chục hệ này mà ông vẫn đeo cái đài cạnh sườn, vẫn mở oang oang ngay giữa phố, thì quả là tẩm hết chỗ nói. Người ta nhìn ông như nhìn một người vừa từ hành tinh khác đến. Có người vừa tu bia ừng ực, vừa vằn mắt về phía ông ta, văng tục: “Đ.mẹ. Cái quân đồng rừng, ngu không chịu được”. Ông khách lạ, đúng là người đồng rừng, dường như không hay biết, dường như pho phú tuốt. Ông chén tái dê, uống bia ừng ực, và cứ để đài nói ông ổng.
“Chương trình thông tin - quảng cáo” - Tiếng cô phát thanh viên bỗng cao vóng lên. Tiếp theo là nhạc hiệu xập xình như huơ mọi người cùng vào cuộc nhảy.
“Tìm người nhà” - Vẫn tiếng đài của ông khách đồng rừng - “Con gái là Nguyễn Kim Thoa và con rể là Bùi Danh Vọng hiện đang công tác tại Tổng công ty Luđamếx nhắn tìm mẹ là Đào Thị Nụ, bẩy mươi hai tuổi. Mẹ Đào Thị Nụ bỏ nhà đi ngày… tháng…. năm… Khi đi mặc chiếc áo lụa sát si gụ, quần láng đen đã cũ. Đặc điểm: cao chừng một mét năm mươi, người gầy, hơi còng. Có một nốt ruồi to dưới đuôi mắt trái. Ai biết cụ Đào Thị Nụ ở đâu xin đưa đến theo địa chỉ… Gia đình xin hậu tạ và chịu mọi phí tổn…”
Đang đi cùng thằng cháu, bà cụ vội buông tay nó ra và đứng lặng. đúng là đài vừa nhắc đến tên bà. Bà chính là Đào Thị Nụ, có cô con gái là Nguyễn Kim Thoa và ông con rể quí tử là Bùi Danh Vọng. Chúng nó còn dám vác mặt lên đài mà tìm bà kia à? Ôi chao, nhân tình thế thái, đảo điên hết cả rồi. Hai khoé mắt nhăn nheo của bà bỗng nhiên hoen ra hai dòng lệ. Nước mắt chảy xuống cái nốt ruồi đón lệ ở đuôi mắt trái, như dòng nước gặp phải một gò đất, ứ lại rồi lan nhoè cả gò má.
- Kìa bà, làm sao thế hả bà? - Thằng bé quay lại hỏi, đôi mắt nó tròn xoe không hiểu vì sao bà nó khóc?
Câu hỏi của thằng bé làm bà Nụ như chợt tỉnh.
- Không. Con muỗi nó bay vào mắt bà - Bà nói cho qua chuyện rồi nhổ phì phì một bãi nước bọt về cái tiếng đài vừa réo gọi tên bà.
Nhưng thằng bé không hiểu ý bà nó. Nó cứ dắt bà phăm phăm tới chỗ ông khách đồng rừng đeo đài ở cạnh sườn kia. Nó chắc đây là một ông khách sộp.
Cái bàn tay nhỏ xíu của thằng bé chìa ra trước mặt ông khách đúng cái lúc ông đang cúi vục mặt xuống bát bồ dục trần khiến ông có cảm giác một chiếc thuổng đào ếch vừa xỉa vào mặt ông. Và ông ngửng bộ mặt đỏ tái, dọi hai con mắt ngầu đỏ vào mặt thằng bé. Bốn con mắt gặp nhau. Đôi mắt thằng bé mỗi lúc một lì lợm và nhẫn nhục, còn đôi mắt ông khách đồng rừng thì cứ dãn dần ra, tròn xoe, đầy kinh dị. Liệu ông có quá say không? Tâm trí ông có còn tỉnh táo hay đang bị ma ám? Sao cái thằng này nó giống ông lạ lùng. Cũng cái trán dô bướng bỉnh, cái cằm vuông và đôi mắt xếch. Hà, nó bao nhiêu tuổi nhỉ? Năm hay sáu tuổi? Thôi đúng rồi. Nếu đẻ đúng cái năm ấy thì… Ông khách ngẩn người, ông thò tay ấn nút cái đài đánh xoạch, cái đài câm tịt.
- Này cu, mẹ mày đâu?
Thằng bé lắc đầu.
- Mẹ mày tên là gì?
Thằng bé lại ngoẹo đầu.
- Nói đi thì tao cho tiền. Mẹ mày tên là gì?
- Cháu không biết - Thằng bé buộc lòng phải trả lời, nhưng nó vẫn giữ một nguyên tắc là không khai báo gì về cái lý lịch đầy bí ẩn của nó. Nghề nghiệp ăn xin đã dạy nó như thế. Không được hở một chút gì về bản thân mình, ngoài sự khốn khổ.
Vẻ bí mật của thằng bé càng làm tăng thêm mối linh cảm của ông khách đồng rừng. Ông bỗng nhớ đến một người con gái của tám năm về trước, khi ông còn đang làm đội trưởng một đội lâm nghiệp ở lâm trường H. Tuyên Quang. Chao ôi, con gái chi mà trắng nõn nà. Hai vú thây lẩy như hai quả bưởi Đoan Hùng mọng nước. Và mông, và đùi. Ờ, cứ nghĩ đến đã thấy toát mồ hôi. Ông khách nuốt khan đánh ực và thọc bàn tay chuối mắn vào cái túi áo ngực ông đang có rất nhiều tiền. Tiền bán đá đỏ. Từ ngày nghỉ việc lâm trường ông xoay sang làm cai đầu dài của bọn thợ đào vàng và khai thác đá quý. Kiếm được. Mỗi chuyến về thành phố chỉ cần một gói nhỏ nhét trong túi áo là vớ được bạc triệu, tha hồ tiêu xài.
- Tiền đây, bác cho… Nào, lại đây bác thơm một cái… - Ông khách vừa xoè ra hai tờ năm ngàn vừa đưa tay kéo thằng bé vào lòng.
Vừa lúc đó một người đàn bà từ đầu phố hớt hải chạy lại.
- Bà ơi… Ơi cu Tẩm. Đi đâu mà biền biệt, để tìm suốt từ trưa tới giờ…
Ông khách đang ôm thằng bé bỗng sững người.
- Quê! - Ông buông thằng bé và kêu lên.
Quê choáng váng khi chợt nhận ra ông khách vừa gọi tên mình. Không còn biết phản ứng ra sao, cô đứng khựng lại như người vừa bị chứng đau tim đột phát. Rồi cô bỗng lao đến chỗ thằng Tẩm, giằng nó ra khỏi ông khách, gạt phắt hai tờ bạc từ tay ông và cứ thế lôi nó đi xềnh xệch.
Suốt một dẫy hàng bia, ai cũng tròn xoe mắt kinh ngạc. Người ta tưởng như cô gái mắc bệnh tâm thần, còn ông khách đồng rừng thì rõ ràng đang bị cơn say làm cho rồ dại. Ông lảo đảo, một tay ôm chặt cái đài bên hông, còn tay kia cứ chới với giơ lên hai tờ bạc, lưỡi líu lại mấy từ “con… Quê…” đến là vô nghĩa.