Chương VII
Người đồng rừng đeo đài bên hông ngồi ở phố bia chiều ấy chính là Toại. Bẩy năm qua Toại đã già đi nhiều. Mái tóc muối tiêu, bọng mắt chảy xệ, da mồi. Ở ông vừa có cái vẻ chán chường, mệt mỏi của một người già, vừa có cái vẻ ham hố, cuồng nhiệt của một chàng trai mà tất cả những hoài bão dự định còn đang chờ ở phía trước.
Cái vụ trai trên gái dưới với Quê ngày ấy, ban đầu, tưởng như to tát, tưởng như sẽ là một vụ sì-căng-đan điển hình của ngành lâm nghiệp. Nhưng rồi rốt cuộc, mọi chuyện đều im re. Toại đã khéo léo thu xếp, bịt chỗ này, trấn áp chỗ kia, thậm chí bắt vợ và các con mình phải lên gặp lãnh đạo lâm trường nhận đã chót dại dột mà dựng chuyện lên thế. Sau ngày Quê bỏ đi khoảng nửa tháng thì mọi chuyện ổn thoả. Đại hội đảng bộ, Toại vẫn chúng với số phiếu cao, được cơ cấu vào đảng uỷ. Đội ba của Toại vẫn là một tổ đội lao động XHCN.
Nhưng mà cũng từ đó, Toại bỗng thấy chán ngán tất cả. Chán vợ con, chán chính mình, chán cả những thứ danh hiệu, chức tước hão. Sự ra đi của Quê hầu như đã làm rỗng cả cuộc đời Toại. Biết bao nhiêu đêm Toại dằn vặt và phỉ nhổ chính mình. Một thằng đàn ông đốn mạt. Một gã Sở Khanh siêu hạng. Toại tự xếp mình như thế. Toại mong ước giá như cái sự kiện ấy được lặp lại, Toại sẽ sẵn sàng đánh đổi - quyền chức, danh hiệu, vợ con - để bảo vệ Quê, để được chung sống với Quê.
Đã ba lần Toại xuôi Hà Nội, chỉ với mục đích tìm kiếm Quê. Toại tha thẩn ở các bến xe, nhà ga, Toại lân la hỏi dò những bà hàng nước. Nhưng đều vô hiệu. Nghe cô giáo Điệp nói Quê đã đẻ một thằng con trai, Toại như muốn phát điên lên. Ông luôn luôn linh cảm thấy giữa ông và Quê nhất định phải có một mối liên hệ nào đó.
Toại quyết định xin nghỉ hưu trước tuổi. Bao nhiêu vốn liếng góp nhặt được trong hơn hai mươi năm nghề rừng Toại dốc ra xây nhà. Một ngôi biệt thự giữa rừng, hai tầng, tám phòng, thắp điện bằng máy phát Nhật, rồi ti vi màu, xe kích, ra đi ô cátxét, tủ lạnh. Bây giờ Toại mới thực sự là một ông chúa sơn lâm. Một mình một dinh cơ, một khoảnh rừng, một nương chè và bạt ngàn những sắn và mía.
Giàu có, đề huề, nhưng mà Toại vẫn cảm thấy cuộc đời thật trống rỗng. Sáu thị mẹt, sáu vịt giời thì dù có sống trên núi của, ăn sơn hào hải vị, vẫn vứt đi. Chán quá, Toại bỏ đi đào vàng. Rồi trúng quả, Toại làm cai. Toại mang vàng và đá quí về Hà Nội, Hải Phòng, lên biên giới Lạng Sơn, Quảng Ninh để bán cho người Tàu. Có chuyến, một mình Toại tiêu hết bạc triệu. Ăn ngủ toàn khách sạn mi-ni, muốn thì có cả hầu phòng non phục vụ qua đêm. Từ lối tư duy của một kẻ cơ hội hãnh tiến ham muốn quyền chức và danh vị, Toại chuyển sang tư duy của một gã lái buôn thuần tuý tôn thờ đồng tiền. Bây giờ thì Toại chẳng có thứ chủ nghĩa nào cả, ngoài đồng tiền. Và, phải nói thực tình, tận trong li ti huyết quản của Toại vẫn ngấm ngầm mong muốn một cái gì lớn lao hơn, cụ thể hơn, đó là một thằng con trai. Mà ở cái tuổi năm mươi nhăm của Toại bây giờ kiếm một thằng con trai đâu có dễ dàng. Bọn đàn bà có thể sẵn sàng ngủ với Toại, nhưng chúng lại không thích có con. Chúng chỉ rình cuỗm của ông ít tiền rồi chuồn chứ đâu thích an phận nuôi con cho ông. Lắm lúc Toại nghĩ mà bế tắc. Và Toại càng nuối tiếc Quê. Nuối tiếc đến dằn vặt, nuối tiếc đến thẫn thờ.
Bỗng nhiên vận may lại một lần nữa đến với Toại. Toại có say không? Không. Cái thằng bé ấy rõ ràng giống Toại như lột. Rõ ràng Toại đã gặp Quê. Cô ấy có tàn tạ đi, nhưng cái nốt ruồi ở giữa nhân trung thì không thể nhầm lẫn được. Không cần phải hoài nghi gì nữa, phải bằng mọi cách giành giật lấy thằng bé. Chao ơi cay đắng quá, con, con trai của ta mà phải đi ngửa tay ăn xin thiên hạ? Ta sẽ giành tất cả ngôi nhà và đất rừng của ta cho con. Bao nhiêu vàng và đã quí mà ta có sẽ là của con hết.
Ngay buổi chiều ấy Toại không về khách sạn mi-ni, nơi ông ở nữa. Vẫn khoác chéo chiếc đài bên hông, ông dò dẫm đi từng phố, hỏi thăm từng người bán hàng nước và bọn trẻ con chơi trên đường phố để tìm ra nơi ở của mẹ con Quê.
☆☆☆
Dường như Quê đã linh cảm thấy trước một tai hoạ, kể từ lúc Quê gặp lại Toại ở cái phố bia ấy. Nhìn ánh mắt của Toại, Quê biết rằng bằng mọi giá ông ta sẽ quyết giành giật lại đứa con. Cho nên phản xạ đầu tiên của Quê là chạy trốn. Phải giấu kín thằng Tẩm đi, cấm chỉ không cho nó lang thang trên đường phố, ít nhất là một tuần. Quê lôi xềnh xệch hai bà cháu qua cái lỗ chó chui vào “chiến khu” trong công viên. Chờ cho đến lúc trời sập tối, phố xá đã lên đèn, Quê lại lôi hai bà cháu đi một vòng nữa rồi mới trở về cái góc chợ xép quen thuộc.
Phải nói rằng khi sáng chế ra cái chợ, loài người đã bộc lộ trong đó một ý tưởng nhân đạo sâu sắc. Ban ngày thì dân tứ xứ, bất kể giàu nghèo sang hèn, ai muốn thì cứ vào họp chợ. Có thì bán, cần thì mua, không cần mua bán gì thì cứ việc dạo chơi vài ba vòng để giết thời gian. Ban đêm, người không họp chợ thì đã có ma họp. Ma âm không ai nhìn thấy, còn ma dương thì ít thôi, nhưng mà cũng sống động, nhộn nhạo với đủ mọi dạng vẻ, lứa tuổi. Ấy là những hạng người cơ nhỡ, lỡ tàu xe, thất tán gia đình, và đông đúc, thường xuyên hơn cả là dân bờ bụi chuyên lê la các vỉa hè để kiếm sống.
Quê cũng có một “căn hộ” cố định ở cái góc chợ xép ấy. Đó là một góc khuất sát với lối đi ra nơi vệ sinh công cộng. Xếp mấy cái sạp gỗ của các bà bán hàng khô cho gọn lại, lấy cái chổi phảy qua một lượt rồi lôi cái manh chiếu giấu kín trong khe tường ra, thế là có một cái ”giường” rộng chừng ba mét vuông, vừa chỗ nằm cho cả ba bà cháu. Cũng từ trong khe tường khuất, một tấm ni lông nhỏ được lôi ra, trong đó là một chiếc màn bằng vải xô, màu nước dưa, đã bị vá chằng đụp, nhưng vẫn còn dùng được. Góc chợ này muỗi nhiều như trấu, nên chiếc màn đụp này vừa là tấm bình phong chắn gió, vừa làm nhiệm vụ chống muỗi. Kể cả có một chỗ ngủ đêm như thế này, với bà cháu Quê đã là quá hạnh phúc rồi. Cũng là do cái tài “dân vận” của Quê với ông gác chợ. Thỉnh thoảng phải biếu ông ta một bao thuốc lá, thậm chí, nếu ông ta thích thì cũng phải “chiều” một tí. Đời có ai cho không ai cái gì bao giờ. Một góc chợ tồi tàn bẩn thỉu chẳng để làm gì, thế mà đều có giá hết.
- Cái con mẹ này đến là gàn - Đợi cho Quê dắt màn xong, nằm xuống cạnh cu Tẩm, bà cụ Nụ mới trở lại câu chuyện ban chiều - Tao nhìn thấy rõ hai tờ giấy năm nghìn của ông khách đeo đài ấn vào tay thằng bé. Mười nghìn, bằng đi xin cả một tuần chớ có phải ít đâu.
- Mẹ đến là tẩm - Cú Tẩm cũng phụ hoạ theo - Con thích cái ông đeo đài ấy. Mai con lại ra phố bia…
- Này dở hồn. Tao cấm - Quê bỗng phát bẳn lên - “Mẹ mìn” đấy có biết không? Lão ta chuyên rình bắt trẻ con để mang lên miền ngược bán. Bà nhỉ, có phải bọn mẹ mìn chuyên mang tiền để dỗ trẻ con phải không?
- Ừ, đúng lão ta là mẹ mìn. - Bà Nụ đã hiểu ý Quê.
- Ở trên mạn ngược có loại người chỉ thích mua trẻ con để nấu cao. Hôm qua ở ngoài ga có sáu đứa trẻ con bị bắt. Này, Tẩm, mẹ dặn nhé. Từ ngày mai không được đi qua phố bia nữa. Cứ vào trong công viên mà chơi. Có tiền đây rồi. Đủ sống nửa tháng.
- Ứ ừ. Con với bà cứ đi xin - Thằng cu Tẩm giãy nảy. Nó tin rằng bà cháu nó đang vào cầu, mỗi ngày cứ dạo qua phố bia một hai vòng cũng kiếm ăn được.
- Đừng có làm tôi điên tiết nhá. Tôi nói là phải nghe. Thôi, ngủ.
Cả ba cùng im được một lúc. Bà cụ Nụ chợt thở dài.
- Mẹ Tẩm này, chiều nay tao nghe đài. Vợ chồng nhà nó lôi cả tên tao lên đài…
- Vợ chồng nhà nào hả bà?
- Vợ chồng cái con Thoa với cái thằng Danh Vọng ấy mà. Ôi dào, rõ là đồ đạo đức giả. Cướp hết tài sản của mẹ, đánh đuổi mẹ đi mà bây giờ còn đám vác mặt lên đài nhắn tin tìm mẹ. Nghe mà lộn cả ruột. Tao thì nhổ vào cái đài ấy…
Quê đã hiểu ra câu chuyện của bà Nụ. Thì ra con gái và con rể bà nhắn tin trên đài để tìm mẹ.
- Này bà ơi, bà nên về với anh chị ấy. Thế là họ đã hối hận lắm rồi đấy. Mẹ con làm sao mà bỏ được nhau hả bà? Bà ở với mẹ con con ba tháng nay là chúng con biết rõ lòng tốt của bà rồi. Nhưng mẹ con con, không chốn nương thân, không còn mặt mũi nào để vác mặt về quê, thì nó đã đi một nhẽ. Màn trời chiếu đất, ăn mày đánh đĩ nhục lắm bà ạ.
Bà Nụ xoay người ôm thằng Tẩm vào lòng và bỗng khóc hu hu.
- Mày định đuổi tao đấy hả Quyên? Tao sống với mẹ con mày có đến nỗi nào. Ba bà cháu có khoai thì ăn khoai, có cháo thì ăn cháo. Tao thương thằng cu Tẩm như cháu mình…
- Ôi, bà không hiểu ý con rồi… Con đâu dám nghĩ đến chuyện đuổi bà. Chỉ nghĩ rằng bà ở với mẹ con con thì bà khổ. Lúc khoẻ đã vậy, còn khi trái gió trở trời, biết chui rúc vào đâu? Thế nên con nghĩ, tốt nhất là bà tha thứ cho chị Thoa. Bà nên về với chị ấy…
- Tao về để cho cái thằng chồng nó lại nhổ vào mặt rồi đuổi tao bước ra khỏi nhà à? Tao đã thề có giời có phật rồi. Thà chết đường chết chợ còn hơn là sống với vợ chồng nó. Cái thằng chồng thì thật là bất nhân. Lấy con gái người ta, dỗ dành người ta bán cả cửa nhà đem tiền cho nó mua đất xây nhà xây cửa. Thế rồi lật mặt, đuổi mẹ vợ ra khỏi nhà. Mà cái đứa con gái như thế thì cũng thật là đại bất hiếu. Nghe chồng vào hùa đuổi mẹ. Biết như thế thì hoài hơi mà đẻ cho nó rát l.
Mỗi lần nghe bà cụ Nụ nhắc lại gia cảnh, Quê lại thấy tê tái. Thật hiếm có một cuộc đời nào lại nhiều oan trái như bà. Chồng chết trong chiến dịch Điện Biên Phủ, khi đứa con gái duy nhất mới có hai tuổi. Bà ở vậy nuôi con, một mình xây dựng một cơ ngơi năm gian nhà ngói cây mít đàng hoàng. Rồi cưới chồng cho con gái. Anh chồng, một thanh niên nghèo kiết xác từ miền xuôi lên miền ngược khai hoang. Cưới xong anh ta đi bộ đội, rồi chuyển ngành, được về làm chân cung ứng vật tư của một công ty buôn bán. Do khéo xoay xoả móc ngoặc, năm sau anh ta xin cho vợ và hai đứa con cùng chuyển về cơ quan, được ăn gạo sổ. Bốn vợ chồng con cái từ quê thoắt một cái thành người thị thành, tiêm nhiễm nhanh chóng cái máu thị dân, coi người nhà quê như rác. Về thăm mẹ lần nào cô con gái cũng chê giường hôi chiếu bẩn, chưa tối đến đã như trong hũ nút. Rồi vợ chồng bàn soạn, rủ rê bằng được bà ra tỉnh. Bán thốc bán tháo nhà cửa, bán cả ba bụi tre ngâm, mười sáu cây soan vườn, cả lợn gà, thóc lúa, tổng cộng được ba cây vàng, bà Nụ đưa hết cho con gái, con rể rồi xách mấy bộ quần áo đi làm con ở cho vợ chồng nhà họ. Hai năm đầu không khí còn thuận hoà, mẹ con bà cháu ra chiều yên ấm lắm. Nhưng rồi, cùng với thời gian, ba cây vàng của bà Nụ cũng bị vợ chồng người con quên dần. Anh chồng được đề bạt chức vụ, lại móc nối được nhiều đường dây buôn bán nên giàu lên nhanh chóng. Không tuần nào trong nhà không có tiệc tùng. Vợ chồng ngồi chéo kheo cùng với khách để ba bà cháu còm cõi dưới bếp như những đứa ở. Có lần sợ ngượng với khách, Danh Vọng nói dối: bà là người hàng xóm trong quê ra giúp việc. Nghe thế bà Nụ tủi, bỏ ăn sang nhà hàng xóm hàng buổi. Tiệc tan, khách về, anh con rể bắt đầu sinh chuyện. Anh bảo bà cố chấp, không hiểu gì về lối sống mới, rằng bây giờ đồng tiền là trên hết, bố mẹ, con cái cũng chỉ là công cụ để phục vụ đồng tiền, rằng nếu bà không chịu được vợ chồng anh thì mời bà về. “Về đâu? Anh bảo tôi về đâu nữa? Tôi bán hết nhà cửa vườn tược để đi theo anh chị. Bây giờ anh chị định đuổi tôi ra đường à? “ “Đi ra đường cũng được chứ sao? Bà tưởng cái nhà to lắm hản? Ba năm qua một mình bà cũng ăn hết đến mấy cái nhà rồi… Đấy, bà xem còn cái gì của bà nữa thì mang đi…” Thế là bà Nụ đi thật. Bà chỉ mang theo mình cái tay nải với mấy bộ quần áo. Lang thang năm ngày suốt các ga tầu bến xe thành phố, đôi mắt sưng húp, khóc đến mờ đi. Rồi bà gặp mẹ con Quê cũng lang thang trên hè phố. Thương cảm hoàn cảnh bà cụ, Quê bảo: “Thôi, bà ở cùng với chúng con. Số phận con cũng chẳng ra gì. Mẹ con mất sớm… Bà hãy coi con như con đẻ và coi thằng Tẩm như cháu nội bà vậy". Ba tháng qua, phải nói rằng “gia đình” ấy sống rất thuận hoà. Quê đi kiếm tiền ở quanh bờ hồ, công viên, còn hai bà cháu làm thành một cặp bài lý tưởng - một bà già khốn khổ với một thằng bé côi cút - đi làm dịch vụ ăn xin.
☆☆☆
Có một người từ nãy tới giờ vẫn nấp sau cái phản bán thịt lợn ở gần đó và nghe trộm hầu như trọn vẹn câu chuyện của ba bà cháu Quê. Đó là Toại. Cả một buổi chiều và một buổi tối lần mò, cuối cùng ông đã tìm ra “nơi ở” của Quê. Tất nhiên để đến được đây, ông phải chi mất khá nhiều tiền cho bọn trẻ con đường phố, nhất là dân cùng bờ bụi như bà Nụ, chằng Tẩm, và lẽ đương nhiên cũng phải chi một khoản kha khá cho người gác chợ nữa.
Khi cái màn xô màu cháo lòng hiện ra lờ mờ trong ánh đèn điện bảo vệ hắt từ góc chợ vào, khi đã nhận ra trong cái màn nhuôm nhoam bẩn thỉu ấy là bóng ba người lờ mờ nhân ảnh, lòng Toại bỗng se thắt lại. Không ngờ cuộc đời đã đẩy mẹ con Quê đến cảnh khốn cùng này - Chính Toại, đúng, Toại là một trong những kẻ đã nhúng tay đẩy Quê tới cái xóm chợ này. Chao ơi, cái thằng bé nằm co quắp trong cái mớ giẻ rách kia chính là con của Toại mới thảm thương chứ. Không còn nghi ngờ gì nữa rồi. Nó giống Toại như đúc. Nó sinh đúng tám tháng sau ngày Quê bỏ đi khỏi lâm trường. Sáu năm qua nó thành một thằng bé ăn mày. Nó đi la liếm khắp hang cùng xó chợ. Ôi, thật là đau đớn, thật là thê thảm. Giàu có mà làm chi, quyền chức mà làm gì khi cái giọt máu suốt đời ta mơ ước bị vứt lăn lóc ra ngoài lề đường, bị thiên hạ coi như một thứ rác rưởi bẩn thỉu…
Trong cuộc đời, dường như đây là lần đầu tiên Toại mềm yếu với chính mình. Ông rời khỏi chỗ nấp với hai cẳng chân run rẩy như chực khuỵu xuống.
- Quê ơi… Đừng lẩn trốn tôi nữa… Cho tôi được nói câu chuyện…
Tiếng gọi của Toại rồi cái bóng đen của ông lừ lừ tiến lại khiến Quê giật thót người, vục ngồi dậy. Cả bà cụ Nụ và thằng Tẩm cũng vục ngồi dậy.
- Ông là ai? Ở đây không có ai là Quê - Tiếng Quê thảng thốt.
- Ông nhầm rồi. Không có quê hương nào ở đây đâu - Tiếng bà Nụ rành rẽ. Chính bà cũng tin rằng ông khách này nhầm.
- Quê đừng làm thế… Tôi đã đi tìm suốt buổi chiều nay. Hãy cho tôi được nói. Quê, tôi biết mình có tội lớn với hai mẹ con… Tôi là một kẻ khốn nạn. Lẽ ra tôi không nên vác mặt đến đây. Nhưng Quê hãy hiểu cho tôi… Hãy tha thứ cho tôi… Suốt mấy năm qua tôi đã cất công đi tìm. May mà trời đã xui khiến cho tôi được gặp em và con chiều nay.
- Kìa, tôi đã nói rồi, tôi không quen biết ông - Quê vén hẳn chiếc màn lên, giọng cô bỗng rung lên bởi một cơn uất giận đến nghẹn ngào. Như một cơn lũ vô hình, bao nhiêu tủi nhục, bao nhiêu đau khổ ê chề của những ngày qua bỗng dồn dập kéo đến. Chúng tạo thành một ngọn thác dựng đứng trước mặt Quê khiến cô hoàn toàn băng giá trước những lời lẽ sám hối một cách nhiệt thành của Toại.
- Ông nhầm mẹ con nhà nó với ai rồi - Bà Nụ giương cặp mắt mờ nhìn ông khách. Bà nhận ra chiếc đài đeo bên hông của ông - Hoá ra ông khách ở phố bia. Này ông, ông say rồi. Tôi nói để ông biết nhá. Mẹ con nhà nó là Quyên chứ không phải quê quán của ông đâu.
- Thưa cụ, con không say đâu. Con nhận ra cô ấy ngay từ lúc thoáng gặp… Quê ơi, em hãy tha lỗi cho tôi. Và cả con nữa, con hãy tha lỗi cho bố - Toại quì xuống, đưa hai bàn tay về phía thằng cu Tẩm.
- Kìa ông, ông đi ra đi - Cu Tẩm giẫy nẩy. Nó nép hằn người vào mẹ nó. - Ông đi đi. Ông say rồi.
- Bố cháu là Hiển cơ. Ông chỉ nhận vơ.
Hai bàn tay Toại bỗng nặng như đeo đá, rơi thõng xuống.
- Ông thấy đó, không ai quen biết gì ông cả… - Quê nói.
Toại bỗng bật lên một tiếng cười chua chát. Ông lắc đầu toan đứng dậy, nhưng dường như ông không thắng nổi cái sức hút của huyết thống mà ông linh cảm rất rõ rệt và chính nó đã dẫn dắt ông đến đây. Bây giờ thì lý trí hầu như không kìm giữ nổi. Ông nhoài người ôm ghì lấy thằng Tẩm, khiến nó bỗng hét lên, vừa dãy đạp vừa nhe răng cắn vào bắp tay ông đau điếng.
- Kìa, ông làm thằng bé chết khiếp lên mất - Quê giằng thằng Tẩm từ tay Toại - Ông đi đi không tôi kêu công an đến bây giờ.
Nước mắt giàn dụa, ông Toại vừa quì vừa thọc tay vào túi áo móc ra một bọc tiền.
- Thôi được. Cô cứ suy nghĩ lại đi. Đừng vì tự ái mà để cho thằng bé khổ. Tôi không thể để cho thằng bé đi ăn mày. Cô hãy cầm lấy ít tiền. Rồi tôi sẽ chuộc thằng bé, bao nhiêu cũng được.
Ông Toại đặt bọc tiền trước mặt ba bà cháu rồi đi. Món tiền lớn đến nỗi cả ba bà cháu đều bàng hoàng tưởng như trong mơ.
Thằng cu Tẩm bảo:
- Ông này vừa say vừa điên mẹ nhỉ.
- Ừ điên - Quê nói - Để mai mang trả ông ta.
- Ứ ừ. Không trả đâu. Đã bao giờ mẹ kiếm được số tiền thế này? Ông ấy điên thì cho ông ấy chết. Mai mẹ mang vào trong nhà giam cho bố có khi bố sớm được ra…
Quê ôm ghì lấy thằng Tẩm. Cô nhớ đến Hiển, người mà thằng Tẩm vẫn coi là bố đẻ chính thức của nó. Nó vẫn không hề hay biết rằng cái con người điên khùng vừa đến đây mới chính là người mà nó mang dòng máu.
- Ông ấy chỉ nhận vơ, mẹ nhỉ. Con chỉ có một bố Hiển thôi. Mai mẹ cho con vào thăm bố, mẹ nhé…
Quê gật đầu, nhưng rồi cô bỗng ôm ghì lấy cu Tẩm chặt hơn và lắc đầu quầy quậy: - Không. Không đi đâu cả. Mẹ chẳng cho con đi với ai đâu…