Chương IX
Thưa cán bộ, tên tôi là Nguyễn Văn Hiển, sinh năm 1954, trú quán tại số nhà X. phố Y.
Năm 1976, đang làm công nhân ở nhà máy cơ khí Z. thì tôi trúng tuyển nghĩa vụ quân sự, gia nhập quân đội. Tôi đã tham gia chiến đấu ở biên giới Tây-Nam, rồi biên giới phía Bắc. Năm 1979, trong một trận giữ chốt đường biên, tôi bị thương nặng. Một trong những vết thương mà cán bộ có thể thấy trên má tôi đây. Giá như viên đạn đi nhích lên phía trên vài phân nữa, có lẽ lại may mắn cho số phận của tôi. Cán bộ thấy không, vết đạn mà như một vết chém ngang mặt. Ai nhìn cũng bảo đó là một vết chém tặng cho một kẻ có quá nhiều tiền án tiền sự, chứ họ không nghĩ rằng đó là dấu tích của một người đã từng trải qua chiến tranh.
Năm 1980 tôi xuất ngũ với thương tích hai mươi tám phần trăm, được xếp loại thương binh. Nhà máy của tôi đang ở thời kỳ làm ăn khó khăn, lại giảm biên chế, nên người ta tìm mọi cách vận động tôi rời khỏi nhà máy. Tôi trở thành một kẻ thất nghiệp.
Cũng phải nói thêm rằng bố tôi vốn là một nhà tư sản cũ của Hà Nội. Năm 1954, đúng năm tôi đẻ thì bố tôi chạy vào Nam. Mẹ tôi là vợ kế của ông và chỉ có mình tôi là con trai. Tôi có hai người anh và một chị gái nữa khác mẹ còn ở lại Hà Nội. Cho tới trước ngày tôi xuất ngũ trở về, không khí gia đình tôi tương đối hoà thuận. Các anh chị tôi đối xử với mẹ tôi và tôi tuy không thân thiện nhưng cũng chẳng quá tệ bạc.
Cũng năm 1980, bố tôi từ Sài Gòn di tản sang Mỹ theo con đường hợp pháp. Trước khi đi, ông có viết cho mẹ tôi một tờ giấy thừa kế gia sản. Theo tờ giấy này, ngoài hai ngôi nhà đã hiến cho nhà nước năm 1956, ngôi nhà còn lại mà mẹ tôi và các anh chị tôi đang ở, được phân chia đều cho các con cái. Lúc ấy mẹ tôi đang ở gian nhà hầm dưới tầng trệt, ngay sát mặt đường, các anh chị tôi ở trên tầng lầu. Cách phân chia chỗ ở như thế này những năm trước đó rõ ràng là mẹ tôi đã cố ý giành phần thuận lợi nhất cho các anh chị tôi rồi. Bởi vì hồi ấy, tất cả đều là cán bộ, ai cũng muốn ở tầng trên cho sạch sẽ, yên tĩnh, tránh bụi bặm. Các gia đình ở tầng một đâu có biết trổ cửa buôn bán như bây giờ, mà suốt ngày phải đóng cửa im ỉm vì quá bụi và ồn.
Mối bất hoà bắt đầu nảy sinh từ ngày mẹ tôi có cái giấy phân quyền thừa kế tài sản ấy. Đang có phong trào buôn bán. Ai có cửa hàng, ai chiếm được mặt đường là người đó có cơ hội làm giàu. Hai ông anh tôi đều có ý định chiếm gian nhà dưới từ lâu. Lúc này ý định đó càng trở nên bức xúc. Công việc đầu tiên là họ tìm mọi cách chiếm lấy tờ giấy phân quyền thừa kế mà mẹ tôi đang giữ. Họ đạo diễn một vụ trộm. Thế là cái bằng chứng hợp pháp của bố tôi để lại đã lọt vào tay họ.
Như tôi đã thưa với cán bộ, sau khi đi bộ đội về, tôi trở thành kẻ thất nghiệp. Không còn cách nào giúp mẹ, tôi bàn với mẹ tôi mở một hàng nước để mẹ tôi kiếm sống. Riêng tôi, nhờ bạn bè giúp một số tiền, tôi mua một chiếc xích lô, hàng ngày chở hàng thuê cho các cửa hàng mậu dịch và đón khách ở các nhà ga, bến xe.
Một đêm đi làm về khuya, tôi gặp một cô gái lang thang trên đường. Tôi nhớ, đêm ấy là một đêm gió mùa đông bắc. Trời mưa lâm thâm và gió lạnh hun hút. Những bóng điện đường đỏ quạch và run rẩy trong bụi nước. Cô gái chỉ mặc phong phanh một chiếc áo mỏng. Hỏi chuyện, tôi biết cô không có tiền, không người thân thích trong thành phố. Tôi đem lòng thương cảm, đưa cô về nhà. Một tuần sau cô gái ấy chính thức trở thành vợ tôi, đó là Quyên mà cán bộ đã biết.
Cái duyên số đã gắn bó tôi với Quyên như thế. Thực ra hồi ấy tôi là một chàng trai chưa vợ, tuy không có nghề nghiệp tử tế nhưng công việc đạp xích lô cũng chẳng phải là một việc gì quá tồi tệ. Tôi có thể lấy được một cô vợ xinh xẻo hơn, hoặc là có một nghề nghiệp hẳn hoi. Nhưng tôi nghiệm ra hình như đó là định mệnh của mình. Chúng tôi yêu nhau. Mẹ tôi cũng tỏ ra thương và hợp với tính cách cô ấy. Những tháng đầu cô ấy giúp mẹ tôi bán hàng, làm các công việc nội trợ. Hơn bẩy tháng sau, Quyên đẻ một đứa con trai. Mọi người bảo rằng đó không phải là con tôi. Nhưng tôi không coi điều ấy là quan trọng. Chúng tôi đặt tên cháu là Tâm, tên thường gọi ở nhà là cu Tẩm.
Thưa cán bộ, tôi nghĩ rằng chúng tôi sẽ sống hạnh phúc, nếu các anh chị tôi không đối xử với mẹ con tôi tàn ác đến thế.
Ông anh cả tôi có một bà vợ có thể gọi là một con quỷ cái. Vâng. Không có một danh từ nào gọi mụ ta xác đáng hơn thế. Mụ ta tên là Quì, nhưng xin phép cán bộ từ lúc này cho tôi gọi là Quỉ. Quỉ vốn là một nhân viên bán hàng thực phẩm của mậu dịch.
Những năm nhà nước còn bao cấp, tất cả hàng hoá đều phải mua bằng tem phiếu, mụ ta sống như tiên. Ngày nào sau ca bán hàng mụ cũng mang về vài cân thịt, vài cân cá thu loại ngon nhất. Mụ ta thu các ô phiếu rời của các con phe, rồi tuồn hàng cho bọn chúng. Mụ cân điêu cho khách hàng để rút phần tiêu chuẩn của họ mang về nhà. Lương của anh chồng giáo viên mỗi tháng chỉ vài chục bạc, không đủ hút thuốc. Tất cả mọi sinh hoạt gia đình do mụ lo liệu hết.
Nhưng rồi trước sau quỉ vẫn là quỉ. Mụ dính vào một vụ tham ô lớn và bị sa thải.
Vốn máu con buôn, sau khi bị mất việc làm, mụ Quỉ nghĩ tới chuyện bằng mọi cách phải chiếm ngay gian nhà tầng trệt. Mụ bàn bạc với chồng, bàn bạc với các em chồng. Ít lâu sau có một cái đơn gửi lên toà án vu lên rừng mẹ tôi không phải là vợ kế của bố tôi, và tôi không phải là con do ông đẻ ra. Anh cả tôi còn về tận nhà quê, gặp các bà cô bà dì còn sống vận động họ lấy điểm chỉ của họ chứng nhận rằng mẹ tôi chỉ là người ở trong nhà, lợi dụng lúc bố tôi chuẩn bị chạy đi Nam để nhận xằng là vợ kế với mục đích muốn chiếm đoạt tài sản của ông để lại.
Không kịp đợi toà xét xử, họ hùa nhau đuổi mẹ con tôi ra đường. Họ vu chuyện Quyên là cô gái lưu manh trộm cắp ngoài đường được tôi nhặt về nhằm bêu riếu họ hàng. Những ngày ấy chúng tôi sống hết sức cực khổ. Gian hàng của mẹ tôi bị đập phá. Chiếc xích lô của tôi bị bẹp dúm. Quê bị đánh đập thâm tím đến cạn nguồn sữa cho con bú. Có tuần cả nhà không còn một đồng xu, không còn một hạt gạo.
Thế rồi bi kịch bắt đầu ập đến. Thưa cán bộ. Cán bộ có thể tưởng tượng được không? Một đêm Quyên bỏ nhà ra đi. Tôi bế thằng bé đi tha thẩn các phố tìm nhưng đều bặt vô âm tín. Đến ngày thứ ba cô ấy về nhà, trên người khoác một bộ đồ mới, lông mày, mi mắt kẻ chì than, má và môi thoa son đến mức tôi ngỡ như một cô gái xinh đẹp nào đó, không thể nhận ra. Cô ta ào đến bế thằng cu Tẩm, ào vào lòng tôi, xoè ra một xấp tiền và bỗng oà khóc nức nở. Tôi không kịp hỏi mà chỉ ngỡ ngàng về những thay đổi khác thường của cô ấy. Lúc sau cô ấy ôm riết lấy tôi, lạy van tôi như tế sao và kể ra tuồn tuột những công việc cô ấy đã làm trong mấy ngày qua. Trời ơi, cán bộ có tưởng tượng được không? Bốn ngày vừa qua cô ấy làm những việc gì? Ngày đầu tiên cô ấy đến gánh nước, nắm than và rửa bát cho một hiệu phở. Công việc nặng nhọc này cô ấy vốn quen làm, nên dẫu suốt ngày quần quật, Quyên vẫn mừng thầm vì đã kiếm được một công việc để may ra có một ít tiền nuôi chồng con. Cô ấy bảo: “Có một bà ở nông thôn ra làm công cho hiệu phở này hai tháng nhưng vừa bị nồi nước phở đổ vào người. Thật may cho em. Em khoẻ mạnh, lại nhanh nhẹn nên ông bà chủ có vẻ quí em lắm”. Sang ngày thứ hai, vào lúc xế chiều có một ông khách đến ăn phở. Ông ta trạc ngoài năm mươi tuổi và hình như là một khách quen. Suốt từ lúc bước vào hàng, ông ta cứ nhìn Quyên chằm chằm, nhìn suốt từ đầu tới chân, hệt như một gã buôn bò ngắm nghía, soi mói từng bộ phận của con bò mộng. Ông ta trao đổi với chủ quán phở một lúc lâu rồi gọi Quyên ra một góc riêng và bảo: “Tôi đã để ý tới cô từ hôm qua. Cô khoẻ mạnh, nhanh nhẹn lại ưa nhìn, làm cái công việc gánh nước rửa bát này nó phí người đi. Người như cô, tôi biết rất cần tiền, nhưng kiếm đồng tiền một cách thanh thản nhẹ nhàng vẫn hơn chứ. Tôi có một cửa hiệu cà phê nhưng đang thiếu người bán. Nếu cô ưng thì tôi sẽ trả tiền công gấp ba quán phở này. Mà là trả tiền ngay. Ngày nào sào ngày ấy”. Quyên bảo: “Nhưng mà cháu đã chót nhận làm cho hiệu phở này rồi. Giá mà ông nói trước…” Ông kia cười xoà: “Tôi đã trao đổi với ông bà chủ ở đây rồi. Chỗ tôi với bên này đều là anh em cả. Cô đừng có băn khoăn gì cả. Nào, đi sang quán cà phê của tôi ngay bây giờ.” Thế là Quyên chuyển sang quán cà phê ngay bên kia đường.
Thưa cán bộ, đó là một quán cà phê xanh như lâu nay người ta vẫn thường gọi. Một quán cà phê bình thường như bao quán cà phê khác, nghĩa là phía ngoài mặt phố chỉ có một khoảng sân rộng kê những chiếc bàn nhỏ và những chiếc ghế mây thấp được ngăn thành những ô kín đáo. Nhưng phía bên trong mới thực sự là nơi kinh doanh chính của chủ quán. Ba căn buồng rộng được ngăn thành những khoang biệt lập. Mỗi khoang đều có giường, bàn nhỏ và tủ gương. Khách đã vào đây, dù ban ngày hay ban đêm đều được phục vụ theo sở thích, miễn là có nhiều tiền.
Ngay từ lúc bước vào quán, Quyên đã được bà chủ gọi vào phòng trong, đưa cho một bộ đồ xoa mới cùng với đồ lót, xà phòng thơm ca-may bảo đi tắm gội sạch sẽ. Rồi ông chủ gọi lên tầng hai và bảo: “Công việc ở bên này nhàn nhã và sạch sẽ hơn bên quán phở nhiều. Làm ở đây, cơm nuôi ngày ba bữa, quần áo chúng tôi may, lại thêm son phấn… mỗi tháng cô còn được trả thêm hai trăm ngàn. Đó là chưa kể tiền thưởng của khách… Yêu cầu duy nhất đối với cô là phải tuyệt đối chiều khách, coi khách hàng là thượng đế. Phải học cách ăn nói cho vừa lòng khách. Phải học cách đi đứng cho duyên dáng khêu gợi… Đây, tiền tạm ứng trước cho cô một tháng. Cô nhận tiền và ký vào tờ giấy này.”
Thưa cán bộ, đó là một tờ giấy vay nợ. Nội dung tờ giấy viết ông bà chủ quán cà phê cho Quyên bay hai cây vàng. Người vay sẽ phải trả bằng cách hàng tháng làm công cho đến khi nào thanh toán xong tiền công nợ. đọc qua tờ giấy, Quyên sợ hãi không dám ký. Ông chủ lại bảo: “Cô đừng ngại. Sở dĩ phải làm thế này cho đúng thủ tục. Chứ tôi bắt cô vay nợ làm gì. Thôi tuỳ cô, cô có cần tiền tiêu bây giờ thì hãy ký vào”. Xấp giấy hai trăm ngàn cứ dập dình trước mặt. Nghĩ tới một món tiền lớn có thể giúp chồng con vượt qua những ngày khốn quẫn, Quyên đành nhắm mắt ký liều. Ông chủ đút tờ giấy vào túi vào nói: “Từ giờ cô là người của chúng tôi. Phải hoàn toàn phục tùng chúng tôi. Cô sẽ có một cái tên mới là Tuyết Lan. Ngoài việc chạy bàn, cô sẽ phải tiếp khách, cả ban đêm lẫn ban ngày… Trước mắt trong một tuần đầu, cô không được đi đâu ra khỏi nhà. Có ai hỏi cô cứ nhận là cháu gái tôi ở trong quê ra phụ giúp chú. Ở đây nhàn nhã, nhưng mà rất có kỷ luật. Nếu cô vi phạm những điều tôi đã căn dặn thì thằng Thiết Cật kia nó sẽ không để cho cô yên đâu…” Thiết Cật chính là gã vệ sĩ của lão chủ có đôi mắt và bộ mặt hung ác suốt ngày lầm lì như một cái bóng. Gã được chi lương riêng chỉ để làm công tác bảo vệ, canh chừng công an và giám sát các cô gái phục vụ ở trong quán.
Thưa cán bộ, thế là ngay tối đầu tiên Quyên đã phải bán mình. Đến chiều ngày thứ ba, không thể chịu được cảnh xa con, xa chồng, Quyên đành phải trốn về nhà. Cô ấy kể hết cho tôi nghe cảnh ngộ mấy ngày qua, và bảo: “Anh có giết em bây giờ em cũng cam chịu. Nhưng bây giờ thì chẳng còn cách nào khác. Cuộc đời đã đẩy em và anh đến bước đường này thì cũng đành phó mặc. Hoặc là anh bắt em chết bây giờ, hoặc là lão chủ quán sẽ sai thằng Thiết Cật đến đây để giết em, nếu em bỏ trốn…”.
Cán bộ ơi, lúc ấy tôi như muốn hoá điên. Tôi vò tập tiền đến nhàu nát và với lấy con dao định băm vằm cô ấy ra. Nhưng con tôi khóc thét lên. Và mẹ tôi nằm ở góc nhà bỗng lên một cơn đau đột ngột. Thế là tôi ngồi rũ ra, bất lực
Không còn cách nào khác, mấy ngày sau, chính tôi phải dùng chiếc xe đạp tàng lai cô ấy đi hành nghề. Tôi đưa cô ấy đến quán cà phê, rồi chui vào một quán nước uống rượu. Cho tới nửa đêm, khi cô ấy làm xong công việc, tôi lại lai cô ấy về nhà. Có đêm có gã khách sộp nào đó muốn ngủ qua đêm với cô ấy, tôi đành về nhà một mình. Những đêm như thế thường tôi mua một chai rượu để tự hành hạ mình cho tới sáng.
Sống nhơm nhếch như thế, nhưng nào chúng tôi có được yên. Toà án liên tục gọi mẹ con tôi lên hầu kiện. Một vài kẻ ăn đút lót liên tục đến gây sức ép đuổi mẹ con tôi ra đường. Mụ Quỉ ngày nào cũng hắt nước bẩn, đổ chất thải xuống cửa nơi chúng tôi ở. Một hôm nhân lúc tôi đi vắng, mụ thuê một bọn du côn đến hành hung bà cụ. Chiều ấy uất quá, bà cụ đã uống thuốc sâu tự tử…
Thưa cán bộ. Cái chết của mẹ tôi khiến tôi suy sụp. Đến lượt vết thương tái phát khiến tôi nằm bẹp ở nhà. Người duy nhất có thể nuôi sống gia đình là Quyên. Bây giờ thì cô ta phải đi hành nghề một mình. Cô ta làm điếm để nuôi cả nhà.
Chưa đạt được mục đích, mụ Quỉ vẫn chưa chịu buông tha. Hôm cúng một trăm ngày mẹ tôi, mụ ấy xuống lôi bát hương quăng ra đường. Mụ ấy sai con đánh đuổi mẹ con Quyên ra khỏi nhà. Không còn chịu được nữa, tôi vớ con dao rựa nhảy chồm từ trên giường xuống bổ cho mụ ta mấy nhát. Người ta đưa mụ Quỉ đi cấp cứu, còn tôi thì bị bắt đến đây… Thế là mục đích của vợ chồng mụ Quỉ đã đạt được. Tôi vào nhà giam, mẹ con Quyên tất phải ra đường. Nghe đâu cái nhà tầng trệt ấy bây giờ đã trở thành một của hàng kinh doanh vàng bạc.
Thưa cán bộ, cuộc đời như thế đó. Ít ra tôi còn được sống trong một gian nhà như thế này. Còn mẹ con Quyên, cán bộ có biết cô ấy hiện sống ở đâu không?