- 3 -
Nhưng, những trò tinh nghịch của tôi và chị Giamilia đã dẫn đến một kết cục rất đáng buồn. Trong số bao tải chúng tôi dùng để chở thóc ra ga, có một bao to lắm, đựng được đến bảy pút* thóc, làm bằng vải len thô. Thường thì phải cả tôi và chị Giamilia mới khuân được tải thóc ấy, chứ một người thì không kham nổi. Thế rồi lần ấy, ở sân đập, chúng tôi định trêu Đaniyar một vố. Chúng tôi khuân tải thóc to tướng ấy lên xe briska của anh, rồi chất những tải khác lên trên. Lúc đi qua một làng Nga, tôi với chị Giamilia chạy vào trảy táo ở một khu vườn nhà ai không rõ và chúng tôi cười đùa suốt dọc đường. Chị Giamilia lấy táo ném vào Đaniyar. Rồi như mọi lần, chúng tôi cho xe vượt lên trước, để lại đám mây bụi mù mịt. Mãi đến lúc qua khỏi hẽm núi, chỗ đường xe lửa chạy ngang qua đường cái, anh mới đuổi kịp chúng tôi: lúc ấy đường bị chắn. Từ đây, chúng tôi cùng ra ga, và thế quái nào mà chúng tôi quên bẵng mất tải thóc bảy pút, mãi đến lúc đổ thóc gần xong chúng tôi mới nhớ ra. Chị Giamilia tinh nghịch huých khuỷu tay vào sườn tôi và hất hàm về phía Đaniyar. Anh đứng cạnh xe briska, lo lắng nhìn bao tải, rõ ràng đang suy tính xem nên xoay xở cách nào đây. Rồi anh đưa mắt nhìn quanh và thấy Giamilia đang cười rũ ra, mặt anh đỏ rừ: anh đã hiểu đầu đuôi sự tình.
- Thắt chặt quần lại, không thì nửa đường tụt mất đấy! - Giamilia kêu to bảo.
Đaniyar ném một cái nhìn dữ tợn về phía chúng tôi, và chúng tôi chưa kịp nghĩ lại thì anh đã vần tải thóc trên đáy xe, dựng nó vào thành xe, rồi anh nhảy xuống đất, một tay giữ lấy, vác lên lưng và đem đi. Thoạt đầu, hai chị em tôi làm như không có gì đặc biệt. Những người khác thì đương nhiên lại càng không để ý gì đến chuyện ấy: một người vác bao tải thóc cũng như mọi người. Nhưng khi Đaniyar tới gần cầu ván. Giamilia đuổi kịp anh:
- Bỏ tải thóc xuống, tôi đùa đấy mà!
- Xê ra! - anh nói dằn giọng và bước lên cầu.
- Xem kìa, anh ta vác được đấy! - Giamilia thốt lên, như để tự bào chữa.
Chị vẫn cười khe khẽ, nhưng tiếng cười có vẻ gượng gạo, như thể chị ép mình phải cười.
Chúng tôi để ý thấy Đaniyar mỗi lúc một tập tễnh nhiều hơn ở bên chân bị thương. Sao chúng tôi không nghĩ đến chuyện ấy từ trước nhỉ? Cho đến bây giờ tôi vẫn không thể tha thứ cho mình cái trò đùa dại dột đó, bởi vì chính cái thằng tôi ngu ngốc đã bầy ra cái trò tai ác ấy!
- Quay lại đi! - chị Giamilia thét gọi qua tiếng cười không vui.
Nhưng Đaniyar không thể quay trở lại nữa: sau lưng anh đã có những người khác đang lên theo.
Tôi không còn nhớ rõ tiếp đó sự thể ra sao. Tôi thấy Đaniyar còng người dưới tải thóc khổng lồ, đầu cúi thấp, môi mím chặt. Anh bước chậm chạp, thận trọng nhấc bên chân bị thương. Rõ ràng mỗi bước đi đều làm anh đau đớn đến nỗi anh ngoẹo đầu đi và đứng lặng giây lát. Và càng leo lên cao trên cầu ván, anh càng loạng choạng hơn. Tải thóc làm anh lảo đảo. Còn tôi thì khiếp sợ và xấu hổ đến nỗi khô rát cả cổ họng. Kinh hãi đến ngây người, tôi cảm thấy bằng mọi đường gân thớ thịt cái sức nặng anh mang trên lưng và sự đau đớn không sao chịu nổi trong cái chân bị thương của anh. Kìa, anh lại lạng người đi, đầu ngật mạnh, thế là trước mắt tôi mọi vật đều tròng trành, tôi sầm lại, mặt đất chuồi đi dưới chân tôi.
Tôi chợt tỉnh, thoát khỏi trạng thái sững sờ khi có người nào bóp mạnh tay tôi, đến nỗi tôi cảm thấy nhức buốt trong xương. Tôi không nhận ra ngay chị Giamilia. Mặt chị trắng bệch, tròng con ngươi thao láo trong đôi mắt mở to, môi vẫn còn run run sau lần cười mới rồi. Liền đó, không chỉ riêng hai chị em tôi, mà tất cả những người có mặt ở đấy, kể cả người thu nhận thóc cũng chạy đến chân cầu ván. Đaniyar bước thêm hai bước nữa, muốn xốc lại tải thóc trên lưng cho cân, và anh từ từ quỳ một chân xuống. Giamilia đưa hai tay lên bưng mặt.
- Vứt xuống! Vứt xuống! - chị gào lên.
Nhưng không hiểu sao, Đaniyar không vứt tải thóc, mặc dù đã từ lâu anh có thể quẳng nó sang mé bên cầu ván cho rơi xuống đất, để nó khỏi xô ngã những người đi sau. Nghe thấy tiếng Giamilia, anh dướn người lên, đứng thẳng chân, bước thêm bước nữa, và lại bị loạng choạng.
- Vứt nó xuống, đồ chó đẻ! - người nhận thóc quát ầm lên.
- Vứt xuống! - mọi người la thét.
Lần này Đaniyar cũng vẫn trụ vững.
- Không, anh ta không chịu vứt xuống đâu! - có người thì thào, giọng cả quyết.
Dường như hết thảy mọi người, cả những người đi trên cầu ván sau lưng anh cũng như những người đứng ở dưới đều hiểu rằng anh không chịu quăng tải thóc xuống, trừ phi anh lộn cổ xuống cùng với nó. Bầu không khí yên lặng như tờ. Sau bức tường, phía bên ngoài, chiếc đầu máy xe lửa giật giọng thét còi.
Còn Đaniyar lảo đảo, như không còn nghe thấy gì hết, vẫn leo lên cao, đến gần cái mái tôn nóng bỏng, những tấm ván cầu cong oằn đi dưới chân anh. Cứ leo được hai bước anh lại dừng, mất thăng bằng, và lại lấy sức bước tiếp. Những người đi phía sau cùng cố theo cho hòa nhịp với anh, anh dừng họ cũng dừng. Lên cầu dốc mà đi như thế thật là mệt họ dần dần kiệt sức, nhưng không ai cáu, không ai la mắng anh. Như bị ràng buộc với nhau bằng sợi dây vô hình họ vác cái vật nặng của mình leo lên, như đi trên con đường mòn nguy hiểm, trơn chuội, ở đó sinh mạng người này gắn liền với sinh mạng người kia. Cái yên lặng hòa đồng và đã chao đảo đơn điệu của họ tuân theo một nhịp điệu duy nhất nặng nề. Một bước, lại một bước nữa theo Đaniyar, rồi lại bước nữa. Một chị vợ bộ đội đi ngay sau anh đã nhìn anh với biết bao thương cảm, răng nghiến chặt chị cầu nguyện cho anh! Bản thân chị đã lê chân không nổi, nhưng chị cầu nguyện cho anh.
Chỉ còn chút xíu nữa là hết phần dốc của cầu ván. Nhưng Đaniyar lại loạng choạng, cái chân bị thương không còn tuân theo ý anh nữa. Anh sẽ ngã lộn nhào ngay bây giờ, nếu không buông tải thóc ra.
- Chạy lên mau! Đỡ sau lưng anh ấy! - chị Giamilia thét bảo tôi, còn chị hốt hoảng giơ hai tay ra như thể hành động đó có thể giúp gì cho Đaniyar.
Tôi băng mình chạy lên cầu ván. Len qua hàng người và bao tải, tôi chạy đến chỗ Đaniyar. Anh nhìn tôi qua khuỷu tay. Trên vầng trán ướt đẫm mồ hôi, sầm tối của anh nổi hằn lên những đường mạch máu, mắt anh đỏ ngầu như muốn đốt cháy tôi bằng ngọn lửa giận. Tôi toan đỡ lấy tải thóc.
- Lui ra! - Đaniyar nạt nộ bằng giọng khàn khàn và tiếp tục bước lên.
Khi Đaniyar thở hồng hộc, khập khiễng bước xuống cầu ván, hai tay anh buông thõng như hai chiếc roi. Mọi người lẳng lặng tránh lối cho anh đi, còn người thu nhận thóc không nén nổi, gắt lên:
- Này, anh hóa rồ rồi đấy hả? Chẳng lẽ tôi không phải là người hay sao, đâu có phải tôi không cho anh đổ thóc ở bên dưới? Ai bảo anh đi vác tải thóc nặng như thế?
- Đấy là việc của tôi, - Đaniyar khẽ đáp.
Anh nhổ bọt sang một bên, rồi đi đến xe của mình. Còn tôi và chị Giamilia không dám ngước mắt nhìn lên. Chúng tôi vừa xấu hổ vừa giận Đaniyar đã quá chấp nhặt cái trò đùa dại dột của chúng tôi.
Suốt đêm hôm ấy, chúng tôi lặng lẽ đánh xe đi. Đaniyar thì vốn dĩ vẫn như vậy. Vì thế chúng tôi không thể hiểu được anh có giận chúng tôi không, hay đã quên hết rồi. Nhưng chúng tôi khổ tâm, lương tâm dày vò.
Buổi sáng, khi chúng tôi đóng thóc vào bao ở sân kho, chị Giamilia cầm lấy cái bao tải ác hại ấy, dẫm một chân lên miệng bao và xé đánh roạt một cái.
- Đây, giả chị cái của nợ này! - chị quẳng cái bao tải xuống chân chị cân thóc, khiến chị ta sửng sốt. - Và nói với đội trưởng là lần sau đừng có nhét những cái bao như thế cho người ta!
- Nhưng chị làm sao thế? Có chuyện gì vậy?
- Chẳng sao cả.
Suốt ngày hôm sau, Đaniyar không hề tỏ ra giận dỗi, anh vẫn thản nhiên và lầm lì, duy chỉ tập tễnh hơn mọi khi, nhất là khi vác tải thóc. Hẳn là sau cái việc hôm qua, vết thương anh lại tấy lên dữ dội. Điều đó luôn luôn nhắc cho chúng tôi nhớ rằng chúng tôi có lỗi với anh. Giá như anh cười hoặc nói đùa thì tình thế sẽ dịu đi, mối bất hòa giữa chúng tôi sẽ nhòa dần.
Giamilia cũng làm ra vẻ như không có chuyện gì khác thường. Bản tính kiêu hãnh, chị vẫn cười, nhưng tôi thấy suốt ngày chị bứt rứt trong lòng.
Lần ấy, khi chúng tôi rời ga ra về thì trời đã tối. Xe Đaniyar đi trước. Đêm đẹp huyền ảo. Ai mà không biết những đêm tháng Tám, sao trên trời xa xăm muôn trùng mà lại như rất gần, rực rỡ lạ thường! Từng ngôi rõ mồn một. Đây kia, một ngôi như viền sương giá, lấp lánh những tia sáng lạnh buốt, từ trên bầu trời tối thẫm nhìn xuống trái đất, đầy vẻ ngạc nhiên thơ ngây. Xe chúng tôi đi trong khe núi, và tôi ngắm nhìn ngôi sao mãi không dứt. Ngựa trên đường về thích thú phi nước kiệu, sỏi rào rạo dưới bánh xe. Gió từ thảo nguyên đưa lại mùi phân đăng đắng của ngải cứu đang nở hoa lẫn với hương thơm thoang thoảng của lúa mì chín đang nguội đi, tất cả nhũng cái đó hòa với mùi hắc ín và mùi dây thắng xe đẫm mồ hôi ngựa làm cho đầu óc tôi hơi choáng váng.
Một bên đường, trên đầu chúng tôi lơ lửng những vách đá rợp bóng những bụi tầm xuân, um tùm, còn bên kia đường xa xa về phía dưới, giữa những bụi liễu và những cây dương nhỏ mọc hoang dại, con sông Kurkurêu không hề biết ngừng nghỉ xô sóng ầm ầm. Thỉnh thoảng, ở nơi nào phía sau, có tiếng ầm ầm xuyên suốt không gian: đấy là những đoàn tầu băng qua cầu và mỗi lúc một rời xa, cuốn theo hồi lâu tiếng gõ đều đều của bánh xe.
Ngồi trên xe lúc trời mát mẻ, mắt nhìn lưng ngựa nhấp nhô, tai lắng nghe đêm tháng Tám, thở hít hương đêm thơm thơm, thực thú vị biết bao! Xe chị Giamilia đi trước. Chị thả lỏng giây cương, mắt nhìn hai bên và khe khẽ cất tiếng hát. Tôi hiểu chị: sự im lặng của chúng tôi gây cho chị cảm giác nặng nề. Vào một đêm như đêm nay, người ta không thể im lặng, cái đêm như đêm nay khiến người ta tự dưng muốn ca hát!
Và chị cất tiếng hát. Chị hát có lẽ còn là vì chị muốn làm cách nào cho quan hệ của chúng tôi với Đaniyar trở lại hồn nhiên như trước kia, chị muốn xua tan cái cảm giác chị có lỗi với Đaniyar. Tiếng hát của chị âm vang, sôi nổi, chị hát những bài ngắn vẫn lưu truyền trong bản, đại loại như: “Em vẫy chiếc khăn hồng nhắn nhủ anh yêu” hay “Người yêu tôi trên nẻo đường xa xăm muôn dặm”. Chị biết vô khối bài ca như thế, và chị hát bằng giọng chất phác, chân tình, nghe thật dễ ưa. Nhưng đột nhiên chị ngừng bặt và gọi to bảo Đaniyar:
- Này, anh Đaniyar, anh hát một bài gì đi chứ! Anh có phải là gighit hay không đấy?
- Chị cứ hát đi, Giamilia, cứ hát đi! - Đaniyar ghìm ngựa lại, lúng túng đáp. - Tôi vẫn nghe chị hát đây, dỏng cả hai tai lắng nghe đây.
- Thế anh tưởng chúng tôi không có tai chắc? Rõ chán, không muốn hát thì thôi vậy! - và chị Giamilia lại cất tiếng hát.
Nào ai biết vì sao chị lại bảo Đaniyar hát? Có lẽ đây chỉ là chuyện bình thường thôi, mà cũng có thể là chị muốn bắt chuyện với anh chàng? Thực ra chị muốn nói chuyện với Đaniyar thì đúng hơn, bởi vì lát sau chị lại lớn tiếng gọi: “Này anh Đaniyar ơi, anh đã từng yêu bao giờ chưa?” - và chị phá lên cười.
Đaniyar không trả lời gì hết. Giamilia cũng nín thinh.
“Lại đi bảo cái anh chàng ấy hát kia chứ, rõ khéo ỡm ờ!” - tôi cười mỉa.
Tới chỗ con suối nhỏ cắt ngang đường cái, ngựa nện vó lộp cộp trên những phiến đá ẩm ướt, óng ánh bạc, đi chậm lại. Khi chúng tôi qua chỗ suối cạn. Đaniyar quất roi thúc ngựa và bất chợt cất tiếng hát, giọng anh ngỡ ngàng, giật nảy lên ở những chỗ xe qua ổ gà:
Ôi những giải núi xanh
Ẩn mình sau tuyết trắng
Đời đời mảnh đất cha ông!
Hát đến đây, đột nhiên anh ngập ngừng, húng hắng ho, nhưng rồi lại hát tiếp hai câu sau bằng một giọng sâu lắng phát ra từ lồng ngực, tuy thực ra có hơi khàn khàn:
Ôi những giải núi xanh
Ẩn mình sau tuyết trắng
Tấm nôi mềm nuôi dưỡng đời ta.
Rồi anh lại nghẹn lời, như sợ hãi điều gì, và im bặt.