← Quay lại trang sách

CÔ PHONG

Sư bà động Trầm đổ gục bên gốc lim.

Chiếc tay nải màu nâu khoác chéo qua ngực bà.

Sư bà vẫn chưa hết lợm giọng khi nhớ lại quang cảnh lão pháp sư và lũ đệ tử nhảy múa làm lễ trừ tà đuổi quỷ trong cung cấm. Gương mặt độc ác, biến dạng của Thái bảo Lý Trác, Hoàng hậu Lệ Thiên và đám phi tần hả hê trước cung nữ Ngạn La chịu cực hình. Và vua Thần Tông, dưới hình hài một con hổ vằn vện từ trên long sàng lết bốn chân đến bên sư bà, lời kêu cứu thống thiết:

- Sư bà, xin hãy tìm đường cứu ta!

Lúc đó sư bà đã ngất đi.

Khi tỉnh lại, sư bà thấy có ai đó đang mơn man thoa vuốt đôi tay bị dây trói cứa nát của mình. Sầu dung mãn diệt. Bây giờ, sư bà mới thấy, trên trán người ấy có nốt ruồi. "Chao ôi! Nghiệt duyên!".

Lần đầu tiên, kể từ khi gặp Ngạn La, lòng sư bà trào lên nỗi thương xót cô gái xa lạ. Dung nhan của cô ta đầy vẻ cô tịch. Xa xăm quá trong thế giới này. Một người tưởng đã dứt lòng trần như bà mà thoạt đầu mới gặp Ngạn La cũng đã giật mình. Biết con người này xuất hiện ở đâu, muôn ngàn người xung quanh cô ta trở nên vô hình vô dạng. Cũng như chính vẻ đẹp mong manh và hư vô của bà, như sương khói, như tuyết ngưng, cũng lại là một mãnh lực làm nổi ba đào cho suốt cuộc đời bà, ngay cả đến khi xuống tóc vào chùa đi tu vẫn không được yên ổn.

Trên quả đồi, đàn bò thơ thẩn gặm cỏ. Những con nghé đang chập chững những bước đầu tiên và rúc tìm vú mẹ. Đám trẻ chăn trâu đốt lửa nướng khoai sắn và châu chấu, vừa thổi vừa ăn, trêu trọc chí choé, đuổi nhau chạy khắp đồi, vừa chạy vừa hát:

Nghé ơi, à nghé

Nghé khôn theo mẹ

Nghé dại theo đàn…

Da diết buồn. Tiếng hát gọi nghé của lũ trẻ trâu. Như một con nghé lạc, sư bà đã đến đây, trong cơn sốt. Bập bỗng như đi trên đôi chân kẻ khác. Toàn thân đau nhức, bà tự hỏi không biết thực hay mộng. Bà tìm đại sư Minh Không.

Ngao du như gió. Duyên nợ từ kiếp trước, trong một lần ghé qua động Trầm, đại sư Minh Không đã cho bà biết bí tích về hai kiếp của Thần Tông.

Cách đây sáu năm, năm Thiên Thuận thứ tư, đức Thần Tông đã cho dựng chùa lớn, sửa nhà rộng, thỉnh đại sư Minh Không về ở. Nể tình Đức kim thượng, sư đến, suốt bữa đại tiệc rượu thịt ê hề, chỉ cười nửa miệng, uống một chén rượu, ngụ lại một hôm, rồi biến đi đâu mất tăm dạng. Vua nhớ tiếc, cho người đi tìm khắp nơi.

Đại sư Minh Không thuở thiếu thời đã kết bạn cùng Từ Lộ, Giác Hải, đội nón tơi, mặc áo vá, tích trượng trong tay, vượt bao gian khó hiểm hoạ ngàn trung xa cách tìm đường sang Tây Trúc học đạo. Trở về, mỗi người đi mỗi ngả.

Từ Lộ trả xong thù cha, duyên nợ rửa sạch, chu du đây đó tầm đạo, chung cục về chùa Phật Tích dưới chân núi Sài, lấy pháp danh là Đạo Hạnh, phát tâm cầu giải thoát, viết kinh sách, giảng đạo học, khuyến khích đệ tử và dân chúng kiệt thị vậy dục, cuốc đất lật cỏ mà ăn, khinh rẻ chợ búa, bán chác, trồng nhặt được gì ăn nấy, chối bỏ vàng lụa, coi cuộc đời chỉ là cõi tạm. Dân chúng nghe theo, đem thóc gạo tiền bạc của nhà hiến làm của chung, cho một vài vị chức sắc trong đám tăng lữ trông coi, bữa bữa đếm đầu người mà xay thóc giã gạo, lấy đấu đong gạo nấu cơm. Cơm chín, tất thảy đều đơm vào những cái bát bằng gỗ hoặc bằng sành, nghe tiếng mõ chùa, nhất loạt cùng vục đầu xuống ăn. Một hồi mõ chùa nữa, dù người đang ăn dở cũng buông đũa, bỏ ra ngoài xỉa răng, uống nước vội, có đói chết cũng nhất quyết không thèm ăn thêm một miếng. Quần áo cũng nhất loạt nhấn nâu. Thấy ai ăn mặc màu mè liền xúm đến dèm pha cho kỳ xấu hổ mất mặt mới thôi. Người theo về chân núi Sài đông như kiến cỏ. Ngày rằm mồng một hàng tháng, dân chúng chen vai thích cánh đến nghe sư thuyết giảng đen cả chân núi Sài. Trong lúc các đệ tử đang rơi nước mắt nghe lời thuyết giảng, số của cải mà họ gom góp đem bỏ làm của chung đã bị những người coi kho đem về nhà làm của riêng. Đạo Hạnh đại sư vẫn say sưa gửi tâm về cõi Phật mà không hề hay biết rằng, ngài càng ra sức ăn chay, khắc nghiệt hành xác, số của cải về tay đám chức sắc trong tăng lữ và những kẻ coi kho ngày càng nhiều. Bữa ăn của đám đệ tử ngày càng còm cõi. Trước những con mắt đói hau háu nhìn phần cơm ít ỏi được chia mỗi bữa, cái muôi múc canh của người phân phát thức ăn ngày càng trở nên ngạo ngược.

Giác Hải về trụ trì chùa Hải Thanh, nối Thiền phái của Không Lộ Thiên Sư. Sinh thời, Đức Nhân Tông cho vời vào kinh, Giác hải đã cùng đạo sĩ Thông Huyền biểu diễn huyền thuật, khiến cho hai con kỳ nhông đang leo lên cây bồ đề bỗng dưng rơi xuống trước mặt vua và biến thành hai que củi khô… Đức Nhân Tông cảm phục có thơ khen: "Giác Hải tâm như hải. Thông Huyền đạo hựu huyền. Thần thông kiếm biến hoá. Nhất Phật, nhất Thần tiên 1 ".

Riêng Minh Không, từ Tây Trúc trở về, liền kiến lập chùa Diên Phúc. Không thuyết giảng. Hàng ngày chỉ lẳng lặng ngồi thiền, lẳng lặng nhìn cảnh đời trước mắt. Cho đến một lần sư đột nhiên nôn ra một bụm máu đen, nằm lịm đi ba ngày như đã chết. Đám đệ tử chuẩn bị đem sư vào chốn dành cho người đã viên tịch, sư bỗng tỉnh dậy, than rằng: "Phật chưa giải thoát cho ta khỏi chốn phàm tục này!". Sau khi Đại Hạnh đại sư chùa Phật Tích viên tịch, Minh Không được coi là vị cao tăng nhất nước, thần thông siêu quần, thường thi triển phép đi trên sông trên biển, tàng hình, xuyên qua đất đá, sau một tiếng thét có thể phi thân lên không trung mà tay chạm mặt trời mặt trăng, mỗi khi trời làm hạn hán, lụt lội đều có thể trai giới cầu đảo được mưa được nắng. Minh Không trụ trì chùa Diên Phúc nhưng ưa ngao du đây đó, thân bất định, lúc biến hoá ra bà già ăn mày để thử lòng từ bi của người, lúc biến thành một người thợ rèn đi thu nhặt đồng vụn, bạc vụn về đúc tạo "Đại Nam Tứ Khí". Đó là tượng Phật A Di Đà ở chùa Quỳnh Lâm xứ Hải Dương. Đỉnh Đồng ở tháp Báo Thiên ngay giữa kinh thành. Đại Hồng Chung ở Phổ Loại. Vạc Lớn ở Minh Đảnh… Có khi đại sư lúc biến thành một kẻ mang vàng ngọc đi mua quan bán tước để vạch mặt đám "phụ mẫu chi dân" lòng lang dạ sói, lúc biến thành một cô gái yêu kiều lẳng lơ để thử bụng dạ của mấy ông sư hổ mang. Sư không coi trong việc giáo hoá dân chúng, chỉ lấy việc sửa mình, cứu người thay cho lời nói, thường chế giễu mấy vị cao tăng đi đâu cũng chỉ cho giáo lý của mình là độc nhất vô nhị, ra sức bài xích những giáo lý khác.

Đồn rằng, năm nọ, ở hạt Hải Dương có xảy ra trận kịch chiến giữa môn đồ hai phái để giành ảnh hưởng và tranh đệ tử cúng đường. Môn đồ hai phái chiếm đóng hai làng kề nhau, người trong làng hễ mở mồm ho he nói khác với những tín điều của đám môn đồ này là lập tức bị trói chân trói tay, đánh đập, đem bêu giữa đường cho dân chúng ném đá đến chết. Dân hai làng trước đây vốn thân thiện, nhiều người là họ hàng thân thiết, nay bỗng buộc bị hoá kẻ thù. Việc đi lại bị cấm chợ ngăn sông, khổ sở muôn phần. Dân trong làng mười phần, tự nghi kỵ, trừ khử, ám hại nhau mất ba còn bảy, đau đớn kêu trời không thấu. Mãi sau mới có một thầy đồ sáng ý, cải trang thành kẻ ăn mày lở lói, bôi nhọ nhem mặt mũi trốn làng đi thỉnh đại sư Minh Không về cứu nạn. Đại sư dịp đó đang rong chơi ở miền thượng, nghe thầy đồ khóc lóc kể lể sự tình thì nghiến răng nói: "Quân tà đạo vô lương! Kẻ nào ngoài miệng cũng bai bải giở giọng từ bi, vậy mà trong bụng rắn rết không kể xiết, cứ hễ thấy kẻ nào không giống mình là muốn đánh đập hãm hại. Chúng tranh giành giết chóc nhau từng đó năm chưa thoả lòng tham sao còn bắt đân đen con đỏ chịu khổ nạn này!". Dứt lời, đại sư xuất vía, lướt đi trên không trung, trong nháy mắt đã tới làng của thầy đồ. Ngài vừa đặt chân xuống đất thì cát bay đá chạy, khi mây tan mưa tạnh, hai ngôi đền thờ tà đạo đã tan thành bình địa. Dây trói đứt tung. Dân chúng reo hô nhảy múa trong khi bọn gian ác thoắt biến thành tượng đá…

Nếu chẳng tìm được Minh Không, vua Thần Tông sẽ chết khi đôi bàn tay mọc đầy móng vuốt sắc nhọn cào thủng ngực và tự vua sẽ moi quả tim của mình ra cấu xé. Đó là sự trừng phạt của địa ngục. Các vị đế vương lên ngôi trong khi chỉ đang là một đứa trẻ.

Người hoá hổ, đã đành là đau đớn. Nhưng ta, ta sống làm gì, những chuỗi ngày tháng thừa thãi này? Mấy chục năm nay, ta đã ẩn náu, đã cố tình xa lánh. Như một ngọn gió đơn độc thổi ngoài bãi hoang. Mà trong lòng vẫn nhói đau trước những thăng trầm thất thường của con người ấy. Con người bập bỗng ấy, mỗi bước đi đều làm nhói tim ta. Trong khi ta chưa trả nợ xong kiếp này, thì chàng đã kịp trải qua hai kiếp, để hành hạ, vó xé ta bằng những nỗi đau khổ của chàng, bằng những bước đi thập thững và dại dột của chàng.

Khi con mắt chàng đỏ độc ngọn lửa báo thù thuở chàng còn là Từ Lộ, trong mắt chàng không có ta.

Khi ta hiến dâng cho chàng, trầm mình xuống vực sâu, trong mắt chàng không có ta.

Khi chàng lôi tuột ta từ động Trầm về hậu cung đẫm mùi son phấn và mưu đồ ác độc, chàng đã đầy đoạ ta thêm một lần nữa.

Và lần này mới độc ác làm sao. Chàng là một ông vua còn trai trẻ, được vây quanh bởi lớp lớp cung tần mỹ nữ, lại đang si mê một cung nữ nửa người nửa phù thuỷ có thể mê hoặc được cả Niết bàn lẫn Địa ngục. Thế mà ngọn lửa từ kiếp trước vẫn cháy trong tim chàng khiến chàng không thể rời xa ta.

Ôi! Đoạ xứ mà chàng đã dìm ta vào! Ta phải ở bên cạnh chàng hàng ngày để chàng nhìn ngắm trong nghi hoặc, một ngày chàng tự vấn hàng trăm lần không biết nên gọi ta là sư bà, là mẹ, hay là một người tình?

Phải ra khỏi đoạ xứ này!

Nhưng Minh Không đại sư lang thang như gió. Ông ta cũng là một ngọn gió đơn độc. Chân trời góc biển, ngọn gió giễu cợt những trò đùa của thế gian này. Biết đâu tìm…

Sư bà đã vừa đi vừa chạy ra khỏi kinh thành. Bà lần theo dấu vết của Minh Không đại sư. Mấy lần tưởng gặp nhưng ông ta đã lại vừa ra đi. Lại tay nải lên vai. Hôm nay là ngày thứ mười hai. Không biết Thần Tông có còn ngày ngày cào xé thân mình đợi bà, hay đã moi quả tim của mình ra ăn và gục chết?

Nóng rực như một cụm than, sư bà kiệt sức gục đầu dưới gốc lim. Người chỉ đường báo tin rằng, tháng trước, đại sư có hẹn ngày này qua đây dạy dân trong làng đúc chuông thờ Phật và rèn liềm búa.

Cơn sốt khiến sư bà nửa mê nửa tỉnh. Thời thơ ấu như đám mây ráng đỏ bay qua. "Nhuệ Anh!…". Cha hay mẹ gọi? Bao năm nay và mất tên thời con gái. Trái tim đau.

Người ta đánh nghé

Một nhát đến tai

Hai nhát đến đầu…

Đứa trẻ mồ côi phiêu bạt lâu nay ngủ yên trong bà, dưới những câu kinh và tiếng mõ, nay thức tỉnh. Đứa trẻ đó muốn dụi đầu vào nách mẹ mà khóc. Mẹ ơi! Con là con nghé dại của cha mẹ. Con nghé dại đã bỏ nhà, bỏ cha mẹ mà đi. Thân gái dặm trường qua nửa đời phiêu bạt. Rốt cục chẳng để làm gì, đuổi theo một cái bóng hư ảo, không xứng cho con phải quên thân. Để rồi phải chọn cửa thiền làm chốn nương mình, những mong thoát khỏi vòng luân hồi bệnh não của kiếp người.

Người ta đánh nghé

Một nhát đến tai

Hai nhát đến đầu

Tiền đâu của đâu

Chuộc lấy đầu lâu

Mang về trả mẹ…

Đám trẻ con vừa hát reo vừa cười. Sư bà ứa nước mắt. Tại đây sao lũ trẻ kia, trong những trò chơi đồng ấu, lại hát những lời ai oán như vậy? Chúng vẫn cười. Cha ơi! Mẹ ơi! Con nghé lưu lạc của cha mẹ đã chẳng tránh né được nỗi oan khổ. Tưởng rằng đã cắn răng tu hành đắc đạo, khinh miệt những cám dỗ của thuyền tình bể ái…

Những vệt nắng trưa buồn hiu rọi xuống đôi mắt nửa khép mở của sư bà. Những vệt nắng đưa tâm trí bà trở lại hơn năm mươi năm trước trên thác Oán sông Gâm, thuở sư bà còn là Nhuệ Anh tiểu thư đang lúc nửa đêm mặc áo nâu sồng cải trang thành anh bán dầu nhón chân theo vết chân Từ Lộ, đuổi kịp chàng nơi thác Oán. Có một cơn giông quét qua bầu trời, cũng đồng thời tàn bạo xoáy qua đời nàng. Sau khi đem cả một đời con gái đặt cược dưới chân người yêu, nàng mới chợt nhận ra rằng nàng không còn là một chấm nhỏ nào trong mục đích tối thượng của Từ Lộ, cái mục đích đã thiêu đốt cả hai kiếp người, tiểu thư Nhuệ Anh, con nghé lạc ấy đã lao mình xuống thác Oán rắp tâm kết liễu những ngày oan khổ… Có một luồng xoáy hun hút êm ái ngoạm lấy thân hình nàng. Nơi đó dường như khô ráo. "Địa ngục là đây ư?". Nàng kịp nghĩ thế. Đó là ý nghĩ cuối cùng. Nàng không hay biết gì nữa.

Nhuệ Anh tỉnh lại khi có tiếng lao xao văng vẳng bên tai. Phía trái, hơi nóng tỏa ra từ một bếp lửa. Mở mắt. Súc củi lớn nằm ngay bên cạnh. Những dòng nhựa nâu sẫm sôi lên, sủi phun bọt xèo xèo. Mùi thơm hăng hắx xộc vào mũi khiến Nhuệ Anh tỉnh hẳn, mở to mắt.

Ngọn lửa cũng bùng soi tỏ khuôn mặt đang vươn lên nhìn nàng từ phía bên kia đống lửa.

Nước da trắng trẻo. Dưới ánh lửa, trông làn da sáng lên lấp lánh như vẩy cá. Đôi con mắt to tròn không chớp. Cái miệng sầu thảm đôi khóe môi trễ xuống như miệng cá. Mớ tóc rối tung lỏa tỏa xuống đôi vai mảnh che một phần cái cổ dài. Sự khác lạ của gương mặt đó khiến Nhuệ Anh hoảng hốt. Nàng nhận ra không phải mình đang ở Địa ngục. Trên bếp lửa là một nồi đất lớn sôi sùng sục tỏa mùi thơm.

Cái gương mặt màu bạc ấy dần dần nhô cao. Người ngồi bên đống lửa đứng lên. Vẫn cái miệng sầu thảm và đôi mắt to tròn không chớp. Thân mình người đó soi tỏ trước ánh lửa. Dài như con cá bơn khổng lồ, di chuyên mềm mại như đang bơi lội trong nước. Nhưng mỗi cử động của người đó lại có vẻ cương quyết và dẻo dai của một sợi dây mây. Rõ ràng là thân mình của một người đàn ông. Nhuệ Anh nhận thấy khi người đó bước đến gần nàng. Không thể đoán tuổi. Gương mặt không một nếp nhăn. Chỉ có cái miệng sầu não trễ xuống như hai dấu hỏi. Ngắm kỹ mới thấy kỳ quái mà không dữ dằn.

Nhuệ Anh muốn ngồi dậy mà không sao nhấc nổi thân mình. Lúc này nàng mới chợt nhận ra cả người mình bị bầm dập xây xước vì những va đập vào đá.

Người đàn ông rót từ trong nồi ra chiếc bát đất một thứ nước có mùi thơm. Bê bát nước màu đặc sánh như mật ong đến bên Nhuệ Anh:

- Uống đi! Cô thoát chết...

Nhuệ Anh nghi ngại nhìn bát nước, nhìn kỹ người đàn ông trông giống con cá bơn, nhìn căn lều sơ sài bằng lau sậy, nàng bàng hoàng hỏi:

- Tôi... ở đâu?

Con cá bơn trả lời:

- Cô đang ở trong nhà tôi.

Nhuệ Anh đảo mắt nhìn căn lều một lần nữa. Những cành sậy chưa khô hẳn đang nhăn nhúm lại dưới nắng. Tiếng gió lào xào đập xao xác vào vách lều. "Thế này cũng gọi là nhà ư?".

Người đàn ông đón ý cái nhìn của Nhuệ Anh.

- Tôi có rất nhiều nhà. Lúc nào tôi thích tôi lại dựng nhà. Ngôi nhà này tôi vừa làm trong ba ngày, từ hôm mang cô về đây.

Nhuệ Anh buồn rầu:

- Sao anh không để cho tôi chết? Ở chỗ tôi, một người chết ba ngày thì người ta đã ra mả làm lễ cúng... Một bát cơm một quả trứng cắm giữa đôi đũa tre...

Người đàn ông gật gù:

- Coi như cô chết đã được ba ngày. Khi tôi mang cô từ vực dưới thác lên, cô cũng chết. Tôi làm ngôi nhà này cho cô ở. Lửa và nồi thuốc này đã làm cô sống lại. Không phải tôi.

Nhuệ Anh gào lên, giận dữ nhìn người đàn ông:

- Tôi muốn chết! Tôi phải chết! Anh là ai mà dám cản?

Trong đôi mắt tròn của người đàn ông có một nét cười trong khi cái miệng vẫn thiểu não:

- Tôi là cá. Tôi thờ những con cá. Hôm tôi đang lấy củi ở vạt rừng chân thác Oán, cô đã lao xuống nước như một con cá. Tôi chưa thấy một con cá nào đẹp như cô.

Nhuệ Anh bất chợt cười. Nàng không muốn sống nhưng cũng không muốn chết nữa. Dù sao ở ngoài kia gió vẫn thổi, ánh nắng mặt trời thì ấm áp, rừng mênh mông và râm ra tiếng chim. Gió dồn đuổi những chiếc lá và những bụi cỏ rạp mình xuống đất quẫy lượn, dường như cây đã đổ sóng soài ra đất. Cơn gió đi qua, chúng lại trỗi dậy và hân hoan uống mặt trời. Nhuệ Anh nhận ra, nàng mời mười sáu tuổi. Khi nàng nhảy xuống thác Oán, Từ Lộ vẫn còn sống. Miễn là chàng còn sống trên đời này.

Nhuệ Anh ngồi hẳn dậy với sự giúp đỡ của người đàn ông. Khi nằm lấy bàn tay của anh ta, bàn tay mát lạnh như thân cá. Bây giờ nàng đã trông rõ hơn toàn bộ các góc khuất của chiếc lều. Sau lưng nàng, rất gần, là một bộ xương cá khổng lồ được phủ một lớp nhựa cây màu vàng xỉn. Nhuệ Anh sợ hãi lùi lại. Người đàn ông cung kính chỉ tay vào bộ xương:

- Đây là mẹ tôi.

Nhuệ Anh tự hỏi, không biết có phải vì suốt ngày ngắm nhìn bộ xương cá này hay không mà người đàn ông này mang thân mình và khuôn mặt từa tựa một con cá. Nàng thầm đặt tên cho anh là Cá Bơn.

Nhuệ Anh mường tượng ra thân phận chàng Cá Bơn qua những lời kể đứt nối của chàng.

Cá Bơn sinh được hơn ba tháng, mẹ đã thở hơi cuối cùng. Bố cậu làm nghề chài lưới trên sông Gâm. Ông nuôi con bằng những bát nước cốt chắt ra từ những con cá luộc và ông ta thả cậu bé xuống nước cho bơi lội ngay khi cậu được một tháng tuổi. Đêm đêm ông ta uống rượu say rồi hát ru cậu bằng những giọt nước mắt và những tiếng gào, đua tranh với tiếng thác đổ sông Gâm. Rồi hai cha con ôm nhau ngủ trong lều dựng tạm bằng lá hay lau sậy. Bố cậu bé là một người bắt cá giỏi như một con rái. Ông dựng lều ở đâu thì chung quanh lều treo lủng lẳng những con cá khô. Khi ông ta ra đi, cậu bé ở nhà với căn lều chi chít những đầu cá. Những con cá đã chết, đã khô mà mắt vẫn mở tròn không chớp và cái miệng thiểu não ngưng đọng mãi mãi như đang kêu cầu một điều gì. Cậu bé càng lớn càng giống một con cá. Khi đủ ba tuổi, cậu bé đã dẻo dai và bơi lặn giỏi như một con cá bơn. Cậu thích ở dưới nước hơn trên cạn. Cậu thường lấy trò đùa bỡn dưới nước làm vui.

Cha cậu tục huyền. Người dì ghẻ ở cữ cũng là năm mất mùa cá. Những con cá khô thưa thớt dần quanh vách lều. Một hôm người dì ghẻ tính toán cách làm thế nào để bớt một miệng ăn. Bà ta nắm hai chân cậu bé quẳng xuống thác Oán nhân lúc cha cậu đi câu xa.

Người dì ghẻ đã nhầm. Bà ta không biết rằng cậu bé vốn là một con cá. Thác Oán dữ dằn gầm réo quật tan nát những thân gỗ thân người rơi vào nanh vuốt của nó nhưng lại không hề hấn gì với cậu cá bơn bé nhỏ. Xoáy nước đã đưa cậu bé dạt lên một tảng đá. Lúc trụ vững được trên tảng đá, cậu mới thấy như thoáng qua bóng một con cá vừa cõng cậu lên.

Người cha về nhìn thấy cậu bé ngồi trên tảng đá như đang ngồi chơi trên mặt đất. Tảng đá trơn rêu xanh lè như mắt quỷ, ngay bên chân thác Oán đang sôi réo. Không biết chuyện gì vừa xảy ra, ông quát mắt cậu bé nghịch ngợm rồi mang cậu về nhà. Trên vai ông vác nặng một gùi cá. Nhưng từ đó cậu bé không ăn cá nữa.

Mười năm sau. Một ngày, dưới chân thác Oán có xác một con cá cực lớn dạt vào. Cậu bé nhớ lại chiếc đuôi cá ngày xưa đã đẩy cậu lên khỏi thác sâu dữ tợn. Con cá này là mẹ. Cậu đem bộ xương cá về thờ trong lều...

- Cô là một con cá thật đẹp. Chỉ có loài cá mới lao mình xuống thác đẹp như vậy. Hôm ấy có cầu vồng. Thác Oán này đối với người khác thì thật dữ dội. Nhưng với tôi thì thật hiền. Mẹ tôi là cá. Đây là nhà của mẹ tôi.

Nhuệ Anh mường tượng thấy người đàn ông kỳ lạ này từ dưới chân thác đã lao ra đón lấy nàng và đưa nàng lên bờ. "Âu cũng là số kiếp xui khiến. Ta chưa chết. Nhưng sống ở đây thì có phải là sống không?".

Bên ngoài nắng đã nhạt. Hoàng hôn ở rừng không chói rực như ở đồng bằng. Mặt trời lười nhác trốn vào núi ngủ. Sột soạt tiếng những con thú nhỏ bò quanh lều. Đêm trong rừng đặc quánh như xắn được thành từng miếng con thác tung bọt trắng xóa đang gầm réo đổ xuống cách căn lều không xa. Nhuệ Anh run lên vì lạnh vì hãi hùng cô độc. Người đàn ông lặng lẽ khơi đống lửa, vứt vào những cành củi đầy nhựa mang mùi thơm. Nồi cháo thịt rắn hổ đang sôi trên bếp. Người đàn ông này không bao giờ ăn cá. Thịt con rắn hổ mang, theo lời anh ta, thì khiến cho một người đang ốm sắp chết chỉ sau một ngày có thể trở dậy vào rừng đẵn củi. Nhuệ Anh nhắm mắt cố nuốt món cháo rắn hoàn toàn xa lạ, chăm chăm nhìn đôi mắt tròn của người đàn ông. Nàng tự nhủ không biết đây là thực hay là hư. Rồi bóng tối ngoài kia loãng dần. Một mặt trăng màu lúa chín thình lình nhô lên trên bầu trời giữa những tiếng vượn hú nghe rất gần. Sương đêm bắt đầu ẩm ướt bên ngoài kia. Trước khi thiếp đi bên đống lửa, nàng còn kịp nghe tiếng những ngọn cỏ nở tách mầm dưới sương đêm.

Nhuệ Anh ở lại căn lều với người đàn ông Cá Bơn. Nàng nhìn trăng và mặt trời để nhớ ngày tháng. Dần dần bộ xương cá treo ở vách lều đối với nàng cũng đã bớt kỳ dị. Chàng cá bơn mang chim thú săn trong rừng đi đổi mắm muối, gạo và vòng bạc về cho nàng. Mỗi lần có món quà mới, anh ta đứng xa xa ngắm nhìn nàng từ bên kia đống lửa, đôi mắt to tròn không chớp như mắt cá. Cái nhìn thiểu não và cái miệng của một con cá khô. "Cô là mẹ tôi. Cô là con cá đẹp nhất. Tôi thờ cô!". Anh ta nói. Làn da tay của anh ta vẫn trắng bạc và lạnh như thân mình một con cá.

Ba tuần trăng sau, chàng Cá Bơn không ngồi nhìn nàng từ bên kia đống lửa. Anh ta đến gần nàng, đeo vào tay nàng một chiếc vòng bạc vừa mới đổi được ở dưới bản bằng một con cầy hương, tay anh ta run, làn da anh ta bóng rẫy. Cái miệng thiểu não hơi nhếch ra như cười. Và dường như có hai giọt nước mắt đang từ từ dài ra dưới đôi mắt tròn không chớp. "Ta làm khổ ân nhân của ta rồi!" nàng nghĩ.

Sáng hôm sau, khi chàng Cá Bơn vào rừng săn bắt như thường lệ, Nhuệ Anh xếp lại tất cả những vòng bạc, quần áo mới treo lên bộ xương cá. Nàng ra đi.

Nhuệ Anh vừa đi vừa chạy ra khỏi túp lều cỏ lau xao xác. Ra khỏi vạt rừng. Vẫn nghe tiếng gầm réo của thác Oán. Nước mắt nàng rơi trên những vạt cỏ, thấm vào đá. Ân nhân ơi! Làm sao ta và chàng, người và cá, có thể sống cùng nhau trong một túp lều. Và nữa, ta còn duyên phận của ta. Cái duyên phận nghiệt ngã nhen lên chính từ thác Oán sông Gâm này...

Đi hết tiếng gầm réo của con thác, Nhuệ Anh mới dừng lại. Đứng trên mỏm đá cao, nàng hướng về phía lều cỏ bên thác, rạp mình vái.

Bước chân lưu lạc và những tiếng mõ đều đều ru ngủ cứ văng vẳng trong không trung đã đưa đẩy Nhuệ Anh tới động Trầm. Lúc đó nàng xấp xỉ hai mươi tuổi. Vẫn đẹp mong manh sương khói nao lòng mà hồn lại trống rỗng... Biết những gì mình đang quên thân vì chúng thật hão huyền. Nàng xuống tó. Căn tu run rủi thành sư bà. Rốt cục, lại phải một lần vào đọa xứ...

Sư bà động Trầm giật mình tỉnh dậy. Hình như vừa có tiếng hổ gầm đâu đây. Sư bà cố thu hết sức lực vịn vào gốc lim sần sù, run lẩy bẩy chừng muốn đổ xuống. Dường như có một luồng ánh sáng xẹt tới khiến bà phải lấy tay che mắt.

- Nhuệ Anh... Sư bà động Trầm... Sao sư bà phải nhọc thân vì một điều hư ảo như vậy?

Giọng người nghe như giễu cợt. Sư bà bỏ tay che mắt nhìn lên. Một hòa thượng đầu tóc lởm chởm, áo quần xốc xếch, tay xách chiếu túi vải phủ rêu mốc, mắt sáng rực đang đứng sừng sững trước mặt. Cái miệng rộng tận mang tai lại ngoác cười:

- Mệt lắm rồi phải không? Nào cùng đi. Ta vừa qua hang đá nùi Sài. Ta vẫn chờ có ngày hôm nay!

Hòa thượng nắm lấy tay sư bà. Sư bà thấy bước chân mình trở nên nhẹ bỗng, cùng nhịp với bước chân hòa thượng.

Minh Không đại sư!

Nhuệ Anh biết rằng bà cũng đã xuất vía theo Minh Không đại sư trở về kinh thành.

--------------------------------

1Dịch (Theo Từ điển Phật học): "Giác Hải tâm như biển. Thông Huyền đạo lại huyền. Thần thông gồm biến hóa. Một Phật một Thần tiên".