VINH HOA
Đại sư Từ Đạo Hạnh gấp trang Kim Cương bát-nhã ba-la-mật-đa kinh, thỉnh một hồi ba tiếng chuông rồi khoan thai đứng dậy. Chú tiểu đang chắp tay đứng hấu vội đẩy tới trước mũi chân Đại sư đôi dép rơm.
Đạo Hạnh rời gian chính điện sâu thăm thẳm. Cao chất ngất bên trên là tượng chư Phật ngự tòa sen, mặt vuông môi dầy, giữa hai lông mày có chấm bạch ngọc bào, mắt khép, ngực có ngấn chữ "vạn". Dưới chân chư Phật, các vị Bồ Tát cũng đứng hoặc ngồi trên tòa sen, đầu đội mũ bảo quan, cổ đeo chuỗi hạt đá, tay cầm pháp bảo. Thấp hơn, phía trước các Bồ Tát, là Thích Ca Mâu Ni mới giáng sinh ở nhân gian trong hình hài một hài nhi tay phải chỉ lên trời, tay trái chỉ xuống đất, được chín con rồng và những đám mây vây bọc xung quanh. Trấn giữ ngoài cùng, uy nghi đường bệ là Tứ vị Thiên Vương và các thiên thần chủ việc hộ trì Phật pháp. Lướt qua gian chính điện, qua bái đường, qua dẫy hành lang, tới tăng đường mà trời vẫn còn chưa tơ mơ sáng. Trong mùi hoa ngâu thoang thoảng vừa độ chín, Đạo Hạnh bước về phía góc nhà, nơi đang vẳng ra tiếng chổi xào xạc sau lưng pho tượng Đại Ca Diếp, Đạo Hạnh khẽ gọi:
- Huệ Mẫn, con đã chuẩn bị xong bữa trai 1 cho chư tăng chưa?
Tiếng chổi ngừng phắt. Từ sau pho tượng, một tăng đầu cạo trọc, nét mặt thô kệch, thân hình lực lưỡng, vội vã bước ra, kính cẩn chắp hai tay:
- Nam mô a di đà Phật. Dạ thưa, con đã nấu nướng xong hết thảy.
Đạo Hạnh gật đầu, không giấu vẻ hài lòng:
- Con thật là cần lao, nhẫn nại. Một ngày nào đó con sẽ thoát khỏi nghiệp ác, Đức Phật sẽ mở lòng đón con lên cõi Niết Bàn...
Gương mặt vị tăng thoắt ngời sáng:
- Mộ Phật! Ơn giáo hóa của Đại sư là trời biển. Vợ chồng con từ chỗ tối ra chỗ sáng. Trong lòng thanh thản, nhìn thấy mặt trời ngày ngày mà không hổ thẹn, thật không có gì sung sướng bằng...
Đạo Hạnh mỉm cười:
- Đường đi xa, còn nhiều gian nan nhưng sáng sủa. Nào, con nói cho ta và chư tăng nghe, tại sao chúng ta ăn bữa chính vào giữa trưa mà không vào buổi sáng hay chiều, tối?
Dường như chỉ chờ có thế, Huệ Mẫn nói làu làu như sợ ai cướp lời, hai tay vẫn chắp trước ngực:
- Dạ bẩm! Nam Mô A di đà Phật! Đó là chúng ta tuân thủ tuyệt đối phép ẩm thực của đức Phật mà trí tuệ và đạo đức của ngài còn sáng gấp triệu lần mặt trời. Ngài nói: chư thiên ăn sớm mai. Lũ súc sinh thì ăn vào buổi chiều. Ma quỷ mới ăn vào buổi tối. Vì thế, Phật và đệ tử của Phật chỉ ăn vào giữa trưa. Quá giờ ngọ không được ăn. Một ngày không làm, một ngày không ăn...
Đạo Hạnh mỉm cười:
- Lời Phật dạy! Tốt lắm. Con hãy khua mõ lên!
Huệ Mẫn gõ ba tiếng lên chiếc mõ cá cực lớn. Tiếng mõ vừa dứt, đã thấy vài mươi chư tăng vóc hạc mình mai lục tục rời thiền phòng đến trai đường, ngồi bên những dẫy bàn thấp có đặt sẵn những bát đĩa bằng gỗ. Huệ Mẫn tay bê nồi, tay cầm chiếc muôi gỗ, đi qua các bàn và múc cơm canh trong nồi đổ vào bát của từng người.
Chư tăng ngồi trước thức ăn, dù trong bụng sôi réo mà ngoài mặt vẫn điềm nhiên không động. Khi Huệ Mẫn trở về chỗ, chư tăng nắn lại vạt áo, cùng tụng Ma Ha Bát Nhã Ba la mật đa tâm kinh, lại niệm đến hồng danh chư Phật, Bồ đề đạt ma, Thanh tịnh pháp thân Tì Nô giá na, Viên mãn báo thân Lô xá na, Thiên bá ức hóa thân Thích ca Văn 2...
Tiếng kinh dứt, Đạo Hạnh Đại sư đứng trước chúng tăng, cất giọng sang sảng:
- Nam mô A-di-đà Phật! Trước khi ăn, hãy triệt để quán tưởng. Bởi chúng ta ăn không phải để mà ăn, mà ăn chỉ để nuôi sống cái thân xác của chúng ta đủ khỏe mạnh để truyền bá giáo lý của đức Phật đạo cao đức lớn vô biên, đặng cứu độ chúng sinh. Nếu chư tăng hiểu rằng khi chúng ta ăn quá nhiều, thì thân xác chỉ là cái bị để chứa những cặn bã hôi thối, ngày càng sinh nhiều tham vọng dâm dật, để lại sa vào đắn đo bảy lần. Để được như thế, hãy làm theo năm điều quán tưởng: Tôi có xứng đáng được ăn không? Bát cơm này do đâu mà có? Nhận bát cơm này, tôi phải xét lại đức hạnh của tôi. Ăn cơm, tôi phải ngăn lòng đừng phạm phải tham sân si. CƠm này không phài là cơm mà chỉ là thuốc tốt để giữ thân xác tôi được khỏe. Để cầu đạo quả, tôi xin nhận lĩnh bát cơm này...
Chư tăng cúi đầu nuốt từng lời của vị Đại sư mà họ hết lòng súng bài. Rồi cùng phát nguyện:
i>Miếng cơm đầu, tôi nguyện dứt hết điều dữ.
Miếng cơm sau tôi nguyện làm tất cả điều lành.
Miếng cơm cuối, tôi nguyện cho tất cả chúng sinh thành Phật đạo...
Vừa dứt câu phát nguyện, chư tăng mới nhất loạt cầm đũa, mà vẫn chưa ăn ngay, còn cất lời tưởng niệm chư thiên và ma quỷ khắp ba cõi, rồi nhặt bảy hạt cơm từ bát của mình ra rắc lên bàn cúng chư vị đã lìa cõi.
Tiếng tụng niệm trong bài kinh biến thực vang lên, hơi vội vàng do cơn đói của chư tăng, nhưng không vì thế mà kém phần mạch lạc:
- Nguyện cơm này cúng cho quỷ thần, sẽ biến khắp mười phương thế giới, để tất cả được thụ hưởng...
Từ Đạo Hạnh ngồi thưởng trai ở một cái bàn dành riêng. Chiếc bàn được kết bằng trúc và dây mây, dùng lâu ngày đã lên nước bóng loáng. Hai chiếc bát đựng cơm canh của Từ được làm bằng gỗ mít già. Bữa ăn của chư tăng luôn trang nghiêm, như nín thở mà ăn. Đạo Hạnh vừa ăn vừa hài lòng quan sát khắp lượt chúng tăng cùng quang cảnh trong chùa, lòng không khỏi rộn lên một chút tự mãn.
Đạo Hạnh đại sư chợt nhớ, đã sắp đến kỳ lễ dâng hương trên đền Thượng.
° ° °
... Mười lăm năm trước, khi ngài cùng hai vợ chồng nhà chủ quán giết người cướp của trong rừng sâu đến đây, nơi này chỉ là một chùa nhỏ, vắng tanh vắng ngắt, chỉ có một vài vị sư vừa trông coi chùa vừa hoảng sợ vì chung quanh đầy hùm beo rắn rết, không mấy khi có người qua lại.
Lúc đó ngài còn là Từ Lộ thiền sư, chưa lấy pháp danh là Đạo Hạnh như bây giờ. Cũng vào dịp này, sau khi đã đi khắp vùng, mà trong lòng cứ đinh ninh cái duyên kỳ ngộ ở núi Phật Tích, ngài đặt chân đến nơi đây. Khi mới bước vào hang núi Sài bỗng thấy có tảng đá lõm vết chân người, Từ Lộ ướm chân mình vừa khít.
Đang ngẩn ngơ vì điều kỳ ngộ, thì một vị tăng trong chùa nhìn thấy, liền hỏi người vừa đặt chân đến:
- Này tân thiền sư, đi đứng ngồi nằm, cả thẩy đều nói là Phật tâm. Vậy thế nào là Phật tâm?
Từ Lộ không nao núng, đáp ngay bằng một bài kệ:
Tác hữu trần sa hữu
Vi không nhất thiết không
Hữu không như thủy nguyệt
Vật trước hữu không không 3
Vị tăng nghe, biết là người cao tay, không thể đọ, liền vái lạy, mời Từ Lộ thiền sư trụ trì luôn tại núi Sài.
° ° °
- Nam mô sát ta nam, sam mia sam bô đa cô ti nam, ta đia tha: um, chi lê chu lê chan đi si va ha... 4
Lúc ấy, Từ Lộ thiền sư ngồi xếp bằng trên tảng đá có dấu chân người trong hang núi Phật Tích, bốn ngón út và áp út bắt chéo nhau ép vào lòng bàn tay. Hai ngón giữa chĩa thẳng, hai ngón trỏ co lại, hai ngón cái ấp trên ngón giáp úp, làm thành ấn Đại Chuẩn Đề.
Vợ chồng kẻ ăn thịt người quỳ trước mặt, hai cặp mắt vẫn bắn ra những tia dữ tợn.
Dọc đường đi khổ ải, hai kẻ này tạm quên hương vị rượu thịt, chỉ nhăm nhăm tìm tới đất Phật, nôn nóng mong được giải thoát. Nhưng đến đây, dừng chân lại, vài ngày ngắm nghía mấy vị tăng trông coi chùa, máu dã thú lại trỗi dậy.
Từ Lộ nhìn qua, không thể không lo lắng, bèn lập Pháp đàn, thi ấn Đại Chuẩn Đề để khai tâm cho hai kẻ mê muội.
Nhằm đêm hôm rằm, Từ Lộ buộc hai vợ chồng chủ quán chọn lấy một chỗ đất tốt trong nền hang, cuốc nhuyễn, bỏ vào đó một nắm hương liệu, nhào thành bùn thơm, bắt hai vợ chồng chủ quán tự lột bỏ hết quần áo, lấy bùn trát kín người. Đợi đến lúc trăng tỏ, Từ đưa ra một chiếc gương mới, chưa từng có ai soi vào. Từ đặt gương trước tượng Phật, rồi đốt hương trầm, dâng nước suối tinh khiết, tĩnh tâm kết ấn đọc thần chú để biến gương thành kính đàn. Đến khi trăng tà, trong sương đêm tĩnh lặng, Từ giơ kính đàn ra trước mặt hai vợ chồng chủ quán.
Hai vợ chồng vừa nhìn thấy mặt mình hiện lên như ác quỷ trong gương thì rú lên một tiếng, ôm lấy mặt.
Hai gương mặt trong gương vỡ tan. Hai vợ chồng chủ quán lăn lộn giẫy giụa trên mặt đất, miệng thổ ra nào chân nào tay, nào tim gan cả người lẫn vật còn ròng ròng máu đỏ, rồi gục xuống đất nằm im như chết, hơi thở chỉ còn thoảng như khói.
Hai mươi mốt ngày sau, hai người không hề ăn uống, chỉ được phép tắm gội, ngồi im phắc kiết già, ngoảnh mặt hướng đông, nhìn vào kính đàn, tai nghe Từ Lộ thiền sư tụng chú một trăm tám mươi lần, mồm lẩm nhẩm đọc theo đến khi mệt mỏi mà ngủ rũ.
Sau hai mươi mốt ngày, hai vợ chồng kẻ ăn thịt người ngơ ngác như trẻ con mới chào đời, lẩn thẩn nhìn nhau như kẻ lạ.
Từ Lộ gật gù hài lòng:
- Các con vốn đã đeo ác nghiệp dĩ, nhưng vì bắt đầu từ một oan khuất chứ vốn chẳng phải bản tính, lâu ngàu hằn thù mà trở thành yêu quái. Được cái vốn là người cả tin, chất phác nên chóng chầy rồi cũng được chứng nghiệm. Từ nay, pháp danh của hai con là Huệ Mẫn.
Ngay hôm đó, Huệ Mẫn vợ thì đi sang chùa nhỏ bên cạnh, suốt ngày len lỏi trong rừng đi lấy lá thuốc về chữa bệnh theo sự chỉ dẫn của Từ Lộ thiền sư, tự trồng cấy mà ăn, tự đi nhận của bố thí của thiên hạ mà mặc. Bỏ yếm thắm, bỏ khăn vấn nhiễu, bỏ đồ trang sức. Đôi mắt đa tình tắt hẳn ánh sáng, cả ngày không một lần nhìn lên. Còn Huệ Mẫn chồng thì ngày đêm ở cận kề thiền sư, quét tước dọn dẹp trong chùa, cầu kinh niệm Phật, vác đá mở lối, xây chùa dựng quán, bổ củi gùi nước, nấu nước lá chữa bệnh, không việc gì là không làm.
° ° °
Thấm thoát, chỉ năm năm sau khi ba thầy trò Từ Lộ thiền sư dừng dưới chân núi, nơi đây đã trở thành chùa Phật Tích lừng danh vì danh lam thắng cảnh, trở thành vùng đất thiêng được đồn thổi khắp trong thiên hạ, rằng Phật Tích có vị đại sư đạo cao đức trọng, được chư tăng dâng tặng pháp danh là Đạo Hạnh đại sư.
Đạo Hạnh đại sư thường đem phép thần thông để cứu người, cảm hóa được hai vợ chồng kẻ chuyên ăn thịt người trở thành lương thiện, một con kiến cũng không đụng đến, đều trở thành tăng ni giúp việc thờ cúng tế lễ trong chùa, nhận pháp danh là Huệ Mẫn, lại còn có khả năng thu nạp đệ tử.
Đạo Hạnh đại sư mỗi ngày chỉ ăn một bữa trước ngọ, mặc áo khâu từ những mảnh vải người ta liệm người chết quẳng ra bãi tha ma, chắp vá lại rồi nhuộm đất hoàng thổ như cách ăn mặc của đức Phật. Đã thế, ngày ngày Đại sư lại vác đá mở đường, xây chùa, vai chảy máu ròng ròng mà Đại sư không hề kêu ca. Lâu ngày vết bầm vết xước chai lại, thành những vệt bầm như củ nâu trên vao và trên lưng. Đã thế, còn thi triển phép thần thông chữa khỏi bách bệnh, ai trả ơn bằng tiền bạc châu báu nhất quyết cự tuyệt, chỉ nhận thức ăn bố thí.
Thiên hạ nghe tin, theo về núi Phật Tích dâng hương cúng lễ, đệ tử chờ được thụ giáo nằm ngồi la liệt tại các nhà dân quanh chùa nhiều không kể xiết...
° ° °
Ba tiếng mõ cá lại trang nghiêm cất lên. Huệ Mẫn lặc lè bê nồi nước nóng vào. Đạo Hạnh chờ Huệ Mẫn rót nước nóng đầy chiếc bát lớn của ngài rồi nhúng bát nhỏ vào đó rửa, với chiếc khăn đeo bên hông lau sạch, úp trên bàn, chắp hai tay:
- Nam mô A-di-đà Phật!
Tôi đã dùng trai xong.
Cơ thể tôi bây giờ khỏe khoắn.
Tôi tưởng như khí lực của tôi có thể chuyển được mười phương thế giới, chế ngự được hết quá khứ, hiện tại và vị lai, chuyển cả nhân quả làm lợi lạc cho chúng sinh, nguyện cho tất cả chúng tôi tăng trưởng phép thần thông quảng đại.
Tất cả các vị tăng đều chắp tay cúi đầu, lặp lại lời của đại sư.
Một hồi mõ cá lại vang lên.
Mọi người lặng lẽ rời trai phòng.
Dưới chân núi, đã thấy đông nghịt người ngửa cổ nhìn lên đợi được trông thấy Đại sư. Họ thầm ghen với tất cả chư tăng, đặc biệt là tăng Huệ Mẫn - người được ngày ngày cận kề hầu hạ Đại sư.
Đạo Hạnh đại sự bước hẳn ra ngoài, khẽ chắp tay nghiêng mình đáp lễ với đám dân chúng và đệ tử đang ngưỡng mộ đứng chờ được ngài giáo hóa.
Trong đám đó có vô số người mẹ bồng những đứa con hoặc tàn tật hoặc èo uột, vô số người ốm thập tử nhất sinh ruồi bâu đầy đàn như bâu trên xác chết, được người nhà khênh trong những chiếc võng gai phủ chăn và áo rách vượt qua bao đường đất đến đây chờ ngài an ủi và chữa bệnh. Những người thất tình đến đây cầu tình. Cũng có vô số kẻ cầu tài hoặc cầu hại được người...
Công việc chữa bệnh và giáo hóa chúng dân kéo dài suốt ngày này qua ngày khác, năm này qua năm khác khiến đại sự mệt mỏi.
Càng thấy đám đông sùng bái, Từ càng ngạc nhiên thay cho sự quá dễ dàng trong việc thao túng lòng tin của họ.
Từ biết, dù có phép thần thông học ở Tây Trúc về, nhưng Từ không phải là người chữa được bách bệnh.
Và càng khuyên giải đám người dưới kia coi khinh vật dục, chịu khổ nạn kiếp này để hưởng sung sướng nơi Niết Bàn, Từ càng băn khoăn tự hỏi:
Ta có thật lòng tin rằng có Niết Bàn? Dường như càng đi, đường đến Niết Bàn càng xa. Ta nay đã ngoài tứ thập. "Tứ thập nhi bất hoặc". Vậy mà đôi lần ngẫm thân phận mình, trong lòng sao bỗng xa xót như chưa kịp sống, chưa được sinh ra trên cõi đời này. Tại sao cuộc đời ta mấy chục năm nay đều chứa đầy những hành xác và khổ ải? Cuộc đời như ngọn bấc cháy sắp cạn đĩa dầu mà ta vẫn chưa có một ngày sống cho mình? Tại sao những kẻ ở nơi cung cấm đền đài giát vàng khảm ngọc, làm đủ điều xa hoa bậy bạ mà lại được thay Trời nhạo nặn biến đổi thiên hạ thành một thứ đồ chơi trong tay mình. Đã thế, họ lại còn có quyền tựa vào danh đức Phật để yên ủi và che lấp những việc ác? Ta có cạn lòng để đến được tâm Không?
Đức Phật Thích Ca, đời người trải bốn mươi lâm năm khổ hạnh, tất tả sương gió, có lúc phải nằm trên bãi tha ma, hoặc ngược xuôi đi về giáo hóa chúng sinh, cũng đến ngày thân thể phàm trần của ngài già yếu và tan hoại.
Lời truyền về ngài còn kể lại rằng, đức Phật đã gọi chư tỳ kheo tịnh xá Trúc Lâm ở Tỳ Xá Ly rồi đi bộ từng chặng đến thành Tâu Thi Na, đến mỗi thôn làng đều dừng bước mà thuyết pháp trong những ngày cuối đời, trước khi hoàn toàn nhập diệt ở rừng cây Sa La hoang vắng ngoài thành Tâu Thi Na.
Ngài đã nằm nghiêng sườn phải xuống chiếc áo tăng già lê do đại đệ tử Anan vừa trải. Lúc này ngài rất mệt, lả đi, thì một người ngoại đạo tên là Ty Bạt Đà La xin gặp Phật. Ngài gắng gượng nhiệt thành tiếp kiến, khiến người đó trở thành đệ tử rồi cuối cùng được ngài hóa độ. Giây phúc nhập diệt đã đến. Đức Phật dạy dỗ các tỳ kheo lần cuối cùng, Ngài nói: "... Vì lẽ đó các tỳ kheo đừng buông thả, ta vì không buông thả mà thành được chính giác. Chúng (sinh) thiện vô lượng cũng không thể để cho họ buông thả. Tất cả vạn vật không có gì tồn tại mãi mãi...
Giữ giới trong sạch, không được mua bán, đổi chác, tậu ruộng làm nhà, nuôi người làm tôi đòi, nuôi các súc vật, cho chí hết thảy các sự giồng giọt và của báu đều phải lánh xa như lánh hẩm lửa; không được chặt cây phát cỏ, đào đất vỡ nương, chế ra thuốc thang, xem tường tốt xấu, thiên văn địa lý, lịch số bói toàn, đều không nên làm...
Ta đã thọ "Bát quan giới trai" một cách khá dễ dàng so với nhiều người, nhưng có thật tận trong lòng không mơ ước lầu son gác tía và không luôn mường tượng lại hình bóng của nàng Nhuệ Anh cùng lần ân ái duy nhất trong đời cùng nàng?
Ta đang làm gì thế này? Có phải bao đêm ta đã từng nghiến chặt răng trên giường đá của tăng viện, cắn nát cả một bên tay để diệt ngọn lửa dục, thề là sẽ tu hành đắc đạo để kiếp sau sẽ trở thành người có quyền lực lớn nhất thiên hạ, để cứu giúp thiên hạ lầm than, để khi cha ta chết một cách oan uổng, sẽ ngay lập tức xử Diên Thành hầu và Đại Điên tội lăng trì, báo thù cho cha mẹ...?
... Nên nghĩ ngọn lửa vô thường đốt cháy thế gian, sớm tìm lấy phương tự cứu, đừng có ngủ tràn. Tụi giặc phiền não thường rình giết người tệ hơn oan gia, phải thức mà đề phòng, ngủ thế nào được?
Con rắn độc phiền não, nó ngủ ở tâm ngươi, vì như con trăn đen ngủ trong nhà người, phải lấy cái câu liêm "giữ giới" trừ nó ngay đi. Con rắn ngủ ra rồi, mới ngủ yên được. Rắn còn mà ngủ là người vô tri... Đời thực nguy hiểm non nớt không có gì chắc chắn, nay ta được tịch diệt, như trừ được bệnh ác. Phải biết cái thân giả dối này chìm đắm ở trong bể sinh tử lão bệnh, nó là cái vật rất tội ác nên trừ bỏ đi. Những bực trí giả trừ được cái thân ấy đi như kẻ giết được giặc thì, lẽ nào mà không vui vẻ?
Cớ sao đức Phật nói về làm điều thiện, mà lại dùng những từ ác như giết chóc?
Phải chăng trên thế gian này, không có điều thiện nào không kéo thêm một điều ác?
Con rắn độc phiền não nó đã thức dậy trong ta chăng?
Bao năm nay, ta cũng tự hành xác như đức Phật, khinh rẻ vật dục. Ta vẫn thức đấy chứ? Nào có dám ngủ!
Có lẽ vì ta thức, nên ta đã thấy quá nhiều...
Đạo Hạnh đứng bên khóm trúc nhìn phóng tầm mắt xuống dưới núi. Cái nghiêng mình duyên dáng càng tôn cao phong độ mê hoặc lòng người của đại sư, khiến đám dân chúng reo hò xưng tụng cuồng nhiệt.
Đạo Hạnh đáp lễ, càng cúi thấp hơn nữa trong tiếng hò reo vang rền. Cả một đám những cô gái trẻ ngày nào cũng đến xem đại sư thuyết giảng và chữa bệnh không công cho chúng sinh mà trong lòng mê đắm, chỉ ao ước được đến gần khẽ chạm vào vạt áo cà sa của vị đại sư đẹp ngời ngợi như đức Phật.
Nhưng đại sư lúc này đang không để ý đến họ. Trong lòng ngài xao động.
Từ cánh đồng dưới xa kia, lúa đang hoe hoe ửng. Hẳn rằng những con cua cái đã chén no nê hoa lúa từ thàng trước nay đang lười nhác thả mình dưới đám rêu bùn, lắng nghe cái yếm của mình đã khẽ kệnh lên với vô số quả trứng vàng. Cỏ xanh mướt trên triền đê, điểm đôi chấm nâu những chiếc tổ của con giun đất, bốc mùi đất nâu ngầy ngậy pha lẫn vị cỏ non. Đôi chú bê vàng thong thả bước trên thảm cỏ xanh.
Phong cảnh xóm làng ẩn hiện trong sương sớm, bên triền đê xanh, bình lặng đến mức làm đại sư muốn khóc. Dòng sông Đáy xuôi dọc qua như một lữ khách nhàn du ngẫu nhiên ghé thăm với bộ y phục pha màu một cách vụng về. Xa kia, núi Tản chạy dọc chân trời, ba đỉnh nhỏ cao quẩn trong mây trắng...
Đạo Hạnh khẽ xoay người lại, không nhìn mà hỏi Huệ Mẫn đang chắp tay đứng hầu bên cạnh:
- Vợ chồng con từ ngày theo ta về đây, dâng hương của Phật, tự nguyện tu hành, làm tăng làm ni, tan đàn sẻ nghé, có oán trách ta chăng?
Huệ Mẫn chắp tay sợ hãi:
- Mô Phật! Phải chăng con đã làm điều gì đắc tội, khiến đại sư phật lòng chăng?
Đạo Hạnh cười:
- Không phải. Con mẫn cán đến mức ta tự nghi ngờ chính bản thân mình.
- Mô Phật. Kẻ ngu xuẩn này không muốn thế. Vợ chồng con, thời mê muội ở cùng nhau, cả quãng đời toàn là những giết người cướp của, lừa lọc bẫy người, sau này nhân được lời giáo hóa của ngài, nghĩ lại đoạn đời ấy mà phát sợ, nhìn thấy nhau là ghê tởm, hẹn thề không bao giờ phạm vào ngũ giới, để trong lòng được an lạc.
- Trong ngũ giới, giữ điều gì là khó nhất, con nói ta nghe?
- Dạ, sức trai tráng như con, không có gì khó bằng dâm giới. Và với con, cũng thật khổ nhục khi phải kiêng lời nói thô tục. Tăng kỳ luật ngũ thư dạy rằng, nếu dùng khen chê, nói hỏi cầu thỉnh, nhìn mắng, nói thẳng để nói về dâm sự; dùng lời khen chê để nói về thập tứ chỗ: hai môi, hai nách, hai vú, hai bên hông, bụng, rốn, hai đùi, hai đường đại tiểu tiện, đều phạm tội tăng tàn... Bản thân con vốn người thô tục, thường lấy việc chòng ghẹo đàn bà làm vui, câu cửa miệng bao giờ cũng là cái chỗ ấy của đàn bà, trông thấy kẻ khác nghe lời thô tục ấy mà đỏ mặt hoặc tức giận thì trong lòng càng được kích thích, ngày đêm chỉ nghĩ đến rượu thịt và dâm sự với đàn bà. Lúc không có đàn bà thì lấy đàn ông hay súc vật dùng tạm cũng xong. Ban đầu mới đi theo đại sư, luôn phạm tội tăng tàn. Tu mãi đến bảy năm sau mới lìa được tội ấy. Nay tự thấy thân xác đã thanh sạch, chẳng bao giờ còn tơ tưởng đến vợ.
- Phúc thay cho con...
Đạo Hạnh nói, mà lòng dường như ghen thầm với Huệ Mẫn. Đơn giản thay cái kẻ này. Dường như đức Phật luôn yêu chiều những kẻ đơn giản và thường tìm cho những kẻ ấy con đường ngắn nhất để đến cõi cực lạc.
Đức Phật không chìa tay đón những kẻ hay xét đoán và nghi hoặc.
- Con đã dâng đủ hương nến trong nội điện chưa?
Đại sư nhẹ nhàng hỏi.
- Bạch... Đã ạ!
- Chỗ mái rạn bữa trước ta đã nói...
- Bạch... Sư thầy đã gọi người. Cữ đầu tháng ngói mới ra lò, họ sẽ gánh lên chùa!...
Chùa này rồi sẽ xây lại. Mái ngói cũ thì đảo lại. Còn đức tin của ta, có xây lại được không? Tại sao ta nóng lòng, tâm động?... Phải chăng vì ta đã sống tới bốn mươi ba năm trên cõi đời này?
Một chú tiểu chuyên lo việc trà nước từ dưới chân núi bước đến cạnh đại sư:
- Bạch thầy vào dùng trà... Bữa nay có hẹn xa giá tới...
- Ta nhớ... Ngươi cứ để mặc ta... Ta phải yên ủi đám người bất hạnh đông nghìn nghịt dưới chân núi kia đã.
Đạo Hạnh thoáng cau mày. Đại sư cũng đã nhìn thấy từ phía dưới xa, trên con đường đất đỏ hướng kinh thành dẫn tới đã thấp thoáng có bóng cờ xí tàn lọng.
Chao ôi. Mùa xuân vừa rồi đức Vua Nhân Tông đã phong một lúc ba phu nhân Lan Anh, Khâm Thiên, Chấn Bảo và tăng thêm ba mươi sáu cung nhân vóc dáng nở nang lồ lộ tướng mắn đẻ nhiều con. Lại lập nhiều đàn chay để cầu tự. Thái hậu Linh Nhân cũng cho làm nhiều chùa mới để sám hối rửa oan. Nhưng số trời đã định. Thêm một cửa chùa như Phật Tích này cũng có giúp thêm gì được cho lời nguyện cầu của những người ngồi tột đỉnh vinh hoa kia!
Năm Hội Tường Đại Khánh thứ 3, thấy tuổi đã cao mà không có con trai, Vua Nhân Tông đã xuống chiếu truyền chọn con cái trong tông thất để nối dõi. Trong các hoàng thân, phàm ai có con trai sẽ được đưa vào cung nuôi dạy để sau này lập làm Thái tử. Tuy đã xuống chiếu nhưng đức Vua và Thái hậu vẫn chưa nguôi hy vọng. Trong lòng vị vua tài ba từng được hưởng nhiều phúc lớn này vẫn ngấm ngầm đau khổ vì bị mang tiếng là tuyệt tự, mang tội "bất hiếu" với Tiên hoàng.
Nhưng người khao khát và đau khổ nhất là Ỷ Lan Thái hậu. Bà ăn chay trường, ngày đêm niệm Phật, lập đàn cầu tự cho đức Vua con trai bà. Như một người khát nước uống mãi không thỏa, bà lệnh cho ngự y đi khắp rừng sâu núi thẳm, viễn hành sang tận Bắc phương, tìm sang học quan ngự y của Vua Tống rồi về bốc thuốc cho cả đức vua và ba hoàng hậu cùng các cung nữ uống. Vậy mà mãi đến nay, khi Vua đã qua tuổi bốn mươi chín mà việc cầu tự vẫn chưa có kết quả, Ỷ Lan Thái hậu càng lo lắng.
Nhưng rộn ràng và hồi hộp nhất là cuộc chạy đua của các hoàng thân. Chiếu của vua vừa ban ra, các hoàng thân đều vội vàng ẵm tất cả các quý tử của mình vào giao cho các vú em nuôi ở trong cung, ngày đêm lo lắng, chỉ sợ nhỡ con mình trót làm điều gì thấy thố với đức vua và Linh Nhân Thái hậu thì sẽ mất cơ hội được lập làm Thái tử.
Trong số các hoàng thân, người buồn bã nhất là Sùng Hiền hầu. Hầu là người thông minh lanh lợi, mặt mũi sáng đẹp, được Vua yêu dấu nhất trong đám hoàng thân, nếu có con trai, chắc mẩm trong tình thế này, đứa bé sẽ được lập làm Thái tử. Thê nhưng, trời thật chẳng chiều người, dù Vua và Ỷ Lan Thái hậu đi cầu tự ở đâu, vợ chồng Sùng Hiền hầu cũng đều tháp tùng dâng hương cầu tự ở đó mà đến nay vẫn không bói đâu ra một mụn con trai.
Tuy vậy, vốn là người bền chí, Sùng Hiền hầu không nản.
Ngày ngày nhìn giường ngà đũa ngọc, hưởng trân vị cũng coi tựa ăn cơm, mà khao khát nghĩ đến cái ngày được làm Thái thượng hoàng trong thiên hạ. Gầy héo đi vì chưa thỏa nguyện, vợ chồng Sùng Hiền hầu tung người đi khắp nơi dò la, gặp được ai có phép phù thủy tài lạ khác người đều gặp gỡ chuyện trò, lấy giấy bút ra họa lại mặt mày dáng hình kỹ lưỡng, đem về trình Sùng Hiền hầu. Trong số những người được kẻ tâm phúc đi dò la họa hình về đó, vợ chồng Sùng Hiền hầu nhíu mày xem rất kỹ. Cuối cùng, khi xem đến hình Đạo Hạnh Đại sư, nghe tung tích, biết là người có phép thần thông và tướng mạo đẹp đẽ phi thường, Sùng Hiền bèn cười ha ha dốc bình ngọc rót ra hai chén trân tửu, cùng phu nhân uống cạn, cả quyết:
- Phu nhân, lâu nay ta mưu nhiều việc lớn. "Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên", có lẽ đã đến lúc Trời nghe thấu lời nguyện cầu, cảm động trước chất ngất những phẩm vật cúng dường của ta nên cho ta gặp người này...
Phu nhân nhìn kỹ bức họa Đạo Hạnh Đại sư đang ngồi kiết già, mặt hao gầy mà đẹp ngời ngời như ngọc. Nhưng bà vẫn nói:
- Người này được, nhưng mục quang có gì đó hơi thất cách so với cả khuôn mặt...
Sùng Hiền hầu càng cả cười:
- Mục quang đó mới chính là điều ta cần.
Nói rồi, vén tay áo tự viết một tấm thiếp trên giấy hoa tiên, lời lẽ vừa trang trọng vừa có chút kiêu bạc, sai người cầm chục nén vàng, nói là để cúng dường xây chùa, phi ngựa đến chùa Phật Tích, hẹn cữ rằm này, sẽ cùng phu nhân lên thăm Đạo Hạnh Đại sư, có chút việc muốn cầu Đại sư giúp đỡ...
Người phi ngựa hai hôm sau mới trở về, trả lại nguyên chục nén vàng, nói Đại sư quá bận rộn vì đám người tứ xứ hành hương đến xin được chữa bệnh và thụ giáo. Chờ mãi một ngày một đêm, Đại sư mới cho diện kiến, dù đã cho người đem gia huy của Sùng Hiền hầu vào báo trước. Đại sư đọc xong chỉ cau mày không nói, bỏ vào trai phòng.
Sùng Hiền hầu đâm nghi hoặc, mất ăn mắt ngủ, nhưng vẫn hồi hộp chờ đến rằm để diện kiến Đạo Hạnh Đại sư. Ông ta nghĩ: "Im lặng nghĩa là không từ chối".
Đám cờ quạt võng lọng xa hoa của Sùng Hiền hầu đã dềnh dàng tiến gần tới chân núi Phật Tích. Sùng Hiền cưỡi con ngựa ô bờm tía. Phu nhân ngồi trong kiệu đặt trên xa bốn ngựa kéo. Một đoàn mấy trăm quân hầu cận oai vệ kéo theo. Mặt đường lầm bụi đỏ. Tiếng nhạc ngựa, tiếng quân kỵ dẹp đường rầm rĩ cả một vùng.
Sùng Hiền ngồi nghênh ngang trên ngựa, chắc mẩm rằng đám dân chúng đang đứng đông nghìn nghịt dưới chân núi kia, chầu về vị Đại sư, chẳng mấy chốc sẽ quay ra nhìn đám huyên náo xa hoa đằng sau do ngài mang tới, mà xuýt xoa ngưỡng mộ quỳ rạp như mọi khi.
Nhưng không. Đám người đó không một chút xao động, không một ai quay lại, mắt vẫn chăm chắm nhìn lên Đạo Hạnh đại sư. Trong chiếc áo chắp vá màu hoàng thổ, nửa vai của Đạo Hạnh để trần, trông vô tình mà quyến rũ ngay đến cả đàn ông. Mặc dù có tiếng huyên náo, không thể không biết Sùng Hiền vừa đến trong tiếng tiền hô hậu ủng, Đạo Hạnh vẫn mê mải thuyết giáo và chữa bệnh, không một cái liếc ngang về phía Sùng Hiền hầu. Nơi đây không có chỗ cho ông ta.
Sùng Hiền hầu bất đắc dĩ chùng cương ngựa. Ngài nghiến răng đứng yên, đợi cho đến lúc mặt trời xuống núi, bắt đầu những tia như vàng cháy sau lưng Đạo Hạnh Đại sư, khiến cho người ông ta như tỏa hào quang, lồng lộng soi tỏ trên nền trời bắt đầu ngả màu tím sẫm.
Gió hiu hiu thổi ra từ thung lũng. Đám người đã thỏa lòng vì được Đại sư giáo hóa và chữa bệnh, quỳ lạp dập đầu bái biệt Đại sư, bắt đầu tản ra. Nhiều người bệnh đã có thể rời võng, rời vai cõng, tự đi về được. Số còn lại, như bị mê hoặc không dứt, mải nhìn theo cái bóng của Đại sư đang nhọc mệt lững thững đi vào tăng phòng cho đến khi mất hút. Nước mắt ròng ròng, họ tản ra dưới chân núi. Ngày mai họ sẽ quay lại nơi đây để chờ được nhìn thấy bóng hình của Ngài.
Sùng Hiền hầu đã toan nổi giận, thì thấy một vị tăng lực lưỡng, nét mặt hung hãn như đồ tể, nhưng cái nhìn thì rất dịu dàng, bước xuống núi:
- Mời Hoàng thân xuống ngựa. Đại sư đang chờ Ngài ở tăng phòng.
--------------------------------
1Bữa ăn của các tăng ni.
2Những bài kinh Phật thường được tụng niệm trước bữa ăn của các tăng ni.v
3Có thì muôn sự có. Không thì tất cả không. Có, không trăng đáy nước. Đừng mắc có cùng không.
4Lời niệm chú trong môn phái Mật Tông - Tâm pháp đại chuẩn đề đa na ri của bảy muôn ức Phật mẫu, nhằm giúp những người tại gia phóng túng, chưa dứt tửu nhục thê noa.