ĐẦU THAI
Tiếng kêu gào của Sùng Hiền hầu phu nhân xé rách màn đêm.
Phu nhân trở dạ đã ba ngày. Cơn đau lúc trồi lên lúc rút đi như những đợt thủy triều. Đôi lúc phu nhân cảm thấy như có những lưỡi khí nóng trồi ngược lên từ trong bụng và muốn xé rách cái mảng bụng để phóng ra bên ngoài. Không có cảm giác của những cái đạp thúc của một hài nhi. Chỉ một khối nóng như lửa đang bị giam hãm và thôi thúc chực vỡ tung.
Hàng trăm lần, phu nhân mong mỏi được chết đi để trốn chạy những cơn đau tiếp theo. Những cơn đau đang nấp đâu đó, rình mò dền dứ từng đợt, không biết bao giờ mới kết thúc. Những cơn đau xen lẫn giữa những cơn lơ mơ buồn ngủ khiến phu nhân lăn lộn kêu gào.
Những tiếng kêu của vợ khiến Sùng Hiền hầu như ngồi trên đống lửa.
Giữa hai đợt cuộn xé ruột, cơn đau dịu xuống trong chốc lát. Phu nhân vịn vào cây cột đầu giường thở dốc. Bà mụ ướp nước thơm vào khăn lụa, thấm những giọt mồ hôi vón cục rịn ra trên gương mặt hốc hác của phu nhân.
Đã ở tuổi ngũ tuần, phu nhân yên phận là một cái cây khô héo không bao giờ kết trái nữa. Nhưng một phép lạ đã tới sau lần khẩn cầu ở chùa Phật Tích.
Hy vọng lớn dần theo tháng ngày. Bụng phu nhân rõ dần dưới lần áo gấm. Dù đã có hai đứa con gái phương trưởng, song Sùng Hiền hầu hết lòng hết sức chăm bẵm mong đợi sự ra đời của đứa con trong bụng phu nhân. Ngày nào ông cũng ghé tai vào bụng vợ vài chục lượt, để cầm chắc cho những dự định của mình sẽ có ngày hiện ra bằng xương bằng thịt.
Đúng dịp chín tháng mười ngày, bà đỡ mát tay nhất kinh thành được rước đến, ăn ở chầu chực tại nhà. Lại thêm quan Thái y nể Sùng Hiền hầu là hoàng thúc của đức vua Nhân Tông, cất công đến tận nơi để xem mạch phòng khi nguy cấp. Phu nhân chuẩn bị tã gấm và chăn gấm, tắm rửa sạch sẽ, lên giường nằm chờ cơn đau đầu tiên.
Không ai hồi hộp, khấp khởi bằng Sùng Hiền hầu. Vị hoàng thân này đã sai quản gia sắm sửa một đại lễ đón mừng đứa con mà ông mong đợi.
Theo như lời hẹn ước với Đạo Hạnh đại sư cách đây ba năm ở chùa Phật Tích, đứa con này sẽ làm xoay chuyển địa vị và cuộc đời của ông.
Nhưng chờ suốt mười ngày mà phu nhân không chuyển dạ, không thấy đứa bé trong bụng quẫy đạp, không thấy dấu hiệu gì để chứng tỏ phu nhân đang mang trong bụng mình một cơ thể sống. Bụng của phu nhân chỉ lồi lên một khối nhọn hoắt như quả nhót khổng lồ. Quan Thái y và bà mụ đành lủi thủi ra về.
Cả nhà Sùng Hiền vô cùng lo lắng.
Chờ đến hết tháng thứ mười, những người hầu trong nhà thì thào: "Phu nhân chửa trâu". Bà đỡ nghe ngóng không thấy đứa bé quẫy đạp gì, đoán rằng đứa bé đã chết mà không dám nói. Có người chắc mẩm phu nhân sẽ đẻ ra yêu quái. Phu nhân suốt ngày lo lắng khóc lóc. Trong nhà buồn rầu như có tang.
Riêng Sùng Hiền hầu vì đã có lời hẹn ước trước đây với Từ Đạo Hạnh nên dù lo lắng nhưng còn giữ được vẻ ngoài điềm tĩnh. Ông nói:
- Phu nhân và các người biết một mà không biết hai. Đứa con trong bụng phu nhân quyết chẳng phải người thường, sau này ra đời sẽ làm rạng rỡ cho cha mẹ. Đã chẳng phải người thường, đương nhiên cách ra đời cũng phải khác thường. Can cớ chi các người phải lo lắng.
Ngoài miệng nói vậy, nhưng đêm đêm ông không ngủ, tự giam mình vào điện thờ của nhà, trai giới đốt hương cầu khẩn, thề với thần linh rằng nếu đứa con ra đời trót lọt khỏe mạnh, ông sẽ cúng dàng một phần ba tài sản trong nhà để xây một ngôi chùa lớn.
Sang ngày đầu tiên của tháng thứ mười một phu nhân trở dạ.
Cơn đau đầu tiên ào đến dữ dằn khiến phu nhân đang ngồi ăn điểm tâm bỗng rú lên, bò ra đất mà kêu thét lăn lộn. Dinh cơ đồ sộ của Sùng Hiền hầu như chết lặng trước tiếng gào thét của phu nhân.
Tất cả các bà mụ nổi tiếng trong kinh thành đều đã được đón về. Thái y lại được vời đến. Nhưng những cơn đau liên tiếp nối nhau hành hạ phu nhân. Bà lả người như đã chết, để rồi khi cơn đau mới tới, bà lại gào thét lăn lộn như người điên, đập đầu vào tường, tìm cách lết tới chiếc hồ rộng trồng sen ngay trong dinh cơ của nhà, toan nhảy xuống cho chết đi để chấm dứt những cơn đau.
Ngay cả một người uy nghi như Sùng Hiền hầu cũng phải làm những trò của đám quê mùa theo lời của các bà mụ để cho vợ có cơ may vượt cạn. Sùng Hiền đã phải cởi bỏ áo gấm thụng, đóng khố cởi trần trèo ngược cây cau như một nông phu. Nhưng bụng của phu nhân vẫn chỉ nhọn hoắt như quả nhót, không hề thấy chuyển động. Thái y lắc đầu ngao ngán, nói Sùng Hiền hầu cho người chuẩn bị hậu sự. Vì nếu không có phép lạ nào tới, thì trong chừng một buổi nữa, phu nhân sẽ kiệt sức.
Sùng Hiền hầu càng như ngồi trên đống lửa. Giấc mộng vinh hoa trông đợi bấy lâu nay đã đến điểm quyết định. Nếu phu nhân quá đau đớn mà chết, không sinh hạ được đứa con trong bụng thì cuộc đời và giấc mơ được làm Thái thượng hoàng, có cả thiên hạ trong tay cũng sẽ tan thành mây khói.
Không biết là lần thứ bao nhiêu, Sùng Hiền hầu bước tới chắp hai tay sụp xuống vái lạy trước bàn thờ. Ngài cũng đã quá mệt mỏi. Tính mạng phu nhân và đứa con trong bụng đang treo bằng sợi tóc.
Bàn thờ Phật và Đạo nghi ngút hương khói với hàng ngàn nén hương đã được đốt lên với lời khẩn cầu tha thiết. Những nén hương đã cháy hết mình uốn cong rũ xuống như những cánh hoa cúc để lộ màu tro xám ảm đạm được chiếu sáng bởi chín ngọn nến tượng trưng cho chín vía của Sùng phu nhân.
Hy vọng gần như đã tàn. Sùng Hiền hầu lẩy bẩy đứng lên. Quá mệt mỏi, ngài đổ nghiêng cả người vào bàn thờ.
Sùng Hiền hầu biết rằng, ở những ô cửa bên ngoài bức tường thành bao bọc dinh cơ đồ sộ của ông, không khí cũng đang căng nứt bởi sự hồi hộp. Các hoàng thân Thành Khánh hầu, Thành Quảng hầu, Thành Chiêu hầu, Thành Hưng hầu em trai ông thà bị chặt đi một cánh tay còn hơn thấy chị dâu mình sinh con trai.
Đức vua Nhân Tông không có con nối dõi, dù đã cầu thần Phật khắp mọi nơi, ngay cả tìm cách nhờ người dùng phép đầu thai mà vẫn không khai hoa kết quả. Theo lẽ đương nhiên, nếu Sùng Hiền hầu - vị hoàng thân lớn tuổi nhất, được sinh ra liền kề đức vua - có con trai thì con Sùng Hiền hầu sẽ có rất nhiều cơ may được lập làm Hoàng Thái tử.
Cách đây mấy năm, khi Đức hoàng thượng Nhân Tông và Linh Nhân Thái hậu đã hoàn toàn tuyệt vọng, không đi khắp các chùa cúng dàng cầu tự nữa, để lộ ý định tìm đứa con trai xuất sắc từ hoàng tộc để lập làm Hoàng Thái tử, trong dòng thân vương bắt đầu sôi lên như một vạc dầu. Của cải được tuôn vào các đền miếu để cầu tự. Các hoàng thân đua nhau cưới thêm vợ bé nàng hầu. Những phu nhân chính thất dù đã già và đủ mặt con trai con gái thì cũng không tiếc tiền của để cầu đảo, mời các ông lang hoặc lương y nổi tiếng trong nước đến xem mạch kê đơn bốc thuốc, ngõ hầu "lão bạng sinh châu" 1 cho cây khô lại thêm một lần đơm hoa. Sau khi bụng Hầu phu nhân nhô lên đến mức có thể nhìn thấy dưới lần áo mỏng, bụng của những hoàng thân phu nhân cũng lần lượt nhô cao. Các hoàng thân hy vọng những đứa con họ sắp sinh ra sẽ xuất sắc hơn những đứa con trai mà họ đang có.
Khi Sùng Hiền hầu phu nhân có mang được năm tháng, bỗng thấy trong dạ đau như bị thuốn sắt ngoáy vào, lăn lộn rên rỉ, tâm thần hốt hoảng, nói năng lảm nhảm, sức tàn lực kiệt chỉ còn thoi thóp thở. Các thầy thuốc từ trước đến nay được mệnh danh là thần y được mời đến. Dùng hết đơn nọ đến cách kia mà bệnh tình phu nhân không thuyên giảm. Nắp áo quan đã mở. Đồ tang khốc đã được sắm về. Đến khi người hầu gái thu dọn chăn đệm, nhấc phu nhân sang chiếc giường khác để chuẩn bị lau rửa mình mẩy trước khi khâm liệm, thấy rơi ra từ dưới gối một trái tim lợn đã khô đét bị cắm tua tủa những gai bưởi. Ở giữa trái tim ghim chặt một mảnh lụa viết tên phu nhân theo kiểu chữ triện. Người hầu gái hốt hoảng mang trái tim lợn đó bẩm Sùng Hiền hầu. Sùng Hiền hầu nhìn thấy trái tim, thất sắc gầm lên:
- Kẻ khốn nạn nào bầy trò vu thuật hại nhà ta đây! Thật to gan. Thật không ngờ! Trước đây mấy anh em sống hòa thuận với nhau là vậy. Chỉ từ ngày ganh đua ngôi Thái tử mới sinh ra cảnh nồi da nấu thịt này.
Sùng Hiền hầu lập tức mời pháp sư lập đàn tràng, mang trái tim lợn ra niệm chú nhổ hết những cái gai bưởi và đinh ghim ra khỏi trái tim lợn. Khi đó mới nghe thấy tiếng rên hừ hừ vẳng ra từ trái tim lẫn giữa những tiếng roi tra khảo vun vút của pháp sư mà ai cũng nhận ra đó là tiếng nói của Thành Quảng Hầu. Khi chiếc đinh ghim cuối cùng được rút ra, bỏ vào một chậu tiết lợn, Sùng phu nhân tỉnh lại.
Hôm nay Sùng phu nhân trở dạ. Sùng Hiền hầu đã mật lệnh cho gia nhân không lộ tin tức ra ngoài. Nhưng Sùng phu nhân vừa đau đẻ được chừng một canh giờ thì tại các cửa ngõ ra vào dinh thự nhà Sùng Hiền hầu đã lảng vảng bóng những kẻ thám báo, sẵn sàng chờ lượm lặt nhất cử nhất động những diễn biến tại nhà Sùng Hiền hầu để cấp báp về gia chủ.
° ° °
Con ngựa ô vạm vỡ phi hết tốc lựa về hướng núi Phật Tích.
Mép ngựa sùi bọt hồng.
Người gia nhân lực lưỡng nhà Sùng Hiền hầu rạp mình trên lưng ngựa.
Máu rỉ ra từ bả vai trái bị chém xả, rỏ xuống từng giọt lúc khoan lúc nhạt dọc trên những con đường đang chuyển dần sang màu đất đỏ len lỏi giữa những lùm cây rậm rạp.
Anh ta đã kiệt sức, lúc mê lúc tỉnh nhưng vẫn giữ chặt đạo bùn có những hình vẽ ngoằn ngoèo đã được khâu chặt trong ống tay áo. Mắt vẫn trông chừng những bụi cây rậm rạp ven đường.
Từ mỗi bụi cây đó, có thể bất thần xông ra những kẻ đầu trâu mặt ngựa, liều chết chặn ngang lối đi để gia nhân của Sùng Hiền hầu không đến được chùa Phật Tích.
May mà Sùng Hiền hầu vốn là một người suốt đời sống trong chốn cung đình, vốn chẳng xa lạ gì với những mưu mô thủ đoạn thoán đoạt, biết phòng xa nên đã cử một lúc ba người đàn ông lực lưỡng, phi ngựa và dùng đao thương đều giỏi, vốn xuất thân từ những tên lính thiện nghệ, trước đến nay vẫn được tiếng là bất khả chiến bại.
Con đường từ kinh thành đến chùa Phật Tích chỉ khoảng vài mươi dặm, mà bốn lần người đưa tin của Sùng Hiền hầu bị những kẻ thích khách che mặt kín mít xông ra chặn ngựa chực hành thích. Hai gia nhân đã liều chết vừa đánh lại vừa cản, mở đường máu cho kẻ mang tấm đạo bùa cứ thể dốc sức chạy đi gặp Đạo Hạnh đại sư.
Trong chùa Phật Tích, Đạo Hạnh đại sư đang đứng uy nghi trước hàng trăm đệ tử. Các đệ tử thành kính chắp hai tay, mắt ngời sáng, lắng nghe lời thầy như kẻ khát được uống nước. Đại sư đang thuyết giảng về Thanh tịnh đạo:
... Này chư tăng, theo chân lý Phật gia, chúng sinh chỉ hiện hữu trong một khoảnh khắc rất ngắn, như một bánh xe, trong khi đang lăn cũng như đang đứng yên, chỉ chạm đất ở một điểm duy nhất. Như thế, chúng sinh chỉ sống trong một khoảnh khắc của vòng sinh tử, nhưng với những kẻ người trần mắt thịt thì tưởng đó là cuộc sống duy nhất và dài lâu nên sinh tham ái... Khi ý niệm này mất đi, chúng sinh đó chết. Bởi vì chúng sinh của nhận thức vừa qua đã sống, không sống bây giờ và cũng không sống trong tương lai... Chư tăng! Khi nhận biết như vật, trong mỗi con người sẽ chế ngự được lòng tham ái...
- Mô Phật!
Tiếng niệm Phật từ đám tăng ni ào lên như sóng biển. Những đôi mắt ngấn lệ vì cảm động trước lẽ thấy đáo của Phật đạo.
Buổi thuyết giảng nào của Đạo Hạnh Đại sư cũng khiến cho chúng tăng cảm động đến rơi nước mắt. Thiền ý thâm hậu, tài cao học rộng, lại thêm uy danh của người đã từng nếm mật nằm gai tìm thầy học đạo sang tận đất Tây Trúc, khiến cho chúng tăng nơi nơi không quản đường xa cực nhọc đều lặn lội tìm về Phật Tích.
Đạo Hạnh nhìn ánh mắt thành kính của chúng tăng, trong lòng bỗng thấy nhồn nhột, tự hỏi:
- Chế ngự được lòng tham ái ư? Ta đang nói dối chăng?
Nếu những kẻ đang đứng trước mặt ta đây biết rằng, ta đang sắp sửa đổi kiếp sống này - một khoảnh khắc hiện hữu của bánh xe luân hồi chạm đất - để lấy một kiếp sống khác, để bù đắp cho những oan khổ thiệt thòi mà ta đã phải chịu đựng ở kiếp này!
Ta đã thiệt một kiếp. Đã lỡ một kiếp. Nếu họ biết ta đang sắp rời bỏ họ, làm ngược lại những điều ta đã khuyến dụ họ lâu nay, đổi lấy kiếp khác để được nếm trải tột đỉnh vinh hoa phú quý, tột đỉnh quyền lực, để có được thiên hạ trong tay, thì họ sẽ làm gì nhỉ?
Tội nghiệp cho chư tăng! Các người thì đăm đăm đứng đây, chôn chân để nghe những điều cao xa mà không biết rằng thầy của các người đã từ lâu rời bỏ các người.
Chừng nào các người chưa cắn răng bấm thịt để ngoi lên được địa vị của một kẻ có quyền nói mà không cần phải nghe, có thể tha hồ bày ra những con đường hỷ xả cho chúng sinh còn trong lòng thì thả sức toan tính những điều ngược lại cho bản ngã... thì các người chưa biết, con đường tới Phật đích, càng đi càng xa vời biết bao... Và ai có thể tự đoan chắc được với đất trời rằng, mình đã hoàn toàn từ bỏ được lòng tham ái...
Đại sư cố lấy hết can đảm nhìn xuống hàng ngàn con mắt. Ngài thoáng lo sợ. Chút tự vấn sẽ khiến ngài luống cuống. Nhưng không có điều gì xảy ra. Nhãn lựa của ngài, được rèn luyện qua nhiều năm, vẫn điềm nhiên phóng ra những tia thần diệu có thể thôi miên người nghe. Ngài yên tâm trở lại. Bỗng trong lòng bải hoải: "Ôi, cái bánh xe chạm đất khắc khoải này... ngươi đã được sinh ra, đã sống, đã vật lộn... Đời người dài quá là dài. Mỏi mệt. Cái khoảnh khắc này... để làm gì nhỉ?".
Đúng lúc đó, có tiếng vó ngựa sầm sập phi tới thiền đường. Con ngựa ròng ròng máu, trên lưng vắt vẻo tên gia nhân thiện nghệ của nhà Sùng Hiền hầu. Kẻ đó đã tắt thở, cánh tay phải chĩa thẳng về phía Đạo Hạnh đại sư. Trong ống tay áo của anh ta lộ ra tấm đạo bùa đã được khâu chặt.
Riêng Đạo Hạnh đọc được hai chữ ẩn giữa những hình vẽ ngoằn ngòe ấy. Đó là hai chữ: "Lâm bồn".
Đại sư hực lên một tiếng. Đổ vật ra đất. Đám chúng tăng huyên náo, rối loạn. Họ cuống cuồng vực đại sư vào hậu cung, tìm cách cứu chữa.
Nhưng thầy thuốc chưa kịp đến thì đã thấy đại sư đàng hoàng ngồi dậy, khoan thai như chưa có chuyện gì xảy ra.
Ngài ra hiệu cho đám chúng tăng ngồi tại chỗ, chớ gây kinh động, gọi tăng Huệ Mẫn đến, nói nhỏ mấy câu. Mắt Huệ Mẫn chợt đỏ hoe. Huệ Mẫn chạy vào lục lọi tìm kiếm rất lâu trong hậu cung, lát sau mới đưa đến trình thầy cái tay nải cũ kỹ và cây tích trượng từ ngày hành cước, kể từ khi Đạo Hạnh đại sư đến tu ở chùa Phật Tích, hai vật này được khóa kỹ dưới hầm của hậu cung.
Vài khắc sau, một mùi thơm ngào ngạt đã trùm lên khắp ngôi chùa. Huệ Mẫn cùng vài chú tiểu tâm phúc dìu đại sư vào hang núi Phật Tích, giúp ngài tắm rửa xông hương bằng nước thơm, rồi vận bộ cà sa thêu chỉ vàng lấp lánh.
Trông mặt đại sư lúc này trắng bệch như sáp, mắt lóc sáng những tia khác lạ.
Ngài ngồi xếp bằng trên Phật điện.
Trong hang núi tranh tối tranh sáng, trông rõ một đám mây ngũ sắc vờn quanh đầu ngài.
Đám chúng tăng càng thấy kinh dị, kéo đến ngồi quanh, nín thở.
Đại sư cất giọng, nghe âm u hun hút đã như người ở thế giới khác:
- Hỡi chúng tăng! Ta vừa nói với các người về cái khoảnh khắc bánh xe chạm đất. Và hôm nay, các người sẽ được thấy, cái khoảng khắc chạm đất của ta đã hết... Giờ kết thúc kiếp này của ta đã điểm...
Chư tăng ồ lên một tiếng. Dù đã được chứng kiến không ít lễ viên tịch của các đại sư, nhưng mỗi khoảng khắc như vậy vẫn là một khoảng rợn người mà như kéo dài vô tận.
Và những con người vốn coi thường lẽ sinh tử này bắt đầu cầu kinh, phần để siêu thoát cho người sắp đơn độc bay vào cõi vô thường, vừa để trấn an mình.
Cái phút giây mà người ta bỗng cảm thấy cuộc sống mà ta vốn coi rẻ bỗng đột nhiên quý giá. Và, cái không khí khác lạ toát ra từ cuộc viên tịch này khiến cho chư tăng run rẩy.
Những khối thạch nhũ trong hang như bị bầu không khí đặc quánh kéo trĩu xuống. Dường như có tiếng ngạ quỷ khành khạch cười đâu đây.
Đại sư tiếp lời:
- Nhưng, túc nhân của ta chưa hết, còn phải trở lại thế gian này... Ta sẽ tái ngộ các ngươi trong một hình hài khác, đặng thỏa những tham ái mà kiếp này dẫu biết nhưng ta chưa thể từ bỏ. Hết kiếp nọ, ta mới lên cõi trời Tam thập tam làm Thiên chủ. Khi nào thấy thân ta bị hư hoại, thì lúc đó các ngươi biết rằng ta mới thật vào Niết Bàn, lúc đó mới hết trụ trong vòng sinh diệt...
Chư tăng thoáng nhận thấy những điều trái ngược mơ hồ trong lời trối trăng của đại sư. Nhưng nỗi nuối tiếc người thầy sắp ra đi làm cho tâm can họ đau đớn. Xung quanh Đạo Hạnh nổi rần tiếng khóc.
Mỉm cười, mặt càng tái nhợt, cảm thấy cái giá buốt đang chạy ngược lên từ hai gan bàn chân và đang xua đuổi linh hồn ra khỏi thân thể ngài. Nhưng Đạo Hạnh cũng không thể không cảm thấy một luồng giá buốt khác chạy theo hướng ngược lại, bóp nghẹt trái tim đa cảm của ngài. Đạo Hạnh nghĩ một cách đau xót: "Ta đã lừa dối họ! Ta đã bỏ rơi họ. Cả đời họ đã theo ta, để bị ta lừa dối ư? Họ sẽ sống ra sao với sự lừa dối của ta?".
Đạo Hạnh đưa mắt về phía chiếc tích trượng và tay nải cũ kỹ. Chiếc tích trượng mòn vẹt cũ nát. Đã chấm dứt một cuộc hành cước ở kiếp này, những kỷ niệm và khao khát của kiếp này. Kiếp này ta chưa kịp sống. Ta đã tự dối mình và dối người quá nhiều. Trống rỗng bóp nghẹt tim ngài.
Chiếc tay nải màu già được mở ra dưới bàn tay Huệ Mẫn. Cây sáo năm xưa dưới bàn tay Từ Lộ. Mười ngón thanh tao quý phái lướt khúc "Phượng cầu hoàng". Những chiếc ngù bằng chỉ vàng đã xơ xác. Lâu lắm rồi ta không được thổi khúc "Phượng cầu hoàng". Gương mặt của người con gái với đôi mắt dài thăm thẳm, quấn quyện hồn người chập chờn trên cây sáo...
Tận đáy tay nải, trồi lên một cái đầu dã nhân lông lá, khô đét, một đôi mắt dã nhân đã đứng tròng, to tròn như mắt đàn bà ngây dạu trân trân...
Một nỗi ngao ngán, ân hận khẽ cuộn lên trong lòng đạo Hạnh đại sư.
Nhưng thời khắc quyết định đã điểm. Nếu chỉ chậm trễ nửa khắc, Sùng phu nhân tắt thở thì con đường trở sang kiếp khác của Đạo Hạnh sẽ bị chặn lại. Linh hồn của người đi đầu thai không nơi nương náu sẽ rơi xuống thế giới ngạ quỷ.
Thu hết sức tàn, Đạo Hạnh cố cất lời đọc bài kệ phó chúc, như thủ tục trước khi viên tịch của các đại sư.
Bài kệ này ngài đôc không chút ngắc ngứ vì đã chuẩn bị trước từ ba năm, từ ngày nhận lời Sùng Hiền hầu hoàng thân:
Thu lai bất báo nhạn lai quy
Lãnh tiếu nhân gian tạm phát bi
Vị báo muôn nhân lưu luyến trước
Cổ sư kỷ độ tác kim sư 2
Lời kệ cuối cùng vừa dứt, hồn của Đại sư cũng thoát ra khỏi thóp đầu và hai bên nách, thành một luồn khí xanh lẹt khoáng đạt, không đến Trời cũng không đến Phật, lãng quên mọi duyên kiếp, bay vụt lên nóc hang.
Duy thân xác của ngài vẫn an nhiên ngồi trên Phật điện, trong hang đá, vững chắc như gắn liền với nền hang làm thành một khối.
Chư tăng sụp xuống vái lạy, đi vòng quanh xá lỵ 3 của ngài, miệng niệm Phật, trong lòng thầm tiễn cánh nhạn lẻ loi đó về cõi Niết Bàn.
Riêng có tăng Huệ Mẫn biết linh hồn của đại sư không về cõi.
Huệ Mẫn ngửa mặt lên nóc hang, ngửa mặt lên trời, nhìn theo luồng khí xanh lẹt, thấy luồng khí mang hình hài một đứa trẻ sơ sinh, hướng vào một dinh thự nguy nga tráng lệ. Ngay lúc đó, chung quanh Huệ Mẫn sực nức mùi thịt cá được xào nấu cùng hành tỏi. Cái mùi này, từ ngày đi tu theo Đạo Hạnh đại sư, Huệ Mẫn đã quên, thậm chí gần đây mỗi lần vô tình ngửi thấy thì muốn nôn ọc.
Nhưng bây giờ, ngửi thấy mùi đó, Huệ Mẫn không buồn nôn nữa.
Và rồi, vô tình, đôi mắt Huệ Mẫn hạ xuống đất, bắt gặp chú tiểu cỡ mười hai tuổi đang cầm chiếc chổi quét chùa, Huệ Mẫn nuốt nước bọt, nhìn chú tiểu, răng chợt nhe ra như răng của loài ăn thịt.
Chú tiểu bắt gặp cái nhìn của tăng Huệ mẫn, hoảng hồn vứt chổi bỏ chạy. Huệ Mẫn đuổi theo.
Chú tiểu vừa chạy vừa kêu khóc.
Chúng tăng đổ xô ra cản Huệ Mẫn cho chú tiểu chạy thoát.
Huệ Mẫn bị chặn lại, vấp ngã, máu chảy dài trên mặt, bèn lết tới bên chum nước nhà chùa, vốc nước rửa mặt.
Huệ Mẫn nhìn thấy gương mặt mình trong đáy chum. Trên vai, dính liền vào cổ, là một đứa hai nhu đang tượng hình, trông giống một con nòng nọc. Đó là đứa hài nhi mà Huệ Mẫn trông thấy trong bụng một thiếu phụ khi vợ chồng hắn vừa mổ bụng chị ta cách đây chín năm.
Huệ Mẫn nức nở đập đầu vào đá.
° ° °
Chư tăng không biết rằng, linh hồn của Từ Đạo Hạnh chẳng phải là một cánh nhạn bay mênh mang về cõi Niết Bàn.
Đúng như Huệ Mẫn trông thấy, linh hồn ngài chỉ là một luồng khí xanh mang hình một hài nhi. Linh hồn ngài khi ra khỏi nóc hang chùa Phật Tích thì ngừng lại, lơ lửng và thiêm thiếp ngủ giữa lưng chừng trời, rồi biến thành một con rái cá.
Lũ ngạ quỷ trong những vạc dầu sôi sùng sục kêu thét với những con mắt đỏ ngầu hăm dọa phía dưới xa kia. Và ngài biết rằng, trong hình thù này, nếu ngài không mau chóng tím được một chỗ trú ngụ, nếu bị rơi xuống đáy kia thì sau bảy ngày, ngài sẽ phải chết một cái chết nhỏ. Sau bốn mươi chín ngày, ngài sẽ phải chết đi sống lại bảy lần. Nếu không tìm được một nơi trú ngụ nào khác, ngài sẽ phải trở thành một oan hồn đói khát lang thang trong thế giới ngạ quỷ.
Linh hồn Đạo Hạnh run rẩy. Nhìn lên cao, cõi Atula nhẹ bỗng với những sinh vật nửa người nửa thiên thần đang cợt nhạo.
Ngài chưa đạt đức độ để đến cõi Atula.
Và nỗi buồn thảm của cảnh tượng bên dưới khiến ngài sực nhớ đến thân phận mình, cái duyên cớ viên tịch giữa tuổi bốn mươi sáu đang sung sức của ngài chợt hiện về.
Cái luồng khí xanh ấy vụt biến mất vẻ khoáng đạt. Con rái cá đã cụt mất đuôi.
Một giấc ngủ muồi, nhấn Đạo Hạnh lún sâu thêm vào một giấc mơ mới. Giấc mơ của những kẻ sau cái chết, đang ở trong thế giới thân trung hữu 4.
° ° °
Ngài mơ thấy, mình đang lững lờ trong bóng tối, trên trần buồng ngủ lộng lẫy của Sùng Hiền hầu.
Trên đệm gấm, sáng lên dưới ngọn bạch lạp được cắm trên giá vàng, lại được chụp bằng chao đèn màu hồng ngọc, là đôi thân thể trần truồng của vợ chồng Sùng Hiền hầu. Sùng hầu râu dài đến rồn, mớ râu được búi lại cho gọn và cài bằng trâm ngọc xanh của đàn bà, cho khỏi vướng khi hành sự.
Sùng Hầu nằm sấp, nhùn nhẩy trên người phu nhân. Tấm thân khô héo của phu nhân bỗng như được tưới tắm và căng ra trong thoáng chốc.
"Cha mẹ tương lai của ta đây ư?" - Hồn Đạo Hạnh thoáng vẻ ghê tởm.
Hồn che mặt xấu hổ.
Nhưng sự xấu hổ đó không cưỡng được dục căn lại như một luồng khí thổi thốc lên từ bên trong.
Hồn bỗng thấy sinh lòng ham muốn cái thân thể đang bị che khuất gần hết dưới thân mình Sùng hầu.
Và một mối ghen tức khủng khiếp với Sùng hầu khiến hồn của Từ run lên từng đợt, những muốn xé tan ông ta ra để nhào tới, giành giật lấy tấm thân của Sùng hầu phu nhân.
Cái luồng khí mang hình con rái cá cụt đuôi lao đi...
Lúc ấy, Sùng hầu rên lên một tiếng, người giật một cách kỳ cục rồi đổ vật ra, ngửa người lên và cất tiếng ngáy.
Hồn của Từ hăm hở ấp lên người phu nhân.
Nhưng người phu nhân đã như vụt tan biến, chỉ còn hai đùi, cái bụng và một đường âm đạo hun hút, thăm thẳm và ẩm ướt, mang mùi tanh lợm pha trộn mùi oải hương.
Luồng khí xanh lẹt mang hồn Từ miễn cưỡng luồn vào con đường tối om và thăm thẳm đó, vừa đi vừa tự rủa thầm mình sao lại nhận lời Sùng hầu.
Hồn đi đến cuối con đường thì đã chui tọt vào trong hình hài một đứa trẻ trai nằm cuộn tròn sẵn trong bụng Sùng phu nhân, bất động như một xác chết.
Ngay lúc đó, một luồng khí màu vàng đục bị luồng khí xanh dồn đuổi đã bay vụt ra khỏi lưỡi của đứa trẻ, ra khỏi bụng của Sùng phu nhân. Riêng hồn của Từ nghe thấy một tiếng gầm giận dữ phóng theo ánh mắt căm hờn:
- Từ Lộ! Ngươi đã đuổi ta ra khỏi chỗ trú ngụ. Ngươi muốn chiếm đoạt ngai vàng. Lẽ ra ngai vàng phải là của ta. Nay hồn ta lơ lửng chân không đến đất cật không đến giời, ắt không khỏi rơi xuống địa ngục. Trong khi đó thì ngươi an hưởng vinh hoa phú quý. Ta thề sẽ trả thù này!
Hồn Từ ngoái nhìn. Thì ra, luồng khí màu vàng đục vừa thoát ra khỏi lưỡi đứa bé trong bụng Sùng phu nhân là linh hồn của Đại Điên pháp sư. Hồn Từ nhoẻn cười, đắc thắng, yên ổn an tọa trong bụng đứa trẻ.
Khi đó, bụng của Sùng Hiền hầu phu nhân mới dậy lên đôi gót chân đạp thúc của một đứa trẻ.
Phu nhân rú lên một hồi dài.
Và một trẻ trai khôi ngô, bé chỉ bằng cổ tay người lớn từ từ trồi ra.
Vai trái ra trước, chìa ra một bàn tay bé xíu đỏ hỏn có ngón tay út như bị cháy sém.
"Phu nhân đẻ ngang". Bà mụ kêu lên, bủn rủn chân tay.
Nhưng rồi, cái đầu với đôi mắt hắt ra những tia sáng chói từ từ chuồi ra.
Cuối cùng, nó phô ra cho toàn gia của Sùng Hiền hầu đang hồi hộp muốn vỡ tim thấy cái điều mà họ mong mỏi. Đó là cái mẩu bé tí nhô lên giữa hai đùi - cái vật khiến cho nhà này sẵn sàng đổi cả tính mạng.
- Con trai rồi!
Sùng hầu ôm mặt khóc nức nở. Quỳ xuống vái lạy về phía núi Phật Tích. Phu nhân ngất đi trong niềm mãn nguyện.
Ngoài kia, những tên gia nhân của các nhà hoàng thân mặt xám lại, không dám đích thân truyền tin dữ cho gia chủ. Chúng viết vào những vuông lụa: "Trai. Đặt tên Dương Hoán. Thằng bé có tướng đẹp, lạ nhưng yếu ớt. Chưa hẳn đã sống được đến ngày được lập làm thế tử!".
--------------------------------
1"Trai già sinh ngọc".
2Thơ dịch (trích Từ điển Phật học - Chân Nguyên và Nguyễn Tường Bách biên soạn):
Thu về chẳng hẹn nhạn cùng bay
Cười lạt người đời luống xót vay
Thôi! Hỡi môn đồ đừng lưu luyến
Thầy xưa mấy lượt hóa thầy nay.
3Từ dùng để chỉ những di thể còn sót lại của Phật hoặc những bậc đắc đạo, thường được thờ trong các tháp hoặc chùa chiền.
4Thân trung hữu nghĩa là trạng thái tồn tại ở khoảng giữa, còn được gọi là Trung ấm. Đây là giai đoạn nằm sau cái chết và trước sự tái sinh. Trạng thái này được nhắc đến nhiều trong kinh sách của nhà Phật, như Kim cương thừa và Tử thư.