ĐOẠN ĐẦU ĐÀI
Ngày Mùi. Giờ Tỵ.
Gió lay phần phật những lá cờ đại được cắm cao trên cái cột còn hoen máu người.
Hai trăm quân thị vệ gươm giáo sáng lòa. Vòng trong là giàn cấm quân lực lưỡng quần đen áo đen mặt bôi vôi trắng.
Vua Thần Tông nửa nằm nửa ngồi trên chiếc sập kê cao đặt giữa sân. Đức Vua không khỏe. Từ khi dự hội liên hoa cầu mưa ở hồ Dâm Đàm hồi cung, Ngài ngự cứ chập chờn nửa thức nửa ngủ. Trong cơn mê mệt, nhiều lúc cầm tay cung nữ Ngạn La mà buột miệng gọi tên sư bà Nhuệ Anh.
Đã qua một tuần trăng Ngài ngự bỏ không thiết triều. Nhưng Thái bảo Lý Trác vẫn vào được tận long sàng. Vua hai mắt khép hờ nghe Lý Trác tâu trình về những điều đại nghịch trong cuốn tà thư của Lê Thị Đoan. Hai thị nữ phe phẩy quạt hương trầm. Thần Tông sốt ruột hé mắt nhìn. Chỉ thấy khuôn mặt xanh lợt, dài ngoẵng trong cái ánh tối âm u của quan Thái bảo. Thần Tông phẩy tay thều thào cắt ngang lời Lý Trác:
- Đừng nói nữa... Trẫm... chuẩn tấu!...
Thế là mọi việc được quan Thái bảo toàn quyền định đoạt.
° ° °
Nắng và gió đưa mùi máu tanh nồng lưu cữu từ đoạn đầu đài tạt qua mất trăm gương mặt lính và quân kỵ. Tạt lên chỗ quan Thái bảo khu mật sứ Lý Trác đang ngồi uy nghi trước đám quan văn võ tề tựu đông đủ.
Nắng và gió cũng đưa mùi tanh nồng phả vào mặt đám chúng dân đang xô đẩy chen lấn nhau...
Cuối cùng, nắng và gió dừng lại trên mặt một người đang bị trói trên chiếc cột đoạn đầu đài, trước một đống sách lớn phủ vải đen, trên đề dòng chữ bằng vôi trắng "Tà thư". Bên trên đống sách là bài vị mang tên nữ sĩ Lê Thị Đoan. Từ trong bức họa trên bài vị, đôi mắt của nữ sĩ nhìn xuống thăm thẳm buồn.
Người bị trói là một thư sinh mảnh mai. Những vết thương bầm dập trên mặt vẫn không che khuất được vè anh tuấn. Thư sinh này là Lê Đan - con trai của người viết ra cuốn sách đang bị đưa ra hành hình. Lê Đan khoan thai nhìn Đoạn đầu đài, nhìn Lý Trác, nhìn đám quan lại, nhìn đám dân chúng đang xô đẩy chen lấn dưới kia. Ánh bao dung rạng ngời trong mắt.
Cách chân Lê Đan không xa, một hỏa lò đang hoác miệng cháy rừng rực. Một vạc dầu sôi sục đang ngùn ngụt tỏa khói. Mùi dầu sền sệt pha lẫn mùi máu người hết năm này sang tháng khác rơi tầng tầng lớp lớp tại chốn này khiến ruồi nhặng và vô số những đàn quạ sà xuống đen trời.
Ba trăm thuốn sắt nung đỏ được cắm sẵn trên miệng hỏa lò.
Trống hiệu dồn dập nổi lên theo lệnh của quan Thái bảo.
Lý Trác đội mũ bình thiên, xốc áo bào, sụp lạy Vua, rồi mở tờ chiếu trên tay cất giọng dõng dạc:
- Lê Thị Đoan, lúc trước vốn đã phạm tội khi quân, là phận gái mà dám học đòi đèn sách, lại cậy tài, dám giả trai đi thi, bị phát giác, may đức Tiên vương ta mở lượng hải hà tha cho tội chết, chỉ phải đi đày biệt xứ. Lẽ ra phải biết đem gan óc lầy đất ra đền ơn Vua cứu mạng. Vậy mà Lê Thị Đoan lại nuôi chí nghịch tặc, mượn bút mực nói ra những điều tà vạy. Tội đáng tru di. Nhưng trời có mắt phạt kẻ nghịch tặc, Thị Đoan đã chết cách đây mười năm. Nhưng nay dù nghịch nữ đã chết nhưng mầm độc vô vàn của những điều mụ viết ra còn đó, gây tác hại không biết bao nhiêu mà kể. Đã thế, Lê Đan, đứa con hoang của mụ, không biết trông gương mẹ mà cải tà quy chính, lại còn cả gan cầm bút viết, lại cả gan sưu tập, đem tán phát những mầm độc đó trong dân gian. Mầm loạn phải diệt trừ tận gốc!...
Ngừng đọc, Lý Trác tiến lên ba bước, sát tới chỗ Lê Đan đang bị trói, đẩy chàng ngã ngửa, giẫm một chân lên ngực, quát:
- Sinh ra là con một kẻ nghịch tặc. Như vậy, trong máu ngươi đã mang mầm phản loạn. Cái giống nhà ngươi có sống cũng chỉ gieo tai vạ cho xã tắc. Ngươi đã biết tội chưa?
Bị nghẹt thở vì bàn chân nặng trịch dằn lên người, Lê Đan vẫn đĩnh đạc:
- Mẹ con ta làm gì nên tội?
Lý Trác thét:
- Không được ngoan cố. Nếu ngươi biết hối cải, ta sẽ mở lượng hải hà. Bằng không, những thuốn sắt nung đỏ này sẽ xuyên qua cái mạng nhép của nhà ngươi!
Lê Đan mỉm cười:
- Tôi phải làm gì để được khoan thứ, thưa ông?
- Tự tay ngươi phải dùng thuốn sắt đâm vào bài vị của mẹ ngươi, đem đốt trên hỏa lò và thề rằng: Bà Lê Thị Đoan - người đã viết những lời vu vạ, báng bổ trong cuốn tà thư này, tôi xin kính cáo trước trời đất quỷ thần rằng một người như vậy không xứng đáng là mẹ tôi!
Lê Đan cười to:
- Quan Thái bảo! Ngài chẳng gì cũng mang tiếng học hành đỗ đạt, biết được dăm mười chữ thánh hiền, lại muối mặt đi khuyên kẻ khác làm những điều phi luân vô đạo vậy ư? Quan đầu triều mà phẩm hạnh như vậy, hỏi còn gì để đám dân đen chúng tôi trông vào?
Lý Trác tím mặt, lùi lại:
- Được lắm! Ngươi thật chẳng hổ danh là con của mụ đại nghịch. Lê Đan! Ta ban cho ngươi đặc ân cuối cùng: sống thêm vài khắc để chứng kiến cuộc tận diệt những cuốn tà thư của mẹ ngươi.
° ° °
Bài vị của nữ sĩ Lê Thị Đoan đã bị lưỡi búa đao phủ băm nhỏ.
Đoán quân đi vòng quanh, dùng những thuốn sắt nung đỏ đâm nát từng trang sách rồi đem thiêu trên miệng hỏa lò. Bìa sách thì quẳng vào vạc dầu.
Những trang giấy mong manh quằn mình dưới những thuốn sắt đang cuồng nộ thọc xuống. Các gương mặt lầm lì dữ tợn nhấp nhô trên đầu thuốn sắt. Tiếng tù và rúc. Tiếng trống xung trận. Tiếng hô "Sát! Sát"... Những tàn tro màu xám bạc bị khói và lửa tung lên trời, chới với bay như những cánh chim nhạo bị bão.
Bị vây bởi vòng trong vòng ngoài thuốn sắt nung đỏ, Lê Đan ngẩng đầu nhìn theo những dòng chữ đã hóa thành tro trong cuốn sách của mẹ, giờ đang bay trên trời như những cánh chim, đung đưa theo gió và nắng, rồi lả mình đáp xuống dòng sônG Cái hồng hào đang chảy qua kinh thành, gọi:
- Quan Thái bảo! Ngài làm được khá nhiều việc khôi hài. Dòng họ Lê Thị Đoan biết cảm ơn ngài sao đây? Ngài đã khiến cuốn sách và tên tuổi của mẹ tôi bất tử.
- Mẹ ngươi đã chết hai lần. Và giờ đây ta sắp cho mụ tuyệt tự. Cớ sao ngươi dám nói rằng mụ bất tử?
- Lý Trác! Những cuốn sách bị đốt là những cuốn sách được phong thần. Chữ biến thành tro, hòa vào nước. Người đời uống nước, nuốt chữ mẹ ta vào lòng. Ngươi dù ba đầu sáu tay cũng không thể mổ bụng moi hết tim gan người nước Nam để hành hình những dòng chữ của mẹ ta.
Lý Trác gầm lên:
- Ta không thể mổ hết bụng của những kẻ bị con mụ Lê Thị Đoan lung lạc. Nhưng điều chắc chắn ta có thể làm ngay bây giờ là mổ bụng ngươi để xem gan của kẻ thừa tự mụ nghịch tặc này lớn đến cỡ nào. Có thế, những kẻ dám ti toe cầm đến mực tàu và bút lông mới táng đởm kinh hồn từ nay...
Lưỡi gươm đao phủ chọc vào ngực áo chàng trai, hất ngược. Mọi người rùng mình. Chiếc áo bị rách đứt ngọt, lộ ra mảng ngực gầy trông rõ từng chiếc xương sườn. Lý Trác cười:
- Ngực mỏng thế, tim gan sao đủ lớn?
Mũi gươm đặt vào mỏ ác, dền dứ. Rồi, đao phủ nhón chân, hơi đổ người về phía trước, dồn lực đâm tới.
Lê Đan hướng về phía đám đông đang sôi sục căm phẫn:
- Tôi biết... trong đám các vị sẽ có những người viết tiếp cuốn sách của mẹ con tôi.
Sau một tiếng thét, ruột gan Lê Đan đã bị phơi bày trên một chiếc mâm đồng.
Trên sập, Thần Tông rên lên một tiếng, hộc ra một bụm máu tươi, hai tay choãi rộng, thân oải ra sóng soài.
° ° °
Cuối sông Cái.
Những tàn than đáp xuống sông đã tự động kết lại thành những dòng chữ. Cơ man người lội xuống vệ sông.
Mỗi người cầm một chiếc gáo dừa để múc nước sông.
Một người nói:
- Tôi uống nước sông. Uống chữ của bà Đoan vào trong tim cật. Hồn bà có thiên xin về chứng giám. Để sông Cái không bao giờ ngừng chảy. Để chính khí nước Nam này không bao giờ cạn kiệt.
Trên bờ, một người đàn ông mặc triều phục, vừa cười vừa khóc, đôi tay liên tục viết chữ vào không trung. Người võ vẽ biết đôi chữ đều thấy rõ ông ta đang đưa tay viết chữ "mạt".
Hai người đàn ông dùng gáo vớt chữ hỏi nhau:
- Ai đó?
- Nghe bảo đó là quan nghị đại phu Mâu Du Đô. Ông ta không ngăn được quan Thái bảo trong vụ mổ bụng Lê Đan, rồi giả điên mà bỏ triều đình ra đi.