← Quay lại trang sách

HỒI XV Giữa đường gặp gỡ

Chiều từ từ xuống. Tiếng chuông công phu của ngôi chùa thôn Đường Lâm vọng lên rời rạc. Trời trong vắt không một gợn mây. Hai người ngập ngừng bước vào miếu Ngô Vương. Đó là một đôi vợ chồng trẻ. Người chồng khoảng gần ba mươi còn người vợ độ hai mươi ngoài. Y phục của họ bằng vải thô và chân mang giày rơm, song cử chỉ và cốt cách lại khác hẵn dường như họ xuất thân từ nơi giàu có và quyền quí. Mỗi người mang trên vai gói hành lý nhỏ.

– Trời sắp sữa tối rồi chắc chúng ta tạm ngụ trong miếu này qua đêm rồi mai sáng sẽ lên đường sớm…

Người chống thong thả lên tiếng và người vợ cất giọng ôn nhu và lễ độ:

– Thưa phu quân tính như thế rất tiện lợi… Thiếp đâu có than phiền điều gì…

Nói xong người vợ mỉm cười nhìn chồng một cách âu yếm. Đặt hai gói hành lý vào trong góc người chồng dìu vợ ngồi xuống nền nhà lát gạch. Dân làng ở Đường Lâm rất sùng bái và kính phục Ngô Vương Quyền cho nên họ thay phiên nhau săn sóc ngôi miếu thờ vì thế nền gạch sạch trơn và bóng loáng.

– Miếu này là miếu gì thưa phu quân?

Không trả lời câu hỏi của vợ người chồng im lặng nhìn ra ngoài trời. Nắng chiều vàng đọng trên cành cây soan ngoài sân. Khẽ thở dài người chồng âu yếm nhìn vợ:

– Đây là miếu thờ Ngô Vương, vị anh hùng đã đánh bại quân Nam Hán để đem lại nền tự chủ và độc lập cho nước ta sau hơn một ngàn năm nô lệ…

– Thiếp đọc sách nói thôn Đường Lâm có hai vị anh hùng dân tộc là Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng và Ngô Quyền. Hóa ra chúng ta đang ở trong miếu thờ Ngô Vương…

Lại thở dài người chồng lên tiếng phụ họa lời của vợ:

– Phu nhân nói đúng… Dân chúng thôn Đường Lâm rất tự hào vì có hai vị anh hùng xuất thân từ nơi chôn nhau cắt rún của họ. Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng là một người khoẻ mạnh lại tinh thông võ nghệ nhất là môn vật cổ truyền của dân tộc ta. Người ta đồn ông có thể vật trâu đánh hổ. Vào khoảng đời Đường quan đô hộ sứ Giao Châu Cao Chính Bình là một kẻ tham lam và tàn ác khiến cho dân chúng khổ sở lầm than. Bất bình vì lời ta thán của dân lành vô tội Phùng Hưng chiêu mộ hào kiệt, thu nạp binh lính, chế tạo cùng mua sắm vũ khí rồi đứng lên chống lại nhà Đường. Tuy cuộc quật khởi của ông chỉ đem lại tự do và độc lập cho đất nước trong quãng thời gian ngắn song chứng tỏ chí quật cường của dân ta vì thế sau khi ông mất dân chúng làng Đường Lâm mới lập đền thờ. Còn Ngô Vương thời chắc phu nhân thông thạo hơn ta nhiều…

Người chồng chợt ngưng nói khi nghe có tiếng bước chân vang lên ngoài sân rồi một thanh niên trẻ tuổi ăn mặc như hàng dân giả thong thả bước vào.

Thấy có người đang ở trong miếu thanh niên vòng tay kính cẩn thi lễ:

– Xin nhị vị thứ cho sự đường đột. Kẻ hèn này tưởng…

Kín đáo quan sát thanh niên mới vào xong người chồng điềm đạm cất tiếng:

– Không có chi… Đây là miếu thờ Ngô Vương chứ không phải nhà riêng của chúng tôi. Hai vợ chồng tôi chỉ là kẻ lỡ đường tạm ngụ qua đêm…

Mỉm cười nhìn vợ một cách âu yếm người chồng tiếp:

– Tiện nội họ Ngô… Tuy không phải là hậu duệ của Ngô Vương song tiện nội rất ngưỡng mộ Ngô Vương…

Thiếu phụ cười khẽ và nói với giọng ôn nhu song pha chút bông đùa:

– Thưa tôn ông… Thấy người ta sang bắt quàng làm họ chính là tôi đó…

Thanh niên mới vào bật tiếng cười vui vẻ xong đặt gói hành lý cồng kềnh vào trong góc miếu. Nhìn quanh quất y cười nói:

– Lãng Thư Sinh tôi hân hanh được hội ngộ nhị vị hiền phu phụ…

Thấy hai vợ chồng đều nhìn mình với ánh mắt dò hỏi y từ từ giải thích:

– Chẳng dấu chi nhị vị tôi trước cũng theo đòi đèn sách song trượt vỏ chuối hoài đâm chán nản bỏ đi du lãng giang hồ. Bằng hữu quen biết thường hay gọi đùa là Lãng Thư Sinh…

– Ạ…

Ạ tiếng nhỏ người chồng liếc nhanh vợ rồi lên tiếng:

– Hân hạnh được hội ngộ với tiên sinh…

Ba người im lặng nhìn ra ngoài. Nắng chiều đọng trên cành cây soan cao ngất ngoài sân. Lát sau Lãng Thư Sinh khẽ tằng hắng:

– Nhị vị chắc chưa dùng cơm tối?

Người chồng ngần ngừ không trả lời thời người vợ lên tiếng trước:

– Hai chúng tôi không đói lắm… Mời tiên sinh tự nhiên…

– Tiện sinh có lòng thành mời nhị vị bữa cơm tối. Cũng chẳng phải là cao lương mỹ vị gì…

Người vợ nhìn chồng hỏi ý. Thấy chồng khẽ gật đầu nàng cười nhẹ thốt:

– Đa tạ tiên sinh… Vì gấp rút lên đường nên chúng tôi không kịp chuẩn bị…

Lãng Thư Sinh tháo gói hành lý lấy ra một gói bọc bằng lá chuối. Người vợ nói đùa:

– Tôi ngửi được mùi gà nướng… Thế mà tiên sinh bảo là chẳng cao lương mỹ vị…

Lãng Thư Sinh bật cười vui vẻ vì câu nói đùa của thiếu phụ nhưng lại lắc đầu cười thốt:

– Món gà nướng quê mùa của thôn Đường Lâm sẽ không làm nhị vị hài lòng lắm…

Người chồng lên tiếng ngắt lời kẻ mới quen:

– Hai vợ chồng tôi cũng xuất thân từ chốn quê mùa dân giả…

Lãng Thư Sinh nhìn hai vợ chồng giây lát như để nhận xét và so sánh rồi mỉm cười không thừa nhận song cũng không phủ nhận về câu nói của người chồng. Cuối cùng y lên tiếng:

– Mời nhị vị dùng đũa…

Đưa năm ngón tay lên y cười tiếp:

– Tiện sinh hàm ý là vật này…

Không khách sáo hai vợ chồng ngồi vào.

– Tiên sinh thứ lỗi…

Người vợ vừa dùng tay xé con gà vừa nói câu xã giao trên. Đặt hai cái đùi gà trước mặt khách và chồng nàng cười nhẹ:

– Mời tiên sinh và phu quân…

Chầm chậm nhai miếng thịt gà xong bóc miếng xôi bỏ vào miệng Lãng Thư Sinh tặc lưỡi:

– Ông bà mình nói miếng ăn ngon không cần phải cao lương mỹ vị… Điều đó thật đúng…

Nhìn hai vợ chồng y cười nói tiếp:

– Đói bụng thời ăn cái gì cũng ngon…

Người chồng cười gật gù:

– Tiên sinh nói đúng… Đói bụng thời cơm nguội cá kho cũng ngon huống hồ gì thịt gà nướng…

Hai người đàn ông vừa ăn vừa trò chuyện một cách vui vẻ. Lãng Thư Sinh thầm nhận xét đôi vợ chồng mới quen này tuy ăn mặc lam lũ song lời ăn tiếng nói lễ độ và lịch sự. Cách xưng hô, đối đáp và nhất là ngôn ngữ của họ chỉ có nơi hàng trâm anh thế phiệt hoặc quyền quí cao sang.

Như có ý muốn tìm hiểu về hai người mới quen y điềm đạm lên tiếng:

– Tiện sinh định thăm viếng Tam Đảo. Nhị vị hiền phu phụ sống ở vùng này chắc phải biết rành về Tam Đảo?

Người vợ liếc nhanh chồng. Thấy chồng khẽ gật đầu nàng cười thánh thót:

– Tôi nghe người ta nói núi Tam Đảo nằm ở địa phận hai xã Lan Đình và Sơn Đình huyện Tam Dương lộ Quốc Oai. Sở dĩ có tên Tam Đảo là vì có ba ngọn núi cao chót vót. Ngọn chính giữa là Thạch Bàn, bên tả là Thiên Thị còn bên hữu là Phù Nghĩa. Phía sau vách núi dựng đứng còn đỉnh núi đất đá lẫn lộn nên cây cối rậm rạp xanh tươi với nhiều loại như quế, hồi… Phía trước dưới chân núi có khe Giải Oan tức là thượng nguồn của sông Sơn Tang thuộc huyện Yên Lạc. Sông Sơn Tang từ khe Giải Oan chảy qua Sơn Tang, Hương Canh rồi qua Nam Viêm xong đổ vào sông Nguyệt Đức. Núi Thạch Bàn còn có tên gọi khác là Kim Thiên cao ngất trời và khe thác nhiều không kể xiết. Từ phía tả khe Giải Oan đi lên núi đến hồ sen sắc nước xanh biếc và sen đỏ nở hoa bốn mùa thơm ngát. Hai bên hồ suối từ sườn đá đổ xuống như tấm lụa, bên tả gọi là suối Bạc còn bên hữu gọi là suối Vàng…

Thiếu phụ ngừng nói mỉm cười nhìn chồng xong quay qua nói Lãng Thư Sinh:

– Tôi chỉ biết vậy thôi. Tiên sinh là học trò văn hay chữ tốt chắc biết nhiều hơn tôi…

Lãng Thư Sinh cười lớn:

– Tiện sinh là một cuồng sinh mấy lần phạm trường qui cho nên đâu dám tự cho mình văn hay chữ tốt. Phu nhân mà đi thi nếu không đỗ đệ nhất giáp thời cũng phải đệ nhị hay đệ tam giáp…

Người chồng cười lên tiếng thay cho vợ:

– Đa tạ tiên sinh quá khen… Tiện nội trời sinh thông minh học một biết mười lại là con mọt sách…

Cười lớn Lãng Thư Sinh hỏi:

– Nếu tiện sinh không lầm nhị vị chắc không phải xuất thân từ hàng thứ dân?

Dứt câu y nhìn người chồng chăm chú như chờ nghe câu trả lời.

– Vin vào điều gì mà tiên sinh cho rằng hai chúng tôi không phải là hàng thứ dân nghèo khổ?

Thiếu phụ ứng tiếng trả lời thay cho chồng bằng một câu hỏi.

– Nhị vị không nhận ra sự khác biệt giữa mình và hàng dân giả ư?

Lãng Thư Sinh trả lời câu hỏi của thiếu phụ bằng một câu hỏi khiến cho cả ba người đồng cất tiếng cười vui vẻ. Xuyên qua cuộc chuyện trò họ ngầm hiểu rằng người mình tình cờ gặp gỡ trong miếu Ngô Vương không phải thuộc hàng thứ dân nghèo khổ mà phải có thân thế và lai lịch khác thường chỉ có điều họ không muốn tiết lộ.

Bóng tối đổ xuống thật nhanh xóa nhòa cảnh vật bên ngoài. Đứng lên khơi sáng thêm ngọn đèn dầu Lãng Thư Sinh cười nói với hai vợ chồng:

– Nhị vị cần phải nghỉ ngơi để mai lên đường sớm. Tiện sinh chúc nhị vị ngon giấc…

– Đa tạ tiên sinh…

Người chồng lên tiếng xong ngồi tựa lưng vào vách trong lúc người vợ nằm bên cạnh. Mỗi người im lặng theo đuổi ý nghĩ riêng tư của mình. Tiếng côn trùng rỉ rả.

Quá canh ba đang ngồi tựa lưng vào vách Lãng Thư Sinh chợt mở mắt và bàn tay mặt khẽ đặt lên gói hành lý nằm bên cạnh. Y nghe được tiếng bước chân của người nào đó dẫm lên trên đất. Không phải một người mà là hai người đang bước vào sân trước miếu Ngô Vương.

Qua ánh sáng mờ mờ của ngọn đèn dầu dọi ra tới cửa y thấy hai người bước vào. Họ mặc thứ y phục đặc biệt mà thấy một lần rồi y không bao giờ quên. Đó là sắc phục của nhân viên thuộc ban truy tầm đoàn do thám Thăng Long.

Nghe có tiếng cựa mình Lãng Thư Sinh liếc qua chỗ hai vợ chồng nằm và thấy cả hai cũng thức giấc. Điều khiến cho y kinh ngạc là thái độ của hai vợ chồng không được bình thường lắm nếu không muốn nói là lo âu và sợ hãi.

Hai nhân viên do thám liếc nhanh ba người lạ ở trong miếu rồi lẳng lặng ngồi vào trong góc trái. Không khí trong miếu lại chìm vào im lìm song có người không ngủ.

Nhờ nhãn lực tinh tường vả lại khoảng cách cũng gần do đó Lãng Thư Sinh thấy thiếu phụ nắm chặt tay chồng trong lúc người đàn ông hai mắt mở thao láo nhìn về phía hai nhân viên do thám. Thái độ đó chứng tỏ ông ta vừa phòng bị vừa lo âu.

Quay nhìn về phía hai nhân viên do thám y thấy chúng xầm xì to nhỏ. Tuy nhiên không có chuyện gì xảy ra và đêm qua trong yên lặng.

Tiếng gà eo óc gáy rồi lát sau bắt đầu rộ lên song trời vẫn còn tối. Hai vợ chồng thức giấc sửa soạn hành lý để lên đường. Mang gói hành lý cồng kềnh vào vai Lãng Thư Sinh nói nhỏ:

– Nhị vị lên đường bình an… Tiện sinh hy vọng sẽ gặp lại nhị vị…

Nằm lấy tay vợ người chồng lên tiếng ngắn và gọn:

– Đa tạ tiên sinh…

Hai người bước đi. Ngang qua chỗ hai nhân viên do thám đang ngồi cả hai cúi gầm mặt xuống như không muốn người ta nhận diện mình. Lãng Thư Sinh thấy hai nhân viên do thám liếc nhau đoạn một người buông gọn hai chữ:

– Đứng lại…

Nghe tiếng quát hai vợ chồng ngưng bước.

– Hai ngươi đứng lại cho ta hỏi…

Người chồng quay đầu lại cười gượng:

– Nhị vị muốn hỏi điều chi?

Hai nhân viên do thám từ từ đứng dậy. Một tên đặt tay vào chuôi đao mang bên hông.

– Hai vợ chồng ngươi đi về đâu?

Hơi ngập ngừng giây lát người chồng hắng giọng:

– Hai chúng tôi đi Bắc Giang…

Lãng Thư Sinh trông thấy tên do thám mang đao cười nhạt.

– Hai ngươi quê quán ở đâu? Đi Bắc Giang làm gì?

Lãng Thư Sinh cau mày khi nghe cung cách điều tra đầy xấc xược của hai nhân viên do thám. Đó là giọng điệu hỏi cung đầy tính chất quan quyền. Tuy không thấy nét mặt của người chồng song nhìn thấy bàn tay mặt của ông ta nắm chặt lại y biết ông ta nổi giận vì câu hỏi xấc xược, cộc cằn của hai tên do thám.

– Quê chúng tôi ở Quốc Oai còn chúng tôi đi Bắc Giang thăm bà con…

– Bà con của ngươi tên gì? Ở đâu?

– Người bà con của chúng tôi tên là Nguyễn Bách Phú ở huyện Đông Ngàn…

Giọng nói trầm trầm của người chồng vang lên trong ngôi miếu thờ rét mướt và lạnh lẻo. Lãng Thư Sinh bỗng nhiên bật lên tiếng cười ngắn. Giọng cười của y như có vẻ diễu cợt vì sự tra hỏi của hai nhân viên do thám. Hai tên này nhìn nhau hỏi ý đoạn một tên hướng về Lãng Thư Sinh hỏi một câu cộc lốc:

– Còn ngươi tên gì? Tại sao ngươi cười?

Lãng Thư Sinh chưa vội trả lời. Tên do thám cười gằn:

– Ngươi cười gì? Bộ ta lạ lắm sao mà ngươi cười?

Lãng Thư Sinh vẫn giữ được thái độ bình tịnh khi nghe hai nhân viên của đoàn do thám Thăng Long chuyển đề tài bằng cách sừng sộ và hạch sách mình.

– Tôi đâu có cười hai đại nhân. Tôi nào dám cười đùa hay trêu chọc nhân viên của đoàn do thám Thăng Long…

Giọng nói của Lãng Thư Sinh cao lên khi nói tới năm chữ cuối cùng như ngầm thông báo cho hai vợ chồng mà mình mới quen trong miếu Ngô Vương.

Thoạt đầu khi hai tên do thám vào miếu y đoán là chúng theo dõi mình. Tuy nhiên tới bây giờ y mới biết mình đoán không đúng. Qua câu chuyện dường như hai tên do thám đang tìm kiếm hoặc truy tầm đôi vợ chồng nào đó có liên hệ tới vấn đề nào đó mà y chưa khám phá ra. Từng bị săn đuổi bởi nhân viên do thám cho nên y biết nếu bị truy tầm hai vợ chồng xa lạ này không thể nào trốn thoát được. Dù chỉ quen biết nhau qua một đêm y cảm thấy ái ngại cho hoàn cảnh khốn khổ của họ.

Nghe Lãng Thư Sinh nói tới năm chữ ” đoàn do thám Thăng Long ” người vợ lộ vẻ lo âu và sợ sệt trong lúc người chồng im lìm không lên tiếng.

– Trời sáng rồi tiện sinh cũng phải lên đường về Phượng Sơn cho kịp lúc trời tối…

Không một ai thấy được trong khi nói câu trên Lãng Thư Sinh đã dùng tay viết lên trên nền gạch đỏ hai chữ ” Thiên Đức “.

Người chồng chợt lên tiếng:

– Hoá ra tiên sinh cũng ở Bắc Giang mà tôi không biết. Phượng Sơn và Thiên Đức cũng là láng giềng với nhau…

Mang gói hành lý cồng kềnh vào vai Lãng Thư Sinh cười nói với hai vợ chồng:

– Tiện sinh hân hạnh được đồng hành với nhị vị một đoạn đường. Mời nhị vị đi trước…

Ngập ngừng giây lát người vợ mới cùng chồng bước ra khỏi cửa. Lãng Thư Sinh thong thả theo sau. Hai nhân viên do thám im lặng nhìn ba người bước ra sân mà không có lời nói hoặc thái độ ngăn cản. Khi ba người vừa quẹo vào con đường làng một tên nói với đồng bọn:

– Ta nghi ngờ chúng lắm…

– Ta cũng thế… Ngươi bám đuôi bọn chúng còn ta tới gặp Anh Tư để trình bày đầu đuôi câu chuyện…

Dứt lời một tên biến mất sau cửa hậu của miếu Ngô Vương.