← Quay lại trang sách

HỒI XVI Về Hoa Lâm

Lý Đông Ba, Tiểu Dung và Thanh Anh ngồi trong một quán ăn nhỏ và xập xệ nơi ngã ba. Ba người cắm cúi ăn uống không ai nói với ai lời nào. Ngưng đũa Lý Đông Ba nhìn đăm đăm nhìn con đường thiên lý chạy dài mút mắt.

– Nội nội… Đây là đâu vậy nội nội?

Tiểu Dung lên tiếng. Lý Đông Ba cười trả lời đứa cháu nội thân yêu.

– Đây là chợ Thổ Hà?

Thấy cháu nội còn ngơ ngác ông ta tiếp nhanh.

– Thổ Hà là một làng nhỏ thuộc huyện Yên Viên lộ Bắc Giang. Nó nằm trên tả ngạn sông Nguyệt Đức…

– Sông Nguyệt Đức là sông nào vậy nội nội?

Lý Đông Ba chưa kịp trả lời Thanh Anh cười nói thay.

– Nguyệt Đức là con sông nằm cách huyện Vũ Ninh mươi dặm về phía bắc, là một hợp lưu của hai nguồn nước khác nhau. Một nguồn từ phía nam sông Ngọc Long ở châu Thái Nguyên chảy vào địa phận huyện Hiệp Hòa mà dân sở tại gọi là sông Hà Châu, sông Trà Lâm, sông Gia Cát rồi chảy khoảng năm mươi dặm vào sông Hương La thuộc huyện Yên Phong. Nguồn nước thứ hai bắt từ sông Bạch Hạc chảy qua địa phận các huyện Yên Lãng và Yên Lạc rồi vào địa phận huyện Kim Anh làm sông Phù Lai, sông Hương Da, sông Phù Lỗ lại chảy một đoạn dài thành sông Thiên Phúc rồi hợp với sông Hương La tại ngã ba Hương La sau đó chảy qua các huyện Hiệp Hòa, Yên Phong, Yên Viên và Võ Giàng rồi đến sông Phả Lại huyện Quế Dương rồi vào sông Đại Than huyện Gia Bình hợp với sông Thiên Đức…

– Hiền đệ nói như thế chị làm sao nhớ hết được?

Tiểu Dung nói trong tiếng cười. Dường như nàng rất thích thú khi biết Thanh Anh so về vai vế phải gọi nàng bằng chị mặc dù nàng nhỏ tuổi hơn. Đưa tay chỉ con đường trước mặt Thanh Anh cười nói.

– Đi theo con đường này chừng vài chục dặm ta sẽ tới phủ Thiên Đức…

– Nội nội… Lý hiền đệ nói có đúng không nội nội?

Nhấp ngụm trà bốc khói Lý Đông Ba gật đầu cười.

– Đúng đó con… Ta khen ngợi cho sự hiểu biết của Thanh Anh…

Nhìn Lý Đông Ba bằng vẻ biết ơn Thanh Anh cười nói tiếp.

– Lúc nhỏ ngoài việc khổ luyện vũ thuật cháu còn bỏ thời giờ đọc nhiều sách về địa lý rồi khi cháu lớn lên cha cháu lại dẫn đi khắp nơi trong nước. Cha cháu thường dạy rằng muốn lưu lạc giang hồ cháu phải thông thạo địa thế như núi sông, làng mạc, chùa chiền, phong thổ lẫn khí hậu. Cha cháu và cháu thường hay lên vùng Trùng Khánh, Tràng Định, Lạng Giang, vùng biên giới Đại Lý, Hoá Châu, Hoan Châu, Tam Đảo, Tản Viên để tìm kiếm dược thảo như nhân sâm, hà thủ ô, sừng nai… Ông có nghe người ta nói núi Tản Viên và huyện Bất Bạt có một loại cỏ tên là Vô phong độc dao thảo, đầu như con ve, đuôi như đuôi chim, hai nhánh có thể tự tách ra và chụm lại được, nếu có người tới gần vổ tay ca hát thời lá rung động như múa…

Lý Đông Ba cười nhẹ nhấp ngụm nước trà.

– Ta có nghe nói tới loại cỏ đó nhưng chưa thấy tận mắt. Nước ta núi cao rừng rậm nhiều không kể xiết lại ít người lui tới hay cư ngụ cho nên chuyện lạ xảy ra cũng là thường tình…

Ngừng lại giây lát ông ta cười tiếp.

– Hai con cơm nước xong rồi chúng ta lên đường. Từ đây về Hoa Lâm xa lắm. Ít nhất cũng ba bốn ngày đi bộ…

– Bộ ta đi suốt đêm không ngủ hả ông nội?

Tiểu Dung lên tiếng hỏi và Lý Đông Ba nhẹ gật đầu đáp.

– Ban đêm đường vắng vẻ nhờ đó chúng ta có thể dùng thuật phi hành đi nhanh hơn…

Nói tới đó ông ta chợt dừng lại nhìn chăm chú rồi thấp giọng nói xuống như tiếng thì thầm vừa đủ cho Thanh Anh và Tiểu Dung nghe.

– Nhân viên do thám… Ba tên đang đi tới… Hai con cứ ngồi yên… Có lẽ chúng…

Lý Đông Ba dừng lại khi thấy ba nhân viên do thám thuộc ban tin tức đi gần tới chỗ mình ngồi. Tuy nhiên chúng dừng lại nơi ngã ba dường như chờ đợi đồng bọn. Đôi mày bạc cau lại ông ta ngưng thần như cố lắng tai nghe ba nhân viên của đoàn do thám Thăng Long nói chuyện với nhau.

– Ta đợi toán ba tới rồi đi luôn một thể cho tiện. Từ đây tới thôn Thái Đường cũng không xa lắm…

Lý Đông Ba động dung khi nghe tên do thám nói tới ba chữ ” thôn Thái Đường “. Khẽ ra dấu cho Thanh Anh và Tiểu Dung im lặng ông ta ngưng thần nghe tiếp.

– Thưa Anh Tư… Chắc có việc gì quan trọng lắm nên anh mới rời Lạng Sơn trong lúc mùa đông giá rét…

– Lê Thăng… Ngươi đoán đúng đấy. Chuyện này không những quan trọng mà còn cấp bách nữa. Đây là lệnh của quan thái sư cho nên không những ta mà luôn cả ba vị trưởng ban của ba ban tin tức, truy tầm và ám sát đều được lịnh phải có mặt ở xã Hoa Lâm để thi hành nhiệm vụ. Toán ba tới rồi thôi chúng ta đi kẻo trễ…

Lý Đông Ba trông thấy một toán nhân viên của đoàn do thám Thăng Long chừng mười mấy người đi tới nhập vào toán của ba người đang đứng đợi xong rồi kéo nhau xuôi về hướng nam.

– Có chuyện gì vậy ông nội?

Không vội trả lời câu hỏi của đứa cháu gái Lý Đông Ba nhẹ hỏi Thanh Anh.

– Cháu biết thôn Thái Đường thuộc xã Hoa Lâm của phủ Thiên Đức là gì không?

Thanh Anh đáp không do dự.

– Cha cháu nói đó là hành cung của tổ tiên ta, là nơi dòng họ bà con của ta hàng năm thường tụ hội để tế lễ tổ tiên… Thôn Thái Đường nằm cạnh sông Thiên Đức…

– Sông Thiên Đức ở đâu vậy Lý hiền đệ?

Tiểu Dung lên tiếng hỏi. Thanh Anh chưa kịp trả lời Lý Đông Ba đặt một đồng Thiên Tư Thông Bảo lên bàn xong thì thầm.

– Ba tên do thám hồi nãy nói chuyện với nhau trong đó ta nghe chúng nói tới tên Thái Đường. Ta linh cảm…

Ông ta nói tiếp trong lúc đứng lên.

– Chút nữa ta sẽ nói rõ cho hai con nghe trong lúc đi. Ở đây tai vách mạch rừng không tiện nói nhiều…

Dứt lời Lý Đông Ba bước nhanh ra đường. Đó cũng chính là con đường mà toán nhân viên của đoàn do thám Thăng Long đã đi qua. Trời mùa đông. Gió lạnh căm mặc dù nắng le lói. Nhà cửa lác đác và người đi lại lưa thưa.

Ngó trước ngó sau không thấy ai Lý Đông Ba hắng giọng:

– Hàng năm vào mùa đông tất cả họ hàng của chúng ta khắp nơi trong nước tụ về thôn Thái Đường ở xã Hoa Lâm để gặp gỡ nhau và làm lễ tế tổ tiên…

– Hoa Lâm ở đâu vậy nội nội?

Tiểu Dung hỏi và Thanh Anh hắng giọng:

– Ông cho phép con được trả lời. Xã Hoa Lâm nằm cạnh sông Thiên Đức. Đây là hành cung mà các vua nhà Lý của ta thường hay trú ngụ mỗi khi về thăm quê quán…

– Sông Thiên Đức ở đâu hả Lý hiền đệ?

Tiểu Dung lập lại câu hỏi của mình lần nữa như có ý muốn Thanh Anh phải trả lời. Hiểu ý anh chàng họ Lý cười đáp:

– Sông Thiên Đức ở cách phủ Thiên Đức chừng hai mươi bảy dặm về phía tây. Nó là một nhánh của sông Lô chảy vào địa phận xã Xuân Canh rồi đổ về hướng nam qua các huyện Gia Lâm, Tiên Du và Siêu Loại mà dân địa phương gọi là sông Lạc Thổ hay sông Đông Hồ rồi sau đó chảy vào xã Vũ Dương thuộc huyện Quế Dương tới huyện Gia Bình thành sông Đại Than rồi gặp hai con sông Nguyệt Đức và Nhật Đức…

Lý Đông Ba mĩm cười khi nghe Thanh Anh giảng dạy cháu nội của mình về địa dư nước nhà. Đợi cho Thanh Anh dứt lời và Tiểu Dung không hỏi gì nữa ông ta mới trầm trầm lên tiếng:

– Đây là dịp để cho Trần Thủ Độ ra tay tiêu diệt hết dòng họ của chúng ta…

– Nội nội… Như vậy chúng ta phải làm sao?

Tiểu Dung lên tiếng hỏi. Quay nhìn Thanh Anh đang bước song song với mình Lý Đông Ba nói với giọng buồn rầu pha chút phẫn hận:

– Ta đã già gân chùng cốt mỏi trong khi hai con dù bản lĩnh cao siêu cũng không thể nào đối địch lại đoàn do thám Trần triều…

Thanh Anh thở dài buồn bã. Từng bị săn đuổi y biết rõ sức của một người không thể nào chống cự lại ngàn nhân viên của đoàn do thám Thăng Long. Không những vũ thuật cao siêu cộng thêm lực lượng đông đảo, nhân viên đoàn do thám còn nắm trong tay một lá bùa hộ mệnh là triều đình.

Giọng nói của Lý Đông Ba vang vang trong cơn gió mùa đông lạnh lẻo:

– Để khỏi bị Trần Thủ Độ tận diệt chúng ta nên tìm cách đi vào phương nam trú ẩn. Lúc còn trẻ ta đã lưu lạc tới vùng Lâm Bình…

– Lâm Bình xa không ông nội?

Tiểu Dung hỏi và Lý Đông Ba trả lời không do dự:

– Xa lắm…Từ đây vào tới Lâm Bình đường xa ngàn dặm, phải qua sông qua núi qua đèo mất mấy tháng trời. Đó là chưa kể trộm cướp…

– Thưa ông con biết đường vào Lâm Bình. Cha của con có dẫn con vào Lâm Bình và Nghệ An một lần cách đây ba năm để kiếm sâm, nhung và quế hương. Vừa đi vừa về mất hơn nửa năm trời…

Tiểu Dung tròn mắt nhìn Thanh Anh với vẻ kinh ngạc pha lẫn thích thú:

– Thanh Anh đã vào Nghệ An à. Chị nghe nói trong đó phong cảnh đẹp lắm…

Nàng xưng chị tỉnh bơ dù nàng nhỏ hơn Thanh Anh mấy tuổi. Tuy nhiên Thanh Anh không tỏ vẻ khó chịu về lối xưng hô này. Liếc nhanh Lý Đông Ba đang cắm đầu bước đều trên con đường đất đỏ với thái độ trầm tư mặc tưởng Thanh Anh quay qua cười nói với Tiểu Dung:

– Nghệ An là đất mới đặt ra từ thời nhà Lý ta. Trước kia thời Đinh Lê gọi là Hoan Châu cũng như Thanh Hóa là Hóa Châu. Đất Nghệ An rừng núi mênh mông cho nên sản vật và muông thú nhiều vô số kể. Nghệ An có nhiều núi lắm nhưng tôi thích nhất là hai rặng Hồng Lĩnh và Giăng Màn…

– Giăng Màn… Tên gì nghe kỳ cục vậy… Bộ tính chuyện đi ngủ sao mà giăng màn, giăng mùng…

Tiểu Dung bật cười ròn tan sau câu nói đùa trên. Như lây cái tính vui vẻ và hồn nhiên của người chị bà con nhỏ tuổi hơn mình Thanh Anh cũng cười ha hả nói tiếp:

– Núi Giăng Màn mà có người gọi là núi Khai Trướng nằm ở phía tây hương Đỗ Gia. Đây là rặng núi cao nhất của Nghệ An bắt nguồn từ châu Qui Hợp với hàng chục ngọn núi chạy dài tới Diễn Châu. Thứ nhì là rặng Hồng Lĩnh nằm giữa hai huyện Hà Hoàng và Hàm Hoan. Người ta đồn rặng Hồng Lĩnh có tới chín mươi chín ngọn núi lớn nhỏ cao thấp khác nhau. Tuy không cao bằng Giăng Màn nhưng Hồng Lĩnh lại có hình thế hùng vĩ hơn. Hoan Châu có nhiều sản vật quí từ thổ sản tới lâm sản đặc biệt nhất là quế hương. Chị Dung biết quế hương không?

Tiểu Dung xì tiếng dài nói với giọng nửa bông đùa nửa tức bực:

– Biết chứ… Thanh Anh làm như chị ngu chị khờ lắm sao mà không biết cây quế. Nó có mùi thơm và là vị thuốc trị bệnh. Nhưng quế ở Nghệ An đâu có tốt bằng quế ở Thanh Hóa…

Mĩm cười gật gù Thanh Anh nói tiếp:

– Chị nói đúng. Quế Nghệ An không tốt bằng Thanh Hóa. Cây quế có hai loại là quế đực và quế cái…

Không nhịn được Tiểu Dung ôm bụng cười như nắc nẻ:

– Quế đực và quế cái… ha… ha… ha…Lần đầu tiên chị mới nghe nói…

Lý Đông Ba chợt xen vào câu chuyện của hai cháu:

– Thanh Anh nói đúng đó con. Cây quế có hai loại cái và đực. Cây quế cái có vỏ mỏng hơn còn cây quế đực có vỏ dầy hơn. Hoan Châu còn có sâm mà ta gọi là nam sâm để phân biết với sâm của Tàu. Ngoài ra Châu Hoan còn có trầm hương, sừng tê, ngà voi và gỗ lim rất quí…

– Như vậy có cây quế đực và cây quế cái hả ông nội?

Lý Đông Ba nhẹ gật đầu như trả lời cháu nội xong thong thả tiếp:

– Cây quế thân cao lớn, cành lá rườm rà, hoa nhỏ như hạt gạo mà không thơm, lá lớn trơn dài, nhọn và có ba đường gân. Thanh Anh con biết phân biệt quế tốt hay xấu không?

– Thưa ông con biết… Vỏ quế bóc ra từ cây quế được chia ra nhiều loại tốt xấu khác nhau và tác dụng cũng khác nhau. Thứ nhất là quế hạ bản tức là vỏ quế được bốc ra từ phần dưới hay là gốc của cây quế. Thứ nhì là quế trung châu được bốc ra từ phần giữa thân cây. Thứ ba là quế thượng biểu được lấy từ phần ngọn của cây. Thứ tư là quế chi được lấy ra từ cành cây. Có nhiều cách để phân định quế tốt hay xấu. Cách thứ nhất là cạo bỏ lớp vỏ ngoài xong mài với ít nước; nếu ra chất trắng như sữa bò thời tốt nhất, còn ra như nước trà xanh thời là loại thứ nhì và sau cùng nước đỏ là loại thứ ba. Ta cũng có thể nếm vỏ quế để biết quế tốt hay xấu. Đầu tiên nếm mà vị ngọt cay rồi đắng và sau cùng vị ngọt và ít cay hơn thời đó là quế tốt. Ngoài ra nếu lấy dao gọt bỏ lớp vỏ ngoài đoạn cắt làm đôi mà chỗ cắt trong như sáp, rất mịn và thấy có đường chỉ trắng thẳng băng thời quế rất tốt còn nếu đường chỉ trắng ngoằn ngoèo thời xấu hơn…

Lý Đông Ba mĩm cười khi thấy Tiểu Dung làm thinh không nói lời nào. Giọng nói của Thanh Anh từ từ cất lên:

– Chị Dung biết không. Muốn tìm võ quế không phải dễ đâu. Đôi khi phải mất cả tháng trời lặn lội trong rừng sâu…

– Chị nghe nói cây quế mọc nhiều lắm mà…

Thanh Anh lắc đầu cười:

– Những cây đó là của người ta trồng mình đâu có bóc vỏ được. Còn những cây mọc hoang mà gần nơi dân chúng ở thời thuộc về triều đình cho nên nếu mình bóc vỏ sẽ bị phạt tù…

Tiểu Dung trề môi xì tiếng dài:

– Cái gì cũng của triều đình… Riết rồi dân lành chỉ còn cạp đất mà ăn…

– Chị nói đúng đó. Những nơi nào có quế hàng năm phải tiến cống cho triều đình đúng với số lượng được ấn định nếu không sẽ bị tù tội. Bởi vậy các xã quan phải cho lính canh gác vì sợ bị mất cắp. Tìm được cây quế vô chủ trong rừng hoang đã khó mà tìm cây quế có vỏ khô càng khó hơn nữa. Cha tôi và tôi phải đi vào vùng hoang vu giáp với biên giới nước Lão Qua mới tìm ra một cây rồi chỉ bóc được vài miếng vỏ…

– Tôi tưởng thân cây quế cao lớn phải có nhiều vỏ lắm…

Thanh Anh cười nói:

– Đúng ra thì có nhiều vỏ nhưng thường thường lúc mình tìm gặp thời vỏ đã bong ra rơi xuống đất mục nát không còn dùng được hoặc đôi khi vỏ còn non không dùng được. Cha tôi nói mình phải có duyên mới tìm được miếng vỏ quế tốt cũng như đi tìm sừng tê, ngà voi vậy. Nhiều khi nó ở ngay trước mắt mà mình không thấy. Chuyện tìm cây quế của tôi chắc làm chị chán không muốn nghe…

Tiểu Dung lắc đầu cười nhìn đứa em bà con và giọng nói của nàng cũng êm dịu và thân mật hơn:

– Tôi thích nghe lắm chứ. Thanh Anh đi nhiều nên biết nhiều hơn tôi. Thanh Anh kể nữa đi…

Thanh Anh quay qua nhìn Lý Đông Ba và bắt gặp ông ta cũng đang nhìn mình mỉm cười ý nhị.

– Đi tìm các vật quí trong rừng khó lắm nhưng khó nhất là củ sâm và cây trà. Cha tôi nói hai thứ này biết đi…

Không nhịn được Tiểu Dung bật cười ròn tan. Tiếng cười của nàng vang vang trong đêm tối thâm u. Ngay cả Lý Đông Ba cũng phải mỉm cười khi nghe Thanh Anh nói củ sâm và cây trà biết đi.

– Bộ nó có chân sao mà biết đi?

Tiểu Dung hỏi đùa tuy nhiên Thanh Anh lại nói với giọng nghiêm trang:

– Chuyện kể nghe thời khó tin song có thể là sự thật. Cây trà mọc trong rừng hoang vu không dấu chân người lui tới nên nhiều khi sống lâu tới mấy trăm năm hoặc cả ngàn năm. Vì sống lâu cho nên nó hấp thụ linh khí của trời đất núi sông rồi lâu dần có phù phép khiến cho mình không thấy nó. Một lần tôi và cha tôi tìm gặp một cội cỗ trà già nua không biết bao nhiêu tuổi mà cha tôi chỉ nói là thiên niên. Gặp cội trà ngàn tuổi này ông mừng còn hơn lượm được ngọc ngà châu báu. Ông bảo tôi bỏ hết dược thảo, xương cọp để dành chỗ đựng lá trà. Ông bảo lá cây trà thiên niên còn hiếm và quí hơn sâm nhung hay hà thủ ô. Mang lá trà về nhà xong ông cặm cụi ướp, ủ, sấy trà cả tháng trời mới ngưng tay. Năm sau cũng vào mùa xuân người và tôi trở lại chỗ cũ thời không thấy cội trà thiên niên đó mặc dù cha tôi đã làm dấu cẩn thận vì sợ bị lạc đường không tìm ra nó. Hai chúng tôi lục lọi hết một vùng rộng lớn cũng không tìm ra dấu vết. Cuối cùng cha tôi buồn rầu bảo là mình đã hết duyên để gặp cho nên nó tàng hình không cho mình thấy…

Thanh Anh ngừng lời. Ba người im lặng không nói gì hơn. Lát sau Lý Đông Ba hắng giọng:

– Ta có nghe kể về chuyện cây trà sống lâu ngàn năm này. Nhà ông nội của ta ở châu Thái Nguyên cũng có cây trà sống ba bốn trăm năm. Tới mùa nó nở hoa thơm phức. Ông nội của ta quí nó còn hơn ngọc ngà châu báu và cưng nó hơn con cháu trong nhà…

Quay qua Thanh Anh ông ta cười hỏi:

– Chắc cháu có nghe bà nội cháu kể những chuyện ly kỳ về cây nhân sâm?

Thanh Anh chưa kịp trả lời Tiểu Dung nói nhanh như sợ người khác nói trước mình:

– Nội nội con biết chuyện này… Chuyện kể rằng thuở xa xưa có một tiều phu có một đứa con nhỏ năm bảy tuổi. Hàng ngày ông ta cho đứa con một nắm cơm để ăn trước khi đi đốn củi. Mặc dù chỉ ăn cơm không song đứa bé lại khoẻ mạnh và da thịt hồng hào. Kinh ngạc ông ta mới hỏi con trai ăn cái gì mỗi ngày. Đứa bé nói với cha là cơm của nó bị khỉ trong rừng ra lấy mất. Không hiểu chuyện gì xảy ra ông ta không đi hái củi mà ở nhà rình xem. Ông ta thấy cơm của con mình bị khỉ lấy mất nhưng chốc lát sau lại có một đứa trẻ bụ bẩm, nét mặt hồng hào đến chơi với con của mình. Lấy làm lạ người cha mới đưa cho con sợi chỉ đỏ và dặn khi nào đứa trẻ lạ mặt đi về thời buộc sợi chỉ đỏ vào tay của nó. Người cha đi lần theo sợi chỉ đỏ mới gặp một loài cây lá hình năm cánh và có trái màu đỏ. Đào lên ông ta gặp một cái củ có hình dáng tương tự như người ta. Chính cái củ này đã hiện thành đứa bé đến chơi với con ông và truyền sức khoẻ của nó cho con của ông ta. Có phải vì vậy mà hiền đệ mới nói là củ sâm biết đi…

Lý Đông Ba mỉm cười nhẹ lắc đầu vì biết cháu nội mình mượn chuyện cổ tích để diễu cợt người em bà con. Tuy nhiên Thanh Anh không tỏ vẻ phật lòng mà vẫn tươi cười lên tiếng:

– Chị Dung kể chuyện cổ tích hay lắm. Cha tôi còn nói trong các loại dược thảo thời đứng đầu là linh chi thảo, thứ nhì nhân sâm còn hà thủ ô đứng hàng thứ ba. Hà thủ ô và nhân sâm thời nước ta cũng có, riêng linh chi thảo thời chúng tôi tìm hoài không thấy. Sách xưa bảo rằng phải là người có duyên phận lớn lắm mới tìm gặp nó. Linh chi thảo…

– Hiền đệ tìm loại cỏ này để làm gì?

Tiểu Dung hỏi Thanh Anh.

– Tuy người ta gọi là linh chi thảo song nó không phải là cỏ mà là cây nấm. Chắc chị biết cây nấm rừng?

– Biết chứ sao không biết. Nơi chị ở có thiếu gì nấm. Đen có, vàng có, đỏ có và trắng còn nhiều hơn nữa. Có nhiều thứ ăn bổ còn có thứ độc lắm ăn vào là chết liền…

Thanh Anh cười nói đùa:

– Nhiều khi chị gặp linh chi mà chị không biết. Nó là một loai nấm thường sống nơi rừng rậm, ẩm ướt và thiếu ánh sáng…

– Cây linh chi ra làm sao. Chị muốn hỏi Thanh Anh về hình dáng để sau này có gặp…

Tiểu Dung hỏi câu trên. Thanh Anh mỉm cười trả lời:

– Linh chi có hình dáng khá kỳ lạ so sánh với loại nấm thường. Có thứ giống như cây nấm thường song mũ nấm nhăn nheo xấu xí; có thứ hình dáng giống như trái thận; có thứ giống như sừng hươu nai; có nhiều màu khác nhau như xanh, đỏ, đen, vàng, trắng…

Lý Đông Ba chợt lên tiếng ngắt lời của Thanh Anh:

– Ta nghe có tiếng vó ngựa…

Thanh Anh cũng ngưng thần lắng tai nghe ngóng rối thấp giọng:

– Thưa ông… Con nghe được vó ngựa nhiều lắm…

Lý Đông Ba chầm chậm gật đầu:

– Chắc là nhân viên do thám hay quan binh…

Dứt lời ông ta ngó quanh quất. Họ đang ở trên quãng đường mà hai bên toàn đồng trống. Xa xa về bên phải nổi lên chòm cây đen mờ trong bóng đêm thâm u.

– Tới chòm cây đó…

Lý Đông Ba nói lớn xong băng mình chạy trước. Thanh Anh và Tiểu Dung theo sau. Tới nơi họ mới biết đó là một gốc soan già cao ngất với cành lá um tùm.

– Dung nhi lên trước…

Tiểu Dung nhảy lên cành cây trong lúc Thanh Anh và Lý Đông Ba tung mình lên nhánh cây nhô ra đường. Thu hình trên cao Thanh Anh nhìn về phía tây nơi có xóm nhà đèn lửa mập mờ. Tiếng vó ngựa mỗi lúc một rõ hơn rồi chốc sau một toán người ngựa hiện ra trong bóng đêm.

Lý Đông Ba thì thầm:

– Nhân viên do thám…

Trầm ngâm giây lát ông ta lẩm bẩm chỉ vừa đủ cho Thanh Anh và Tiểu Dung nghe:

– Chúng đi về hướng nam, hướng Đông Ngàn…

Ngồi trên cây họ hồi họp chờ toán nhân viên do thám đi qua. Chờ cho tới khi không còn nghe tiếng vó ngựa ba người mới nhảy xuống đất. Lý Đông Ba chợt quay qua hỏi Thanh Anh:

– Con biết đường tới Hoa Lâm?

Thanh Anh trả lời không do dự:

– Thưa ông con biết… Con đã tới hai lần nên còn nhớ đường…

– Ta cần tới Hoa Lâm trước hầu báo tin cho bà con họ hàng để dự phòng chuyện nguy hiểm có thể xảy ra. Phần con và con Dung cứ thong thả đi. Nhớ cẩn thận… Ta linh cảm có chuyện bất tường…

Quay sang cháu nội ông ta dặn dò mấy câu rồi triển thuật phi hành chạy theo đoàn người ngựa đã mất dạng trong bóng đêm.