Chương VIII
Chương VIII
hú Gia là một làng nhỏ, ken giữa mấy cánh đồng làng khác. Không hiểu sao, lại có một làng con con như thế lẻ loi giữa bốn bên đồng ruộng các làng thiên hạ. Số đinh trong làng không quá năm mươi tên. Chỉ có vài ba chục nóc nhà lèo tèo. Làng cũng không có nghề nào là nghề chính. Mấy nhà theo nghề dệt lĩnh lụa canh cửi đều ở bên làng Nha, làng Thượng. Đây chỉ có nhà làm vườn, trồng rau. Có những nhà chuyên nghề kiếm ăn mò cua bắt ốc ngoài hồ. Bởi thế, người ta thường kể rằng làng này xưa chỉ là nơi tụ họp những người đâu đâu trôi giạt đến, lâu dần lập nên làng xóm.
Đã thưa người, làng lại nghèo. Chân phó lý khuyết mấy năm rồi, mà chưa có ai thay. Ông thư ký trong hội đồng kiêm cả chân tộc biểu. Gọi là đất cò trắng, đến đỗi bao nhiêu lâu chẳng có anh mõ nào đến xin việc hầu hạ việc làng.
Ấy thế nhưng cũng may, làng còn có nổi cái trường học. Và như các làng Thượng, làng Nha lương trả ông giáo thì quỹ làng chịu. Vì thế mà con em trong làng được kéo nhau đi học tận suất.
Năm nọ, trường mới mở cửa, có cả những bác đầu to như cái rành, cũng ra nhờ thầy giáo khai sáng cho “ăn mày thánh” mươi chữ. Người ta đồn bây giờ chữ quốc ngữ dễ học hơn chữ Nho, chỉ chịu khó nửa tháng đã biết đọc được truyện Kiều, truyện Nhị Độ Mai. Nhưng chỉ háo hức mấy hôm đầu. Rồi cũng bỏ dở cả vì miếng cơm manh áo phải lo. Vả lại, con trai lớn đi học hay bị bọn con gái chế giễu. Thà chẳng học thì đừng... Rồi, ra trường học chỉ còn trẻ con lau nhau. Có hơn bốn chục đứa, mấy năm nay, ông Hoạnh vẫn dạy mấy chục đứa trẻ ấy.
Những đứa bé đến trường mặc áo hay cởi trần cũng được. Con thầy giáo, thằng Biền đi học. Mực tím nham nhở đầy bụng và đầu. Khắp người chỗ nào lấm tấm nốt ghẻ, và mảng đầu chốc quết mực vào, - phẩm tím cũng là thuốc chữa ghẻ. Cu Biền cởi trần trùng trục. Hiếm lắm mới được có khi mặc, cái áo thải của thầy nó mà riêng cái túi áo cũng che lấp cả bụng cu Biền. Con thầy giáo ăn mặc sười sã như thế, cả lớp, quần áo học trò cũng rập theo na ná vậy. Thầy giáo Hoạnh là một tay chơi, ăn vận bao giờ cũng chỉnh tề nhưng thầy chả có đâu mà để mắt đến học trò và con cái.
Thầy Họach chăn dắt đàn học trò được mấy năm mà đến năm nay, vào tháng sáu tây này có bốn đứa sắp đi thi sơ học yếu lược trên phủ. Kể ra, làng Thượng có được cái trường cũng đã là nhiều khê và khó khăn lắm. Nhưng cũng đã bởi lộc trời. Ngoài lối đi ra ngoài sông có một bãi trồng vải, các cụ trồng vải đã từ đời trước. Năm nào cũng vậy, quăng sang tháng Tư, quả vải đã nhu nhú chớm xanh, làng lại họp hội đồng để bán thầu bãi vải cho lái buôn các nơi! Năm nào cũng được ngót hơn một trăm bạc. Tiền chi vào trường học của làng đều nhờ trông vào bãi vải bán non. Nhưng năm nay, đã xảy ra việc rắc rối.
Bấy giờ đã hết tháng Ba, lá nhãn trên cành đã rợp đường. Trong trận mưa mới, đã có những cơn sấm rền. Hoa nhãn, hoa vải, hoa hồng bì đã rụng từng chùm màu vàng đợt đợt li ti như cánh vỏ trấu, rải đầy mặt đất. Quả non chớm, năm nay chắc được cả mùa vải, nhãn và hồng bì. Cây nào cũng chi chít những chùm quả non xanh.
Đột nhiên, một hôm trời đất u ám. Buổi trưa, gió nồm thổi hây hẩy. Mây đen kéo về xám nghịt.
Bắt đầu nổi gió to, như muốn bão. Mới vào hè, mà đã có mưa rào dữ, mưa như trống đánh tơi tả vườn chuối. Mưa rào rào, dưới ao, nước mấp mé dâng lên vườn. Từng đàn cá rô, theo nước mới ngoi lên bờ, rạch khắp nơi.
Đến lúc tạnh mưa, cây cối phờ phạc tả tơi. Những cây hồng bì rủ rượi, bao nhiêu quả non rụng hết trong trận mưa rào nặng hạt. Và những hoa vải, hoa nhãn, hoa muỗm cũng rã rời cùng chung số phận khốn khổ ấy.
Mươi hôm sau, lại một trận mưa tai ác thế. Thế là năm ấy, mất mùa vải. Chim tu hú xa xa kêu ròng rã mấy tháng hè, báo hiệu mùa vải mà suốt cánh bãi chỉ có vài chùm vải muộn, quả sắt seo, đen xỉn đầu cuống.
Thế là tiền bán vải cho lái buôn năm nay không có. Tiền là của trời, mà trời không cho, đó là điều không may.
Nhưng các ông trong hương hội, các cụ phụ lão và ông phó lý không phải chỉ lo tiền chi vào trường học hàng tháng. Mà các nhà chức dịch còn một việc nóng hơn. Là cái đình làng, cần tu sửa ngay. Mái hổng, trông qua từng lỗ lên trời. Nước mưa chảy vào trong đình như nước rãnh lội ngoài sân. Mấy cái rui, mấy cái cột lớn đình đã chớm vết mối mục ruỗng cả. Rêu ám xanh om. Ở gậm án thư, mọc từng đám cỏ trắng bệu những cây nhãn, cây vải con con.
Buổi chiều ngày ba mươi, đầu tháng, theo lệ thường, ông từ ra mở cửa đình, vào hậu cung thắp hương. Ông vào, không thấy ông ra. Không ai chú ý vì ông từ vẫn ra ngủ đêm ở bục gỗ ngoài đình. Sớm hôm sau, cái đĩ Con ra ngoài đình gọi ông về ăn cơm. Đến trưa, cũng chẳng thấy ông cháu về. Bố nó bổ ra đình. Trông thấy ông từ úp sấp bên gậm bục. Cái đĩ Con nằm nghiêng, mặt tái ngoét, mắt trợn ngược lòng trắng.
Ở trong bụng áo ông lão, con rắn mai gầm khúc vàng khúc trắng, to bằng cái cẳng chân người lớn, ngoằng ra, luồn bụi cỏ giữa bục gỗ.
Trong xóm, nghe tiếng kêu, mọi người đổ ra. Ông lão bị con mai gầm cắn từ chiều hôm qua rồi rắn lại chui vào ngủ trong bụng áo ông lão. Đến khi đĩ Con ra đình. Nó tưởng ông uống rượu nằm chơi, nó đến lay ông...
Hôm sau, người ta bới đóng cỏ trong gầm án thư đánh chết được con rắn mai gầm dài hơn cái đòn ống.
Từ ngày ông từ chết, không ai dám lai vãng ra đình, cũng không cụ nào ra thế chân thủ từ đình. Đến rằm mùng một, phải đốt đuốc, soi các góc đình, các cụ mới dám theo tuần đinh vác dao vào thắp hương.
Cần chữa đình lại. Các đàn anh trong làng đã dự trù việc làm đình. Có thể lấy tiền bán các chân chức vị. Một chân “lý hào” sáu chục. Mỗi chân “hương hào” bốn chục. Mỗi tên “nhiêu” thì mười đồng. Phải lúc bình thường, chân “lý hào” ít ra phải chồng một trăm không kể khao vọng. Quèn bét hạng như anh “nhiêu” cũng giám ra hai mươi lăm đồng. Nhưng tính rồi cũng chưa đủ. Xem chừng cũng chẳng bán được mấy chân chức việc. Có cái lý, cái hương, anh nhiêu khỏi phải đi đê, đi phu, lại được vai quan viên ngồi văn chỉ, nhưng bới đâu ra tiền thêm mà làm đình.
Ông phó lý nói:
- Trên thưa các cụ, tôi thiết tưởng việc chữa đình phải hưng công ngay. Còn một ít nữa, định trông đỡ vào bãi vải. Vải năm nay lại mất mùa. Ta đem hạ làm củi tất cả những cây cỗi ấy đi, rẻ ra cũng được xấp xỉ trăm bạc. Rồi gọi lái bán non luôn một năm vải sang năm. Cái giống vải bao giờ cũng được mùa cách năm. Các cụ nghĩ sao?
- Còn trường học thì tính thế nào?
- Trường học thì ta đặt lệ...
- Dào ôi! Đình nát thì thánh sai rắn về cắn chết người đấy. Chẳng có ông giáo cũng đành, đón quách ông đồ, chỉ mất cơm nuôi, cuối năm tiễn mươi đồng là êm chuyện.
Người ta cho là chí lý theo lời bàn của ông phó và các ông hương hội. Còn nhà nào còn có con em đi học thì tháng tháng phải đóng tiền. Công việc làm đình bắt đầu. Làng đã cắt người ra bến mua gỗ, đi thửa gạch, thửa ngói, tìm thợ ngõa, thợ xây. Ban hương hội cũng báo cho ông giáo Hoạnh biết các cụ bàn về trường học như vậy.
Chẳng ai báo, hương hội chưa bàn xong thầy giáo Hoạnh đã biết cả rồi.
Cảnh trường cứ tiêu điều. Đầu tiên, vãn đi quá một nửa học trò con cái những nhà ông xót tiền. Tháng ấy, chỉ còn những đứa trẻ nhà ông trong ban hội đồng đương thứ. Tháng sau, con cái nhà các ông chánh, ông phó cũng nghỉ học. Rồi chỉ còn lại bốn đứa, mai kia sắp lên phủ đi thi lấy bằng Sơ học Yếu lược. Cha mẹ có cho con theo thầy, dù mỗi tháng phải tốn một hào bạc với hai xu tiền phấn viết bảng.
Tình cảnh giáo Hoạnh nguy ngập quá. Lương lậu lọt đọt chẳng còn ra thế nào. Cho tới tháng thứ ba... Cả những ông chức dịch như cũng muốn lờ đi. Người ta còn đương tíu tít chạy vào việc làm đình.
Một hôm, giáo Hoạnh vào nhà ông phó lý. Từ khi có lệ học trò đóng tiền, các ông hương hội không bén mảng ra trường nữa. Ông phó lý nghe, rồi nói:
- Ông giáo ạ, việc này không phải của tôi. Nhưng tôi cũng cứ bàn với ông giáo. Hay là tôi nói với các ông ấy để ông giáo tạm nghỉ ít lâu. Làng bây giờ thật không còn tiền. Bao nhiêu đổ cả vào đình. Bao giờ xong việc đình đám thì mời ông giáo lên giúp cho làng.
Giáo Hoạnh thở dài, không nói một câu nào nữa. Đương nghĩ đến vợ và ba đứa con leo nheo. Bỏ, anh đi đâu, làm nghề ngỗng gì bây giờ?
Đánh máy : casau - Ct.Ly
Nguồn: casau - VNthuquan.net - Thư viện Online
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 1 tháng 7 năm 2016