← Quay lại trang sách

Chương XIV

Chương XIV

hà ai đám thứ gì mà đốt bánh pháo dài thế?

- Cưới con gái ông chánh Đặng.

- Lấy ai?

- Lấy cái nhà giáo Răng.

- À...

- Khéo không có mà nó đã có một mớ vợ ở nơi khác rồi.

- Chẳng lo con bò trắng răng!

- Dáng hẳn đôi bên cũng có thế nào rồi.

- Hình như có thế. Anh ả chị ả, tay đôi đã dan díu từ lâu, khiếp lắm.

- Thời buổi bây giờ con gái đoảng cả.

Rồi người ta bàn tán lan man về con gái thời bây giờ. Những câu chuyện vặt, chuyện đi đường của mấy người vùng ấy, khi đi qua ngoài lũy tre làng Thượng, nghe tiếng pháo nổ râm ran trong làng. Hôm ấy, cưới cô Tố con gái ông chánh Đặng. Đúng như lời thiên hạ nhỏ to. Cô Tố lấy thầy giáo Răng. Ông bà chánh Đặng lo lắng ngay cho vui vẻ cả. Ai cũng biết chuyện ra sao rồi. Người ta gọi là cưới che mắt thế gian. Bơ vơ, sướng cái anh giáo Răng!

Từ ngày đến Yên Thượng, Răng trọ ngay ở nhà ông chánh Đặng. Ông chánh cũng coi là thường. Nhưng ông chánh đã vụng tính. Ông có con gái lớn, cho người lạ ở khác nào cho rơm gần mồi lửa. Giáo Răng ở nhà ông chánh. Thôi thì bao nhiêu sổ sách, đơn từ, giấy má, bài bổ ông chánh đều giao cho thầy giáo đỡ được công việc. Ông chánh không tính đến, anh chàng Răng bẻm mép, cô Tố lăn lóc ngay. Có một lần kia, ông chánh bắt được đêm hôm rõ ràng thế nào ấy. Ông chánh toan đuổi Răng đi. Nhưng chưa đuổi, Răng đã đùng đùng đi ngay. Cô Tố lăn ra khăn gói theo. Ông biết thế là ông đã tóm phải con dao đằng lưỡi. Ông thu xếp, điều đình với Răng. Ông cho không Răng cô con gái.

Ông nói với mọi người:

- Tôi cho thầy ấy một đứa con gái đấy. Tìm được rể hiền là phúc. Tôi chỉ cầu người hiền thỏi.

Nhiều người khen ông chánh về chỗ ông thẳng tính. Nhưng nhiều người bảo ông sợ nhọ mặt, phải làm ra trò vè ấy.

Đám cưới linh đình. Ăn uống rả rích mấy ngày. Hôm nay, chú rể Răng mời khách chú rể. Tất cả những ông hương sư ở trong vùng. Và giáo Răng ra Kẻ Chợ mời cả chục bè bạn. Một dãy xe kéo ở trên tỉnh, trên phú đỗ sắp hàng ở cổng làng. Chưa bao giờ có nhiều xe kéo vào đậu trước cổng cái của làng như thế. Bà con làng nước lũ lượt đến làm giúp, ăn cỗ ròng rã, lại đánh tổ tôm, xóc đĩa cả đêm.

Khách khứa xa gần đủ cả, dù ai cũng chửi vụng ông chánh đủ điều:

- Cái lão ăn tơ ỉa tóc. Phải một miếng thế này, đứt từng khúc ruột. Vứt đi hàng trăm bạc, chứ chẳng chơi.

- Hai cái lông mày con Tố dựng ngược lên rồi.

- Chỉ ba bốn tháng nữa thì nằm ổ thôi.

Giáo Câu cũng đi ăn cỗ. Chẳng quen thuộc ai, ăn xong anh về ngay. Điệu bộ một ông khách vừa ở đám ra. Mặt đỏ gay như mặt gà chọi. Áo the, tụt trễ một khuy cổ. Cái khăn xếp không đội lên đầu, mà lại tròng lọng vào một bên cánh tay. Nhắp có lưng chén mà đã choáng váng. Nhà giáo này tửu lượng xoàng.

Về nhà, Câu nằm dài xuống phản, không kịp cởi áo. Anh nghĩ vẩn vơ về tay giáo Răng. Anh cho là giáo Răng đã gặp được bước may. Phải, Răng may thực Câu đương tưởng tượng cái cảnh của Răng là Câu, là Miến. Chao ơi!

Cơ khổ, đường tình của Câu lận đận làm sao. Miến vẫn chưa ở ngoài Kẻ Chợ về. Cũng không biết rồi ra thế nào.

Câu cũng chưa ra phố thêm được lần nào. Câu đương để dành tiền. Chàng muốn hôm nào ra Kẻ Chợ chụp một cái ảnh. Để tặng Miến. Và để đối lại với chiếc mùi xoa, lọ nước hoa của Miến đã cho.

Trong khi ấy Miến vẫn nấn ná ở ngoài phố, Câu tự dưng nóng ruột quá. Câu chẳng muốn Miến ở Kẻ Chợ. Câu nhớ đến cái đêm đi ở bờ hồ, Câu đội cái mũ trắng, Miến bảo cái mũ trắng hủ lậu. Câu lại buồn thiu.

Một hôm, Câu đương đứng trong lớp, nhận được một lá thư ở nhà dây thép trên phủ gửi xuống. Bóc xem, là thư của Kền ngoài Uông gửi về.

Uông Bí le 30 Mars 193...

Ngô huynh ơi!

Từ ngày tôi rời Yên Thượng, hôm nay mới có thư về ngô huynh. Chắc nhiều khi ngô huynh đã nghĩ trách tôi. Nhưng thực không phải tôi cố ý. Chỉ vì tôi muốn giữ gìn cho ngô huynh đây. Để bao giờ anh em ta gặp nhau, tôi sẽ nói chuyện để ngô huynh biết rõ ràng.

Ngô huynh ơi! Người ta ở đời, cũng nhiều bước gian truân, mà cũng nhiều phen sóng gió. Nghĩ như cái ngày anh em ta sum họp thì ai đâu ngờ rằng rồi sẽ có khi phải bó buộc chia tay không một lời từ biệt. Tôi tuy ở xa, nhưng cũng được biết Hoạnh không còn tại đây. Thế là chỉ còn có một mình ngô huynh ở lại. Than ôi! Kền tôi đã vắng, ai người nói câu tâm sự, Hoạnh cũng đi rồi, bạn đâu còn khách tri âm.

Lại nói từ ngày tôi ra đi. Tôi xuống dưới này nhờ người quen xin được vào sở mỏ làm. Thế là nghiễm nhiên đã thay nghề gõ đầu trẻ ra nghề bút chì lọ mực chép sổ. Lương lậu thì được khá hơn cái ngày ở Yên Thượng. Thế mới hay, có ra đến ngoài, mới biết cái cánh anh em ta thiếu thốn nghèo đớn quá. Thế mà... Nhưng thôi nói không tiện. Lại để khi nào gặp ngô huynh, sẽ nói chuyện nhiều cùng ngô huynh.

Ngô huynh ơi! Chắng hay từ bấy đến giờ, cận trạng của ngô huynh ra sao? Ngô huynh trả lời cho tôi mấy câu tường tận. Tôi mong. Phần tôi, sức khỏe vẫn như thường.

Kính ngô huynh khang an.

Kền bái

Ngô huynh ơi!

Từ ngày tôi rời Yên Thượng, hôm nay mới có thư về ngô huynh. Chắc nhiều khi ngô huynh đã nghĩ trách tôi. Nhưng thực không phải tôi cố ý. Chỉ vì tôi muốn giữ gìn cho ngô huynh đây. Để bao giờ anh em ta gặp nhau, tôi sẽ nói chuyện để ngô huynh biết rõ ràng.

Ngô huynh ơi! Người ta ở đời, cũng nhiều bước gian truân, mà cũng nhiều phen sóng gió. Nghĩ như cái ngày anh em ta sum họp thì ai đâu ngờ rằng rồi sẽ có khi phải bó buộc chia tay không một lời từ biệt. Tôi tuy ở xa, nhưng cũng được biết Hoạnh không còn tại đây. Thế là chỉ còn có một mình ngô huynh ở lại. Than ôi! Kền tôi đã vắng, ai người nói câu tâm sự, Hoạnh cũng đi rồi, bạn đâu còn khách tri âm.

Lại nói từ ngày tôi ra đi. Tôi xuống dưới này nhờ người quen xin được vào sở mỏ làm. Thế là nghiễm nhiên đã thay nghề gõ đầu trẻ ra nghề bút chì lọ mực chép sổ. Lương lậu thì được khá hơn cái ngày ở Yên Thượng. Thế mới hay, có ra đến ngoài, mới biết cái cánh anh em ta thiếu thốn nghèo đớn quá. Thế mà... Nhưng thôi nói không tiện. Lại để khi nào gặp ngô huynh, sẽ nói chuyện nhiều cùng ngô huynh.

Ngô huynh ơi! Chắng hay từ bấy đến giờ, cận trạng của ngô huynh ra sao? Ngô huynh trả lời cho tôi mấy câu tường tận. Tôi mong. Phần tôi, sức khỏe vẫn như thường.

Kính ngô huynh khang an.

Kền bái

Trống tan học.

Trẻ con trường này, chỉ được cái đánh trống là thạo nhất hạng. Bởi chúng đã ham tập luyện mỗi dịp làng vào đám. Thòm... thòm... Từng tiếng... từng tiếng. Cái đầu dùi nện băng băng trên mặt trống, nhịp nhàng. Không ai để ý cái trống vô tình mà những trống tan học vào học, trống ra chơi còn để báo hiệu cho mọi nhà trong xóm biết hiệu mà ra khung cửi, mà sắp cơm nguội nước rau luộc - bữa thợ ăn buổi tối trước khi dệt cửi lên đèn.

Hồi trống vừa dứt, học trò nhao nhao chào thầy. Rồi ôm sách lên ngực, chúng chèn, huých nhau, chạy ào ào, hỗn độn líu tíu như một đàn vịt. Chúng tản vào các ngõ xóm. Trong nháy mắt sân trường vắng tanh. Chỉ còn sót lại mấy mảnh nắng chếch trên gò cỏ ấu non rượi. Thầy giáo Câu đương cầm trong tay cái thư của thầy giáo Kền. Câu đương nghĩ ngợi nhiều lắm, chỉ có một mình thầy giáo Câu.

Tháng Hai năm ấy, làng Nha mở hội. Thực ra chỉ là hội lệ như mọi năm.

Hàng năm tháng Hai, vẫn vào đám. Thịt một con bò làm việc làng. Rồi năm nào phong lưu thì gọi phường về chèo hát ngoài sân đình. Bằng không, chỉ có nhà tơ hát hầu thánh hát cửa đình.

Năm nay, làng vừa trù tiền đảo lại lớp ngói nóc. Mua thêm ít ngói mới vào. Vừa xong các việc, vào dịp đám tháng Hai... Cũng vào đám như thường lệ, nhưng to hon một chút gọi là làng Nha hội khánh thành đình.

Làng mướn phường chèo hát cả hai buổi, buổi ngày buổi tối. Và có thêm mấy trò nữa. Còn đấu võ tây, võ ta việc đấu võ, làng nhờ ông giáo Răng bên Thượng. Giáo Răng thích mê, được dịp khoe tài cho các làng xem. Nhưng ông chánh Đặng lại không bằng lòng. Bởi ông không ưa mấy ông hương hội bên Nha. Lại bởi sang năm làng Thượng cũng có hội khánh thành cái tam quan. Ông muốn chàng rể lập đài đấu võ bên làng Thượng trước.

Việc đấu võ làng Nha không thành, song chỉ riêng cả ngày cả tối chèo hát, hội làng Nha cũng đã vui chán. Nô nức các nơi kéo đến xem. Trong làng, khung cửi nào cũng nghỉ. Ăn uống vui chơi như ngày Tết Cả. Trường học cũng được nghỉ cả một tuần.

Đám hội đương đông.

Trong đình các cụ vừa vào cuộc lễ giữa đám tế. Lố nhố những tấm áo thụng xanh đã bạc phếch. Áo thụng xanh mặc còn khá, còn những cụ chỉ mặc manh áo the vá, chân đi đôi guốc đẽo bằng gộc tre. Không sao. Đủ lễ lạt là được. Hương... bái... Quán tẩy sở... Tiếng hô rầm rĩ lẫn tiếng trống lùng tùng, tiếng kèn toe toe. Nhưng chỉ có mấy ông đứng tuổi, sắp vào hàng lên lình lên lão cùng mấy anh trai làng, chịu khó đứng xem. Ý để học cái lề lối tế lễ của các cụ để sau này còn noi theo. Bao nhiêu người đổ xô cả ra sân.

Ngoài sân, phường chèo đương diễn ban ngày. Rạp chèo dựng ở cuối sân, cạnh góc đa. Bốn chiếc cọc tre cao, đóng bốn góc như cái chuồng lợn. Bên trên, che ba lá cót. Ở tầng giữa, gióng tre, gióng gỗ bắc khít nhau, kê thành một tấm ván rộng, dưới gầm, trẻ con như chuột chui qua dễ dàng. Sân khấu cũng chia làm đôi có một sợi thừng căng ngang. Trên thừng, vắt một mớ quần áo xanh đỏ lấm láp đã cũ của phường.

Dưới kia, đông ghế người lên. Trẻ con thì không thể len chân. Người lớn đứng ngẩng mặt. Nhiều anh tinh quái, leo lên cây nhãn, ngồi chòm chõm trên hai bên cột trụ và bức tường hoa. Tiếng ồn ào la hét, tiếng chửi bới và trẻ con khóc át cả tiếng hát trên rạp. Tuy vậy, người ta vẫn mê mải. Hàng năm mới được ngày thong thả, lại có chèo hát, tội gì mà chẳng ra xem.

Trên sân khấu, cũng lố nhố những người. Ở bốn bên, mỗi cột có một thằng oắt con, ngồi chầu hẫu. Chúng đã leo lên đấy để xem cho được thực gần. Và mé bên tay trái một dàn đàn sáo trống con, trống cơm, đàn, nhị...

Tuy là cả phường, mỗi người mỗi việc, nhưng những anh đánh trống, kéo nhị cũng hát theo với các người ra vai.

Những anh đánh trống, kéo nhị cũng hát ồn ả hát láy lại nửa câu. Sân khấu hẹp chỉ bằng chiếc chiếu. Đào kép trong buồng trò ra, chui qua mấy tấm áo xanh đỏ chăng trên chiếc thừng, đứng nhấp nhổm.

Bấy giờ đương diễn trò Kiều. Cảnh này là cảnh cô Kiều nằm mơ thấy nàng Đạm Tiên hiện lên cùng đi thanh minh tảo mộ với chị em Kiều ban ngày. Hiện đương là ban ngày, nhưng người ta giả cách là đương đêm. Cô Kiều mặc áo the ngồi trên cái hòm gỗ, một tay cầm quạt che mặt. Cô đương ngủ. Chợt từ trong buồng trò, một người trùm cái áo lụa điều lên đầu, ra chạy quanh một vòng rồi lại chệnh choạng chạy vào. Đấy là hồn ả Đạm Tiên. Trong khi, mấy người ban âm nhạc đàn sáo lại khua trống ầm ĩ. Cô Kiều buông quạt, ngơ ngác. Ra lối vừa tỉnh dậy, cô Kiều đứng lên. Cô xòe quạt. Cô rún chân bên phải, mắt liếc bên phải. Cô rún chân bên trái, quạt cũng nghiêng bên trái và đôi mắt cũng liếc sang bên trái. Cái quạt uốn éo, đảo một vòng, cô Kiều hát:

- Ới thương ơi! Ới hỡi thương ơi!...

Những người ngồi xung quanh cả những người đằng sau rạp cũng rầm rĩ hát vỡ nước theo và kéo nhị một câu ấy ới thương ơi!... Bung bung bập bùng... cò cư... cò cư... Vui quá.

Nhà giáo Câu và nhà giáo Răng cũng đứng trên thềm đình, xem chèo. Đứng lâu đã mỏi chân, hai người rủ nhau đi loanh quanh. Dưới cửa đình, có mấy quán bán nước. Con trai con gái các làng kéo đến xem hội, đi từng đám, từng bọn.

Ban ngày, hát chèo không vui bằng tối, chỉ được cái đông.

Hai nhà giáo vừa đi vừa tán chuyện về đám chèo. Nghe đằng bờ ao làng, nhiều tiếng người reo à à.

- Chơi bắt vịt chăng?

- Có nhẽ đấy.

Họ rảo bước lại. Cuộc vui đương ồn ào. Nhưng không phải đuổi vịt. Mà là trò bịt mắt bắt vịt bày ra từ sáng sớm ngoài ao làng. Có bốn con vịt, các tay lặn nhanh đã lùa bắt được cả. Chỗ này là trò chơi cột mỡ, đông người xem chẳng kém đám chèo trên sàn đình. Vòng trong vòng ngoài, nghìn nghịt bên bờ ao. Ở giữa chôn một cái cột xoan đã bóc vỏ nhẵn thín. Người ta đã bôi vào nhiều mỡ và nước xà phòng nhờn. Trên đầu cột, treo lủng lắng các thứ giải thưởng. Hai chiếc quạt Tàu, bên cạnh hai lọ nước hoa, hai gói giấy đỏ, trong đựng ba hào bạc. Năm sáu người leo, phần nhiều là những trai làng nghịch ngợm. Có những người làng khác thấy ngứa mắt, cũng cởi phăng áo, hăm hở nhảy ra. Nhưng chỉ được mấy cái tuổi, lại trôi tuột xuống. Trơn quá. Mỗi lần có người bị ngả ngữa ra bãi xung quanh lại reo hò loạn xạ. Trẻ con thích quá, vỗ tay, nhảy cẫng lên. Người ta càng cố leo. Nhưng vẫn không ăn thua. Cuộc vui kéo dài...

Hai nhà giáo lên cửa đình vào xem tế. Vừa đi qua quãng tường đầu đình, gặp một toán cô gái. Có một cô tân thời đi cùng với đám cô Lụa, cô Khuyên. Câu choáng người. Đó là cô Miến. Chao ôi! Cô Miến ăn mặc quần áo tân thời kiểu người Kẻ Chợ.

Cô ở trong đình đi ra. Hai tay cô bưng cái tráp sơn đỏ, sơn then - tráp đựng vàng hương, đem ra đình lễ. Đầu cô chít khăn nhung, vấn lẳn vành dây kiểu phường phố. Một bên mái tóc, gài một chùm hoa mộc trắng ngà. Tấm ảo satanh đen nhuyễn, óng ánh. Ở mỗi bước đi, cái quần lĩnh Sà-goòng bóng loáng ăn với áo satanh trơn, óng ánh xao động nhịp nhàng. Chân cô đi đôi dép Nhật Bản, cũng sơn đen bóng, đế thì bằng kếp trắng như lụa. Chưa bao giờ Miến tân thời thế này cho nên trông Miến khác hẳn.

Mà sao trông Miến cao cao quá, trắng quá. Cơm gạo và nước máy Kẻ Chợ có khác. Cô bước đi lả lướt, rõ ra lối đi của các tiểu thư óng ả ăn trắng mặc trơn.

Gặp Câu, Miến thoáng nhìn qua rồi, đi tự nhiên, như không biết nhau bao giờ. Giữa lúc ấy, một bà lão bước đến. Miến chào bà lão. Bà lão kêu lên:

- Úi chao ôi! Tưởng ai, hóa ra cái Miến. Cô tân thời làng ta, năm nay cho bà ăn cỗ đấy chứ?

Miến cười. Nhưng Câu đã thoáng nghe được mấy tiếng chào hỏi người làng của Miến. Cái giọng Miến sửa, Hà Nội đặc.

Giáo Răng hỏi giáo Câu:

- Con nào thế?

- Cô Miến.

- Con nhà xừ khán Tịnh phỏng?

- Ừ. Sao anh biết?

- Tớ là thổ công mấy làng này sao lại không biết. Con bé trông khấu quá. Ở đây lâu thế mà toa không tán được nó. Đằng ấy rõ quých quá. Không nói phét, chẳng phải tay moa...

Câu đờ đẫn cả người. Mắt anh hoa hoa. Đầu anh bỗng váng vắt.

Răng nhìn Câu, hỏi:

- Toa làm sao thế?

- Không. Có sao đâu.

- Mặt tái đi đấy.

- Tôi hơi nhức đầu.

Về đến nhà, Câu nằm thẳng cẳng như người chết rồi. Nhưng óc Câu cũng vẫn nghe bà Thiêm nói chuyện. Bà Thiêm vừa đi ăn cỗ đằng nhà ông khán Tịnh về. Cũng như mọi nhà, làng có đám thì nhà ai cũng thắp hương làm cỗ. Cái tính bà Thiêm chẳng để bụng được việc gì, câu gì có thế nào cũng khoe ngay, không sót một chuyện.

- Cái Miến nó làm thức ăn Kẻ Chợ ngon thần tình, cậu giáo ạ. Nó học lối cao lâu của khách người ta xào nấu. Con bé năm nay trông cao quá. Lại ăn mặc tân thời, người càng vổng lên. Cái Miến sắp lấy chồng đấy cậu giáo ạ.

Câu nhỏm dậy:

- Lấy ai thế, hả bà?

- À lại cái món họ hàng nhà mấy chú khách ấy. Lấy em chú Sủi. Cho ăn hỏi rồi lại cho cưới ngay. Số con bé mà sướng. Chị lấy anh. Bây giờ em lại lấy em. Con chị dắt con em đi. Thế cũng phải. Đời bây giờ cứ no cơm ấm cật là được, phải không cậu giáo?

Miến lấy em chú Sùi, Câu nhớ lại cái buổi tối, khe cửa mở hé. Cái chú khách cởi trần đầu trọc, béo đến có mấp ở gáy. Chú khách thò đầu, bàn tay hộ pháp mở cửa cho Miến. Đấy là chú Sủi hay đấy là em chú Sủi, Câu nào biết là ai. Câu chỉ biết Câu địch sao lại anh em nhà chú Sủi. Câu địch làm sao, Câu như con kiến, Câu thấy ruột đau quặn. Bà Thiêm vẫn kể chuyện đều đều:

- Này, cậu giáo. Khách người ta cưới xin hay đáo để. Dẫn lễ thì đem đến mấy bồ bánh bích quy, cậu giáo ạ. Cậu giáo ngủ đấy hả?

Câu không trả lời. Bà lão tưởng Câu ngủ. Nhưng, Câu nằm quay mặt vào vách, hai mắt Câu vẫn mở ráo trong.

Mấy hôm sau, đương buổi Câu dạy học. Miến đi qua ngoài kia, Miến về Kẻ Chợ. Vẫn bộ cánh là lượt hôm làng có hội. Chỉ khác hôm nay Miến vấn tóc trần, để đầu ngôi rẽ lệch. Nàng bước lên cầu Phượng. Bóng nàng khuất sang mé thành cầu. Rồi lấp sau mấy bụi dứa dại, lá mọc từng đám, gai dứa nhọn khía lủa tủa.

Nàng không đội nón, nàng không nghiêng nón nhìn nhìn vào trường. Làm như chẳng bao giờ người ta biết ở mé đường bên kia, ngay đầu cầu Phượng, có trường học làng Nha, có thầy giáo Câu hôm nào cũng ý tứ đứng nhìn hóng ra. Đàn bà nhẹ dạ dễ nhớ, dễ quên. Thôi, lần này thì quên hẳn rồi. Mảnh tình suông tan với tiếng gió vườn tre, với nước chảy đầu cầu.

Đánh máy : casau - Ct.Ly
Nguồn: casau - VNthuquan.net - Thư viện Online
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 1 tháng 7 năm 2016