Chương NĂM CHIANG MAI, THÁI LAN
Sau khi hạ cánh tại Chiang Mai, một thành phố cổ được biết đến như “Bông hồng phương Bắc” của Thái Lan, Nick được chở trên một chiếc xe Jeep đến một cơ ngơi náu mình dưới chân đồi ở Doi Inthanon. Giống nhiều ngôi nhà khác ẩn mình ở khu vực này, phức hợp của bức tường kéo dài dọc con đường dốc và gần như vô hình. Đi qua cánh cổng cao như pháo đài, Nick lạc vào một thiên đường xa hoa đẹp không thốt nên lời.
Tòa dinh thự bao gồm tám cột đình bằng đá và gỗ được xây theo phong cách Hoàng gia Lanna Thái Lan truyền thống xung quanh hồ nhân tạo, một dãy cầu và lối đi kết nối chúng với nhau. Nick được dẫn qua khu vườn sum suê, bước trên những thanh gỗ nổi trên mặt hồ, một làn sương mù lấp lửng cuốn lấy mặt nước yên ắng tạo cho Nick một cảm giác xuyên không khó tả.
Trong một thủy đình nhìn về trung tâm hồ, một người đàn ông mặc quần dài vải tuýt, áo len mỏng màu đỏ nâu, đội mũ lưỡi chai lịch sự đang ngồi tại bàn gỗ tuyệt đẹp và lau một chiếc máy ảnh Leica cũ bằng cái chổi nhỏ xíu. Ba hay bốn chiếc máy ảnh, mỗi chiếc một tình trạng hỏng hóc khác nhau đang nằm trên bàn.
Người đàn ông nhìn lên khi Nick tiến gần và xoay mình. Nick thấy bộ tóc trắng bạc dưới vành mũ lưỡi chai, và dù ông cụ đã ngoài chín mươi, gương mặt ông vẫn giữ lại những nét đẹp lẩn khuất dưới những nếp nhăn. Ông đặt máy ảnh xuống và nhanh nhẹn đứng dậy khiến Nick vô cùng ngạc nhiên.
“Nicholas Young, quả là một niềm vinh dự! Chuyến bay của cậu ổn chứ?” - Ông cụ nói bằng tiếng Anh thoang thoảng giọng điệu Anh quốc.
“Vâng, Thưa Điện hạ, cảm ơn ngài.”
“Hãy gọi ta là Jirasit. Ta không đánh thức cậu dậy quá sớm chứ?”
“Dạ không – thật tuyệt khi bắt đầu sớm sủa, và máy bay của ngài hạ cánh đúng lúc mặt trời mọc.”
“Ta đã nhờ cô Catherine của cậu sắp xếp. Ta nghĩ rằng những ngọn núi sẽ đẹp nhất trong ánh hừng đông, và thú thực là ta là một người hay đến sớm. Đến tuổi này, ta thường thức dậy trước năm giờ và đến giữa chiều thì vô cùng rảnh rỗi.”
Nick chỉ cười, và ông Jirasit nồng nhiệt nắm lấy tay Nick trong tay mình. “Ta rất mừng vì chúng ta đã gặp được nhau. Ta đã nghe rất nhiều về cậu trong nhiều năm nay!”
“Thật ạ?”
“Phải, bà cậu đã rất tự hào về cậu. Bà ấy luôn nói về cậu. Lại đây, hãy ngồi xuống, ngồi đây. Cậu uống trà hay cà phê?” - Jirasit hỏi và một đội quân người hầu đem những khay đựng đồ ăn đồ uống tới.
“Cà phê chắc hẳn sẽ ngon lắm.”
Jirasit nói một vài câu bằng tiếng Thái và những người hầu bắt đầu bày biện một bữa sáng công phu trên rìa đá lớn của đình. “Cậu đừng để ý đến sự bừa bộn nhé, ta đã nuông chiều bản thân bằng những trò tiêu khiển yêu thích của mình.” - Jirasit nói và ông chuyển những chiếc máy ảnh sang một phía của bàn nhường chỗ để bày cà phê.
“Ông có một bộ sưu tập quả là rất ấn tượng.” - Nick nói.
“Ồ, chúng đã lỗi thời lắm rồi. Gần đây ta thích dùng máy kỹ thuật số Canon EOS hơn, nhưng ta cũng rất thích lau dọn những chiếc máy ảnh cũ kĩ này. Rất gây ghiền đấy.”
“Vậy là trước đây ông cũng hay liên lạc với bà nội cháu?” - Nick hỏi.
“Lúc có lúc không, trong nhiều năm. Cậu biết những người bạn cũ sẽ thế nào đấy… đôi khi chúng ta sẽ lỡ mất một năm đâu đó, nhưng bọn ta đã rất cố gắng để giữ liên lạc.” - Jirasit ngừng một lúc, nhìn thấu kính đôi Rolleiflex cũ trên bàn một cách chăm chú. “Cô nàng Su Yi đó… tôi chắc hẳn sẽ nhớ bà ấy.”
Nick nhấp một ngụm cà phê. “Hai người đã quen nhau như thế nào?”
“Bọn ta gặp nhau ở Bombay năm 1941, khi đó cả hai bọn ta đã làm việc tại Văn phòng Anh Ấn.”
Nick ngạc nhiên ngồi thằng người lên. “Đợi chút, ông đang nói đến chi nhánh tại Ấn Độ của Văn phòng Chiến tranh sao? Bà nội cháu đã từng làm ở đó sao?”
“Ồ đúng vậy. Bà ấy chưa từng kể với cậu sao? Bà cậu đã bắt đầu từ bộ phận phá mã code, còn ta làm ở ban vẽ bản đồ, giúp họ tạo ra tấm bản đồ chi tiết của Thái Lan. Những người vẽ bản đồ không thực sự hiểu địa hình Thái Lan, đặc biệt là những vùng nông thôn phía bắc gần biên giới, và bọn ta thì cần một tấm bản đồ chính xác trong tình huống xâm lăng.”
“Thật kỳ diệu làm sao. Cháu luôn tưởng tượng là bà nội vui hưởng cuộc sống xa hoa trong cung điện của một hoàng tử Ấn Độ nào đấy trong thời gian quân Nhật chiếm đóng cơ.”
“Ừm, bà ấy cũng vui hưởng đấy, nhưng những người Anh quốc, như cậu thấy đấy, đã tuyển dụng bà ấy làm một vài việc… ngoại giao nhạy cảm ngay khi phát hiện ra bà ấy có khả năng đó.”
“Cháu không hề biết…”
“Bà của cậu có một sức hấp dẫn rất khó cưỡng. Bà chưa bao giờ là một vẻ đẹp điển hình, nhưng những người đàn ông luôn chết rạp dưới chân bà. Điều đó lại rất hữu ích trong thời chiến. Bà ấy rất thành công trong việc gây ảnh hưởng đến những tiểu vương và vương công theo một vài hướng nhất định.”
Nick với cái túi đeo của mình và lấy ra chiếc hộp da bà Su Yi đã giao phó cho anh, đặt lên bàn. “Ừm, lý do mà cháu đến đây là bà muốn cháu trả ông chiếc hộp này.”
“A, đó là chiếc hộp Dunhill cũ của ta! Không ngờ rằng ta lại có cơ hội gặp lại nó sau bao nhiêu năm nay.” - Jirasit nói như một đứa trẻ hứng khởi. “Cậu biết không, bà của cậu là một người rất cứng đầu. Khi bà khăng khăng quay lại Singapore vào thời điểm cao trào nhất của chiến tranh – hỗn loạn toàn tập, tin ta đi – ta đã đưa cho bà ấy một vài tài sản giá trị nhất của ta. Chiếc đồng hồ Patek của bố ta và những đồ lưu niệm bằng vàng, và một vài thứ khác mà ta không nhớ nổi nữa. Ta tưởng rằng bà sẽ cần chúng để hối lộ trên đường về Singapore. Nhưng cậu thấy đấy, bà ấy gần như chẳng dùng đến chúng.” – Ông Jirasit lên dây chiếc đồng hồ bỏ túi và cầm lên ghé bên tai. “Nghe này? Nó vẫn kêu tíc tắc hoàn hảo sau bao nhiêu năm! Ta nhất định phải kể cho ông bạn Philippe Stern mới được!” - Jirasit cầm gói những phong thư cũ được buộc bằng dây ruy băng lên và nghiền ngẫm một lúc. “Gì đây?”
“Cháu cũng không biết nữa. Cháu nghĩ là chúng thuộc về ông, nên đã không mở ra.” - Nick nói.
Jirasit tháo dây ruy băng ra và xem xét cẩn thận những bức thư. “Chúa ơi! Đây là những bức thư ta đã viết cho bà ấy sau chiến tranh. Bà ấy đã giữ từng bức một!” - Đôi mắt xám nhạt của ông mờ đi vì nước mắt tràn, ông nhanh chóng gạt đi.
Nick đã đem đến cho ông tờ quảng cáo với âm mưu mua lại Tyersall Park của mình, anh chuẩn bị lấy nó ra khỏi túi để đưa cho Jirasit thì ông đứng bật dậy và nói, “Đến đây, chúng ta hãy đi thẳng vào vấn đề!”
Nick hoàn toàn không hiểu ông đang nói chuyện gì, nhưng anh đi theo ông Jirasit đang bước nhanh về phía đình đối diện hồ với nhịp bước thật kỳ diệu. “Jirasit, cháu mong rằng mình sẽ nhanh nhẹn như vậy khi đến tuổi của ông!”
“Phải, ta cũng mong vậy. Cậu có vẻ hơi chậm so với tuổi của mình đấy. Đi theo ta! Ta đã học yoga hồi còn sống ở Ấn Độ, và chưa từng dừng việc luyện tập hàng ngày. Hơn nữa, giữ mức kiềm trong cơ thể cân đối cũng rất quan trong đấy, chàng trai trẻ. Cháu có ăn gà không?”
“Cháu rất thích món gà.”
“Ừm, hãy ngừng thích nó đi. Những chú gá hấp thụ lại nước tiểu của chính mình – vậy nên thịt của chúng chứa rất nhiều axit.” - Ông cụ nói và bước đi nhanh hơn nữa. Khi họ đến chiếc đình tường kính, Nick để ý thấy có hai người bảo vệ đứng canh cạnh sườn lối vào.
“Đây là văn phòng riêng của ta.” - Ông Jirasit giải thích. Họ bước vào căn phòng không có gì khác ngoài một bức tượng Phật cổ bằng vàng được đặt trong hốc tường và một chiếc bàn màu đen mạ vàng đối diện cửa sổ nhìn ra hồ. Jirasit bước đến cánh cửa trên tường sau và đặt tay lên máy quét an ninh. Một vài giây sau, ổ khóa lớn tự động mở ra và ông ra hiệu để Nick đi theo ông vào phòng.
Phía trong là hầm có lối vào riêng với những dãy tủ âm tường khắp bốn phía. Một chiếc két sắt Wells Fargo cổ được gắn xuống sàn đứng trong một góc phòng. Jirasit quay về phía Nick và nói, “Đây rồi. Làm ơn cho tôi mã khóa?”
“Xin lỗi, ông muốn cháu cho ông mã khóa sao?”
“Đương nhiên rồi. Đây là két sắt của bà cháu từ Singapore mà.”
“Ừm, cháu không biết mã là gì.” - Nick nói, ngạc nhiên bởi diễn tiến câu chuyện.
“Ừm, trừ khi cháu rất giỏi trong việc phá két, không thì cháu sẽ cần đến một mã khóa đấy. Xem nào, tại sao chúng ta không gọi cho Catherine ở Băng Cốc và xem cô bé có biết mã không?” Jirasit lấy điện thoại ra và nói chuyện với Catherine một hồi qua điện thoại. Hai người trao đổi sôi nổi bằng tiếng Thái, và Jirasit liếc mắt nhìn Nick. “Cậu có mang đôi khuyên không?”
“Đôi khuyên sao?”
“Đôi khuyên tai ngọc trai của bà nội cậu. Mã khóa nằm trên đó.”
“Ôi Chúa ơi! Đôi khuyên tai! Để cháu gọi cho vợ cháu!” - Nick bàng hoàng nói. Anh nhanh chóng gọi cho Rachel và chỉ vài giây sau cô trả lời bằng giọng ngái ngủ.
“Em yêu à, xin lỗi vì đã đánh thức em. Ừ, anh đang ở Chiang Mai. Em có nhớ đôi khuyên anh đã tặng em không? Đôi khuyên tai ngọc trai của bà nội anh?”
Rachel bò ra khỏi giường, đi ngay về phía bàn trang điểm và mở ngăn kéo nơi cô cất giữ đồ trang sức của mình.
“Cụ thể thì em cần tìm kiếm gì nhỉ?” - Cô hỏi, giọng vẫn chưa tỉnh hẳn.
“Em có thấy dãy số nào được khắc trên mặt ngọc không?”
Rachel cầm cao viên ngọc trai lên bắt ánh sáng từ cửa sổ. “Không có gì, Nick à. Nó hoàn toàn nhẵn bóng và chói sáng.”
“Thật sao? Em nhìn lại được không?”
Rachel nhắm một mắt lại và nheo mắt nhìn mỗi viên ngọc kỹ nhất có thể. “Em rất tiếc, Nick à, em không thấy gì cả. Anh có chắc mình đang nói về đôi khuyên tai này không? Chúng rất nhỏ, em không nghĩ là ai đó có thể giấu bất kỳ thông tin gì trên nó, trừ khi là nó nằm bên trong viên ngọc.”
Nick nhớ lại lời Ah Ma đã nói khi trao đôi khuyên cho cậu. Cha đã trao lại đôi khuyên này cho bà khi bà trốn khỏi Singapore trước chiến tranh, khi những người lính Nhật Bản đến Jobor và chúng ta biết rằng mình đã thua . Chúng rất đặc biệt. Cháu hãy giữ chúng cẩn thận. Những lời nói đó giờ đây có một ý nghĩa hoàn toàn khác. Anh nhìn chằm chằm vào chiếc két sắt, không biết nó có thể chứa cái gì bên trong. Liệu bên trong có phải là những thỏi vàng, chồng đống những trái phiếu hay là một loại tài liệu tài chính nào đó khác có thể giúp anh cứu Tyersall Park? Trong đó là những gì có giá trị đến nỗi bà cậu phải bỏ ra nhiều công sức để bảo vệ nó đến vậy?
“Rachel à, anh chắc chắn rằng chính là đôi khuyên đó. Có lẽ chúng ta phải mở nó ra thật. Có lẽ nào dòng số sẽ hiện lên khi em đặt chúng vào trong nước? Anh không biết nữa, em hãy thử bất cứ cách nào.” - Nick nản chí nói.
“Ừm, trước khi phá đôi khuyên, thì để em thử cách cho vào nước.” - Rachel đi vào phòng tắm và mở vòi nước đầy bồn. Cô nhìn lại đôi khuyên lần nữa – đó đơn giản là viên ngọc trai đính vào chiếc gài bằng vàng và có một miếng đỡ phía sau. Trước khi nhúng một trong hai chiếc khuyên xuống nước, cô quyết định nhìn kỹ lại miếng đỡ của phần gài. Bỗng nhiên cô há hốc miệng. Ngay đó, phía sau của miếng đỡ nhỏ xíu là những ký tự Trung Hoa được khắc vào miếng vàng. “Nick à, em không bao giờ nghĩ rằng mính sẽ nói những từ này nhưng… EUREKA, EM TÌM THẤY RỒI! Có những ký tự Trung Hoa được khắc vào miếng đỡ của đôi khuyên!”
Rachel nhanh chóng giải mã ra hàng số: “9,32,11,17,8.” Nick xoay chiếc khóa theo những con số tương tự, tim anh đập lên theo tiếng khớp của mỗi con số. Cuối cùng anh nhấc cái tay nắm lên, mở két ra, nín thở không biết mình sẽ tìm thấy gì bên trong.
Cánh cửa két sắt cót két mở ra, và khi Nick nhìn vào trong, tất cả những gì anh thấy trong đó chỉ là những cuốn sách nhỏ bọc da màu đỏ, xếp ngay ngắn thành một chồng. Anh lấy một cuốn ra và lật qua các trang. Các trang đều được viết bằng tiếng Trung, và Nick nhận ra anh đang cầm trên tay những cuốn nhật ký cá nhân của bà nội anh, bắt đầu từ khi bà còn nhỏ đến khi trưởng thành.
“Vì sao chúng lại ở đây ạ?” - Nick bối rối hoàn toàn.
Jirasit cười bình thản với Nick. “Bà của cậu là một người rất kín đáo, và tôi nghĩ rằng đây là nơi duy nhất bà có thể để chúng lại, không sợ có người nhìn thấy hay kiểm duyệt chúng sau khi bà ra đi. Bà không bao giờ muốn giữ chúng ở Singapore, và bà cũng không muốn chúng bị đem ra khỏi đây. Cậu là một nhà sử học, ta được biết vậy, nên bà ấy muốn cậu tìm thấy chúng. Bà ấy đã nói với ta sẽ có ngày cậu đến.”
“Đây có phải là tất cả không? Những cuốn nhật ký?” - Nick hỏi và cúi xuống nhìn kỹ phía trong chiếc két sắt tối.
“Ta tin là vậy. Cậu có tìm kiếm một thứ gì khác không?”
“Cháu không biết. Cháu đã tưởng tượng rằng bà sẽ có những kho báu giá trị cất giữ ở đây.” - Nick nói thoáng chút thất vọng.
Jirasit cau mày. “Ừm, cậu nên đọc chúng, Nicholas à. Có thể cậu sẽ tìm thấy những món kho báu không ngờ tới bên trong những trang giấy đó. Tôi sẽ để cậu một mình, chúng ta có thể gặp lại nhau vào bữa trưa nhỉ?”
Nick gật đầu và anh cầm một chồng những cuốn nhật ký lên bàn. Quyết định rằng tốt nhất nên đọc những cuốn nhật ký theo thứ tự thời gian, anh cầm cuốn cũ nhất dưới đáy chồng nhật ký. Anh nhẹ nhàng mở cuốn nhật ký, da bọc cuốn sổ bắt đầu rơi ra vụn vỡ sau hàng thập kỷ vùi mình trong yên lặng, anh dường như nghe thấy giọng trẻ con thánh thót của bà nội trong những con chữ viết tay.
Mùng 1 tháng Ba, năm 1943
Cảm giác cứ như chúng ta đã đi đường cả tuần dài rồi, nhưng Keng nói với mình rằng mới đi được có ba ngày thôi. Mỗi khi tới một trạm mới, mình lại hỏi anh ấy chúng ta vẫn đang trên mảnh đất à và anh thở dài tuyệt vọng. Đúng, chúng ta vẫn trên mảnh đất. Rõ ràng là gia đình mẹ mình là điền chủ lớn nhất Tây Sumatra, phải mất cả tuần liền trên lưng ngựa mới băng qua mảnh đất được. Những vùng cao nguyên thật lộng lẫy – gồ ghề một sự hoang dã kỳ lạ. Nếu là một chuyến đi khác, mọi thứ có khi còn trở nên lãng mạn. Nếu biết trước mình sẽ phải dành ra thật nhiều ngày để cưỡi ngựa chỉ để đến nhà của anh trai, mình đã mang theo cái yên của riêng mình rồi!
Mùng 2 tháng Ba, năm 1943
Cuối cùng cũng đến nơi. Họ dẫn mình lên tầng hai để gặp Ah Jit. Ban đầu mình không hiểu chuyện gì đang xảy ra. Anh trai mình nằm bất tỉnh, gương mặt điển trai của anh sưng phồng và tím tái, mình gần như không nhận ra anh. Phía hàm phải của anh có một vết cắt dài và đẫm máu, họ đang cố gắng giữ cho nó không bị nhiễm trùng. Mình đã hỏi chuyện gì đang xảy ra vậy? Mình tưởng rằng dịch tả đã được kiểm soát rồi? “Chúng tôi không muốn kể với cháu cho đến khi cháu đến nơi. Đây không phải là bệnh tả. Cậu ấy đang bị xuất huyết trong. Cậu ấy bị những điệp viên Nhật Bản tra tấn. Chúng muốn cậu khai ra vị trí của một vài người chủ chốt. Chúng đã đập gãy thân xác cậu, nhưng không thể bẻ gãy ý chí của cậu.”
Mùng 5 tháng Ba, năm 1943
Ah Jit đã chết ngày hôm qua. Anh ấy đã tỉnh một lúc, và mình biết rằng anh đã rất vui khi thấy mình. Anh cố gắng nói, nhưng mình đã ngăn anh. Mình ôm anh ấy trong tay và thì thầm vào tai. “Em biết, em biết. Anh đừng lo. Mọi chuyện ổn cả rồi.” Nhưng mọi chuyện không hề ổn. Anh trai thương mến của mình đã ra đi và mình không biết phải làm gì tiếp theo. Sáng nay mình ra ngoài vườn và thấy những bông hoa đỗ quyên đã nở rộ sau một đêm. Đột nhiên những cái cây ngập tràn hoa, ngập tràn sắc hồng mà mình không nghĩ có thể tồn tại. Chúng nở rộ rậm rạp, chúng sượt qua mặt mình khi mình đi qua khu vườn, nước mắt ràn rụa. Ah Jit biết mình thích những bông hoa này đến nhường nào. Anh ấy đã làm điều này vì tôi. Tôi biết anh ấy đã làm.
Nick nhìn chằm chằm vào những cuốn nhật ký, cảm thấy bối rối vô cùng. Những điều này thật vô lý. Ông cố Ah Jit của anh bị tra tấn bởi những người Nhật Bản, và bà nội anh đã ở đó sao? Nhưng chẳng phải bà đã ở Ấn Độ trong suốt thời chiến sao? Anh lật qua vài trang giấy nữa, và một bức thư rời rơi xuống. Nick liếc nhìn phong bì thư vàng và cứng, một luồng khí lạnh chạy dọc sống lưng anh. Anh không tin vào mắt mình.