31 - Đồng Môn
Câu chuyện xẩy ra vào một đêm tối trời tháng 3 năm 1927. Khi ấy tôi mới lên 5 nhưng hình ảnh và những sự việc xẩy đến ngày hôm đó không mờ phai trong trí nhớ non nớt của tôi. Đêm đó tôi ngủ với cha tôi. Đang say sưa trong giấc ngủ tôi chợt tỉnh giấc, dáo dác nhìn quanh thấy cha mẹ tôi đều bị trói vào chân bàn phòng khách.
Ánh sáng yếu ớt của chiếc đèn trong phòng khách đủ soi sáng mọi vật nhưng tôi cũng nhìn thấy cách mấy bước có một người vóc dáng lo lớn, mặt trùm khăn trông lạ lẫm đang đứng canh chừng. Kẻ khác đang đập phá, nạy các tủ, hòm, rương. Tôi cũng lờ mờ suy đoán chuyện không may xẩy đến cho gia đình tôi. Tôi rón rén bò lại gần bên cha mẹ tôi. Người sẽ bảo tôi:
-Con chạy sang nhà bác Cả (anh ruột cha tôi) nói cho bác biết.
Nhà bác ở sát cạnh nhà. Tôi mon men ra đến của chính gặp ngay một người bịt mặt khác, chân quấn xà-cạp vải đen đứng chận cửa. Nó tát tôi một cái thật mạnh đủ để tôi quay lơ ra đất. Tưởng thế là xong, nó bèn bỏ lên nhà trên. Thừa dịp, tôi lóp ngóp dậy, chạy nhanh qua tới sân sau nhà bác Cả. Ở đây cũng lố nhố nhiều người, hoảng hốt tôi chạy lùi ra phía bờ ao, ngồi đấy tới sáng thấy yên mới dám trở về nhà.
Nhà tôi lúc ấy ồn ào, người ra kẻ vào đang giúp mẹ tôi thu dọn đồ đạc bị đổ vỡ. Chị em tôi ngơ ngác nhìn nhau chẳng hiểu gì, nhưng ấn tượng của đêm đó in hằn trong tâm khảm mãi. Những ngày sau đó thỉnh thoảng cha tôi phải đi lên phủ hay xuống tỉnh để khai báo về vụ cướp.
Một năm sau, vào một buổi chiều hè oi ả, bác Cả và cha tôi từ tỉnh trở về. Họ hàng, lối xóm kéo tới chật nhà để nghe bác Cả và cha tôi kể về phiên tòa xử án vụ cướp nhà tôi. Theo lời cha tôi kể, tên Trạch, đầu đàng bị kết án một năm tù, còn những tên tòng phạm tù sáu tháng tới một năm. Tất cả đều can án lần đầu tiên bởi vậy mới được hưởng lượng khoan hồng của tòa.
Bác tôi còn kể tên Trạch cầm đầu đàn chẳng xa lạ gì với làng này nên nó mới phải bịt mặt hóa trang để không ai nhận diện được. Chính nó là con một ông đồ, người hay chữ có tiếng ở đây. Sau khi tuyên án, ông chánh án ôn tồn nói với Trạch:
-Luật pháp bất vị thân. Bác nhận ra cháu, nhớ tới bố cháu với cái tính cố chấp kỳ cục, không chịu nhận sự trợ giúp của bác để cháu không có phương tiện đi học để tiến thân đến nỗi cháu tìm đường tắt mà đi, lạc vào giới thảo khấu mới ra nông nỗi này.
Bác tôi kể chuyện hai ông đồ Thích và ông Đôn (chánh án bây giờ) là bạn đồng môn. Ông Thích còn giỏi và hay chữ hơn ông Đôn. Khi cùng đi thi ông Thích phạm trường quy nên bị loại mấy khóa liền. Đến thời kỳ chính quyền bảo hộ đặt nền móng vững chắc, họ bãi bỏ trường thi Nam Định, ông đồ Thích đành ôm hận quay về nhà mở trường dậy trẻ trong làng nhưng trong thâm tâm vẫn hy vọng thời thế thay đổi ông có thể xuất chính.
Ông lại coi thường bạn là ông Đôn học hành tầm thường không bằng mình, chỉ nhờ nắm được thời vận may mắn chui vào trường Hậu Bổ để ra làm quan. Rồi lại khéo xoay sở bước tới địa vị đường quan như ngày nay chứ có tài cán gì. Nhưng ông Đôn khi công thành danh toại vẫn không quên bạn bè. Đôi ba lần ông tìm đến nhà ông Thích hỏi thăm tỏ ý muốn giúp đỡ và nhận con ông Thích là Trạch về nuôi cho ăn học với con ông cho có bạn.
Nhưng ông đồ Thích một mực từ chối, trong bụng lại nghĩ rằng bạn khinh mình không nuôi nổi con. Từ đấy hai ông không còn liên lạc nữa. Mọi chi dùng trong nhà đều do tay bà đồ đảm đang, tảo tần với gánh hàng xén trên vai hết chợ gần tới chợ xa. Tối về về bà còn dệt cửi đến khuya mới chịu nghỉ tay. Người hiền phụ đảm đang quá vất vả đã trút hơi thở sau một cơn bao bệnh.
Sau khi vợ chết ông đồ không còn ung dung, thư thái như trước. Ông phải tự gánh vác việc nhà một mình, số tiền thù lao dậy học quá ít, số vốn dành dụm mà bà đồ để lại chả được bao lâu thì hết, ông đồ quá buồn bực, nay đau mai yếu, đã thiếu lại càng nghèo hơn. Nhiều lúc ông cũng có nghĩ tới bạn là ông Đôn, cũng muốn tìm đến nhờ vả nhưng lại tự ái và cũng vừa cố chấp cho rằng mình học giỏi hơn nhưng chỉ vì không gặp thời mà thôi.
Trạch là con lớn trong nhà, gặp cảnh nhà túng quẩn phải chạy gạo từng bữa, không còn biết xoay sở làm sao. Lại gặp lúc học hành dở dang, nghề nghiệp không có, muốn đi làm không ai mướn, muốn đi buôn không có vốn. Cùng tắc biến, lao thân vào chốn lục lâm để đến nỗi mắc vòng lao lý mai một thanh danh, uổng phí đời người.
Nhiều ông nhà Nho ngày xưa hay có tính gàn dở, cố chấp làm thiệt thòi cho chính mình và cho cả thế hệ con cháu. Ngày nay nhiều bậc cha mẹ cũng vì thiếu sự nhìn xa mà chỉ thấy cái lợi trước mắt, làm một job chưa đủ phải hai ba job mới được. Ông đi làm, bà đi làm để mua thêm xe, đổi nhà lớn, con cái không có sự săn sóc của mẹ, thiếu sự kiểm soát của cha, đến lúc được tin con vào băng này, đảng nọ, trộm cướp, nghiện ngập thì đã muộn.
Cha mẹ nào cũng thương con, cũng muốn cho con được hưởng tiện nghi, sung sướng nên cố sức đi làm để có nhiều tiền cho con sau này hưởng thụ. Điều đó chưa phải là sự khôn ngoan, nhiều người đồng ý với ý niệm hãy dành thì giờ dạy dỗ con cái có đời sống tâm linh đức hạnh thâm sâu, một nghề nghiệp vững chãi. Đây mới là gia nghiệp để lại cho con bằng cả tâm hồn trí lực rất đáng quý.