← Quay lại trang sách

38 - Niềm Tin

Nắng buổi chiều mùa hè tắt muộn trên các ngọn cây trong vườn. Nàng thơ thẩn hồn nhìn lên đám mây trắng như giải lụa lững lờ bay theo chiều gió nhẹ. Trong lúc nàng đang mang trong lòng, đưa con đầu đời mà cả hai vợ chồng cùng hoan hỉ mong đợi ngày chào đời của con. Ôi! Những ngày hạnh phúc qua mau.

Dưới ách đô hộ của người Pháp với chính sách hà khắc cai trị trên giải đất Đông Dương nói chung, người dân Việt Nói riêng đã phải chịu sưu cao thuế nặng, ức hiếp đủ điều. Thực dân theo gót quân đội viễn chinh tràn vào nước ta lộng hành làm mưa làm gió độc quyền khai thác về kinh tế, tê hại nhất là độc quyền về á phiện, cho người tự do mở tiệm bán khắp nơi đầu độc thanh niên, những hạng đua đòi ăn chơi, hay bất đắc chí, làm lu mờ óc tiến thủ.

Độc quyền nấu rượu, phát môn bài cho một số người mở đại lý các nơi để bán rượu; vào khoảng 1933, 1934, 1935, gặp thời kinh tế khủng hoảng, người dân quê chạy ăn chưa xong, bọn thực dân thấy bán rượu không chạy, chúng cho đem rượu về phân phối cho các làng quê, bắt các tổng lý trong làng đưa rượu tới tận từng nhà bắt ép phải mua rượu dù gia chủ không biết uống rượu. Còn những người biết uống cũng không ai uống nổi thứ rượu thiếu phẩm chất này.

Ở thôn quê từ xưa dân mình vẫn cất rượu để uống hay bán lại cho dân làng, bấy giờ ai nấu hay bán thứ rượu của mình, thì chính phủ bảo hộ cho là “đồ quốc cấm”, bị bắt sẽ phải phạt tù phạt tiền tùy theo nhà ‘đoan’ tức đồn thương chính do chúng lập ở các thương khẩu, các yếu lộ giao thông, bất thần đem lính và tụi ‘Indicateur’ chỉ điểm đi ruồng bắt, chúng khám bất kỳ nhà nào hồ nghi là nhà có nấu rượu, hay có đồ nghề nấu rượu.

Phần nhiều người ta hay làm về đêm, trước lúc sáng rõ mặt người, đã đưa đi cất dấu cả rượu, nhưng thùng cơm rượu còn đang ủ men và dụng cụ để nấu rượu. Thường nơi cất dấu kín đáo nhất người ta hay đưa thứ “quốc cấm” để vào trong chum, vạt kín đưa ra đồng vùi xuống ruộng, nếu để lâu bao nhiêu rượu sẽ ngon bấy nhiêu. Chờ lúc thuận tiện tới ban đêm người ta im lặng đào lên đưa về nhà để nấu. Trong lúc nấu người nhà phải chia nhau ra gác cách xe nhà nấu rượu để kịp thời báo động về nhà khi thấy bóng “Tây đoan” đi khám.

Không may chúng bắt được tang vật, chúng cho tìm hương chức sở tại tới làm biên bản, còng tay gia chủ với tang vật giải giao cho phủ, huyện, chờ ngày ra tòa lãnh án phạt.

Cũng vì sự hà hiếp bất công này mà sinh ra biết bao tệ đoan dã man vô lý… Người dân quê hiền lành chất phác chăm chỉ làm ăn đã đành, còn luôn luôn lo lắng đêm ngày vì nạn rượu lậu. Những hạng tiểu nhân muốn trả thù, nhưng chỉ điểm làm tiền những người có ruộng ở xa nhà, làm thế nào có đủ thì giờ để canh coi chừng có kẻ đưa rược tới chôn giấu ở ruộng của mình. Biết bao oan ức, táng gia bại sản tù đầy vì ruộng có rượu cách xa chỗ ở một hai cây số ngàn là thường.

Tệ nạn rượu lậu lan tràn khắp trung châu Bắc Việt, vì quá uất ức, thỉnh thoảng lại xẩy ra vụ cắt gân chân bọn chỉ điểm vì tụi này vừa đi làm tiền người dân, hay chúng chỉ dẫn cho tụi Tây khám bắt được rượu lậu chúng được thưởng nhiều tiền mồi nhử cho bọn bất lương đi làm chỉ điểm. Cũng vì luật bắt rượu lậu ở ruộng xa gia chủ hàng mấy cây số này mà vào thập niên 1940 viên Thống sự Bắc Kỳ Dellsale nhận thấy điều luật quá ư dã man tàn nhẫn nên ông ta đã ký nghị định bãi bỏ, hậu quả bị bọn tài phiệt thế lực ở Sài Gòn áp lực đưa ông Pages thay thế Dellsale.

Cũng thuộc vào hàng quốc cấm như rượu, muối là thứ thực phẩm cần thiết cho tất cả mọi người. Bọn thực dân tham lam thu tất cả các sân làm muối ở ven biển, biến tất cả các tiểu công nghệ này thành lao công cho chúng độc quyền bán lại cho các đại lý của chúng, chúng làm giầu trên xương máu người dân bị trị.

Những người có tâm huyết chỉ biết lắc đầu ngao ngán lo cho tiền đồ dân tộc với chính sách ngu dân để triệt hạ mầm mồng chống đối với bọn thực dân, mới dễ thao túng cai trị. Hiểu dã tâm thâm độc của chúng, các cụ thời bấy giờ lấy cớ trà dư, tửu hậu, ngày Tết, ngày giỗ thường gặp nhau than thở; làm dân bị trị biết bao giờ ngóc đầu dậy được, rồi đi đến chổ bảo nhau nhà nào có thể nên gởi con em đi học hãy hấp thụ lấy một nền học vấn thực dụng khoa học phương Tây. Với ý đồ như trên Hải được cha mẹ gởi đi Hà Nội học, những dịp nghỉ hè, ngày Tết về quê thường được nghe kể lại hay chính mắt nhìn thấy những tệ trạng dã man, áp bức do luật lệ chính phủ áp đặt.

Chàng đã có tư tưởng phản kháng và muốn làm một cái gì, ở Hà Nội là nơi phát xuất sẵn môi trường để được tham gia theo chí hướng.

Một chiều về mùa Đông âm u, gió rít từng cơn lạnh lẽo se sắt. Ngồi ở tràng kỷ cụ Tú co ro, khoác chiếc áo bông dầy cộm, húng hắng ho sau một hơi thuốc lào lọc xọc, khuôn mặt gầy, da hơi xanh, qua bức màn trúc nhìn ra sân, cụ Tú nói nhỏ như vừa đủ cho mình nghe. Thằng Hải hẹn hôm nay về mà giờ này vẫn chưa thấy, chợt Hồng vợ Hải từ sau vườn trở vào nhà tay cầm mấy cây cải vừa nhổ ở vườn, cụ Tú nhắc con làm cơm sẵn, Hải chắc sắp về tới. Con Vàng vừa sủa được một tiếng, đuôi đã ve vẩn chạy ra săn đón người nhà.

Bữa cơm chiều nay đầy đủ bố mẹ, vợ, các em. Hải nhìn từng khuôn mặt những người thân yêu như cố thu từng nét mặt mỗi người vào trong óc. Bữa cơm có đủ món mà Hải thích ăn, vợ chàng đã sửa soạn kỹ lưỡng để đón chồng, hiểu như vậy mà chàng không thiết ăn, cứ nghĩ đến phút giây ít nữa chàng sẽ trình bày về lý tưởng về con đường mình sẽ theo, bố mẹ và vợ có chấp nhận hay không; mẹ ép chàng ăn thêm, vợ đẩy đĩa món ăn chàng thích lại gần, ngầm mời chàng ăn thêm, những trìu mến của mọi người, trong lòng chàng như thắt lại, trước sự vui vẻ của mọi người, Hải cố giữ nét mặt thản nhiên.

Riêng cụ Tú đã đoán phần nào, hiểu con không ai bằng cha, thấy con đang học lại về nhà vào thời điểm không căn đo.

Khi chàng trình bày hết lý do, muốn phụng sự tổ quốc với chế độ hà khắc, sống trong một nước tương lai mù mịt, người dân bị áp bức nhục nhã, không những thế hệ hiện tại mình đang chịu, còn thế hệ tương lai con cháu mình, cứ phải kéo làm thân nô lệ biết đến bao giờ.

Phải có lớp người xung phong ra đi làm lịch sử, nếu có dở dang thì thế hệ sau lại nối tiếp, hiện tại lớp trẻ này cùng đang thực thi nối tiếp thế hệ đàn anh đã qua. Chàng tiếp: con chưa biết làm được điều gì cho bố mẹ, nay lại đem sự buồn phiền tới bố mẹ, chữ hiếu chưa trả, trông vào các em, vợ con thay thế phụng dưỡng cha mẹ.

Chưa hết câu cụ Tú, với vẻ mặt rạng rỡ, liền nói: Bố hiểu con, tin vào con hợp chí hướng của bố, riêng bố vẫn ân hận chưa làm được điều gì cho tổ quốc cho đồng bào, bố cầu mong con thành công. Cụ bà quá thương con chưa kịp phàn nàn, nghe cụ ông nói biết cụ đã nhất trí với con, lại còn tỏ vẻ hân hoan, bà chỉ biết gật đầu trào hai hàng nước mắt nhìn con ái ngại, ý muốn cản ngăn lại thôi không muốn làm buồn lòng chồng con.

Quay sang Hồng, chàng nhìn nàng chờ câu trả lời “Ý em thế nào”. Không chút do dự, Hồng cương quyết trả lời: “Em tin anh, nếu em không có mang em sẽ theo anh, vả lại em có bổn phận đối với bố mẹ thay anh, chờ con chúng ra ra đời, em sẽ có nguồn an ủi để đủ nghị lực chờ anh.” Được lời như cởi tấm lòng, giải quyết việc nhà đã xong, chàng mới bộc lộ, hiện tại đang bị nghi ngờ, điều tra theo dõi nếu không tránh trước, dễ bị sa vào cạm bẫy của tụi chó săn.

Hết đêm nay ngày mai chàng phải bí mật ra đi. Cả hai vợ chồng đều tính trước những khó khăn có thể xẩy ra, nhiều bất trắc không thể ngờ tới, cả hai đều hứa với nhau tin ở lòng chân thành của nhau, chàng hy sinh hạnh phúc cho tổ quốc, nàng chấp nhận những khó khăn riêng phải chịu, hứa làm tròn bổn phận để chàng yên lòng ra đi.

Nàng yên phận nuôi con giúp đỡ cha mẹ ngày một già. Từ ngày chàng ra đi lâu lâu cũng có tin, khi thì nhân miệng hỏi thăm gia đình, họa hiềm có thơ chàng viết về thăm cha mẹ, vợ con với cả một tấm lòng tràn trề yêu thương, vì muốn bảo mật, tránh liên lụy đến gia đình, nên ít dám liên lạc.

Từ ngày ra đi mùa xuân năm ấy, chàng trở về cùng với hai đồng đội tới nhà mới biết bố mẹ đã mãn phần, con chàng đã biết cắp sách đi học. Trước phần mộ song thân chàng khấn thầm con sinh bất phùng thời nên làm con bất hiếu, chưa làm được điều bố mong đợi, con nguyện góp thân sức đem tự do, thanh bình, no ấm về cho dân tộc như ý bố.

Nghỉ ngơi ít hôm chàng hẹn mấy người bạn cùng xuất phát. Trước khi đi chàng nắm tay nàng cảm ơn người vợ tâm tình, người vợ lý tưởng đã giúp chàng đủ nghị lực dấn bước phiêu lưu ngàn dậm.

Tình hình trong nước ngày một dồn dập đến với người dân. Quân đội Nhật cướp lại quyền của người Pháp, thu hồi độc lập trả lại cho chính phủ Việt Nam trên giấy tờ, rồi quân đội Tầu kéo tới giải giới quân Nhật, Quốc Cộng chia đôi đất nước.

Vào đến miền Nam một thời gian rồi với biến cố 1975, gia đình ông Hải cũng theo làn sóng người lưu lạc nơi đất khách quê người. Hành trang mang đi vẫn là niềm tin quyệt đối vào lý tưởng thuở thiếu thời cùng với niềm hy vọng một ngày tươi sáng trong tương lai sẽ trở về trên quê hương không còn Cộng Sản.

Vào cuối tuần một buổi sáng đẹp trời, khí trời se lạnh đủ mặt già trẻ lớn bé ngược xuôi vội vả mua bán, hay thủng thẳng dắt tay nhau đi ngắm cửa hàng. Qua khuôn cửa kính trên đường Bolsa lẫn trong đám người đồng hương, một cụ ông tay chống nạng lê bước bên cạnh bà cụ trông còn khỏe mạnh, cả hai đều có mái tóc bạc trắng như cước, đến gần tôi mới nhận ra ông bà Hải người cùng làng, một người trẻ tuổi vốn giòng hào kiệt thuở trước, một thiếu phụ duyên sắc mộc mạc nhưng có đủ nghị lực kiên trinh, ý chí tin tưởng chấp nhận đời sống khắc khổ tự lập để người bạn đời theo đuổi chí hướng không vướng câu thê tróc tử phọc.