Hồi Thứ Tám Trai anh-hùng, ướm buộc chỉ nhơn-duyên,-Gái thục-nữ, nặng giao lời thệ ước.
Kế đó Đông-Sơ bước tới ít bước, rồi dừng chơn đứng lại nơi dưới bóng sáng trăng và cúi đầu chào Tiểu-thơ một cách lễ nghi lịch sự.
Tiểu-thơ thấy rõ Đông-Sơ thì sắc mặt tràn ra nửa đỏ nửa xanh, trong lòng nửa mừng nửa sợ. Mừng là mừng thấy người tình xưa nghĩa cũ, nay đặng tái hội trùng phùng. Sự là sợ nỗi gươm oán giáo thù, sanh đều tai lây họa gởi. Vì vậy nên Tiểu-thơ rối loạn tâm thần mà ngẩn-ngơ hình dạng. Đó rồi day lại biểu thể-nữ ra mời Đông-Sơ vào.
Khi Đông-Sơ bước vô lương-đình, đương liếc mắt mà ngó Tiểu-thơ, còn Tiểu-thơ thì khép nép một bên, rồi cũng nhắm Đông-Sơ tướng mạo, thì thấy đầu chít một khăn thanh cân, có thêu kim ngân lạc khoản, mình mặc một bộ đồ võ phục, có thêu huê dạng rỡ ràng, dưới chơn thì mang đôi võ hài, nịt tất thủy ba cao lên chí gối, bên lưng đeo một cây đoản kiếm, vỏ bạc cán vàng, trên vai thì choàng một sợi hồng-la, nó nhỏng nhảnh có thắt hoa kết tụi
Thật là:
Dung nhan tướng mạo phi thường,
Phong nghi đáng một đường đường trượng-phu.
Đó rồi Tiểu-thơ mới nhích môi yến chi đỏ đỏ ; hở răng bạch ngọc trong trong, liếc cập mắt thu ba, rồi buông lời thanh bai mà hỏi: “Thưa Quan nhơn, trong lúc đêm khuya tịch mịch, người dầm sương đội nguyệt, lướt dặm băng ngàn, mà đến đây, chẳng biết có đều chi cần kíp muốn tỏ cùng tôi, xin nói cho tôi rõ.”
Đông-Sơ nghe hỏi thì đáp rằng: “Thưa Tiểu-thơ, không có đều chi cần kíp hơn là đều tôi đã ôm ấp và cất để trong một góc lòng tôi. Từ khi tri ngộ Tiểu-thơ đến nay, không giây phút nào mà tôi rời nó ra đặng, và cũng không đều chi thiết yếu hơn là đều tôi đã gánh vác nơi vai tôi mấy đêm nay, mà đứng đợi ngồi trông nơi một góc vườn nầy, ước ao cho gặp Tiểu-thơ, đặng giở ra cho Tiểu-thơ xem, và nói ra cho Tiểu-thơ rõ, như Tiểu-thơ đem lòng hạ cố, mà hỏi tôi đều ấy là đều chi, thì tôi xin lỗi cùng Tiểu-thơ mà trả lời rằng: đều ấy là một đều tâm sự rất thiết-yếu của tôi với Tiểu-thơ đó thôi ; chớ không đều chi cần kíp hơn nữa.”
Tiểu-thơ nói: “Quan-nhơn nói rằng đều tâm sự ấy là một đều cần kíp, nếu Quan-nhơn nói vậy thì tôi e cho lời đó rất lầm, vì có một đều rất cần kíp hơn nữa, là đều tôi muốn hỏi Quan-nhơn bây giờ đây: Quan-nhơn có biết chỗ nầy là một chỗ rất nguy hiểm cho Quan-nhơn lắm chăng? Chỗ nầy là một chỗ người ta bủa lưới giăng rập mà hãm hại Quan-nhơn. Quan-nhơn đến đây chẳng khác nào đến chỗ gươm đao, và vào hang hùm cọp đó vậy. Tôi tưởng sự ấy là một sự rất cần kíp cho Quan-nhơn phải biết mà tránh đi, song chưa rõ Quan-nhơn biết chăng, hay là chẳng biết?”
Đông-Sơ nghe rồi mỉm cười và day lại đáp rằng: “Tôi rất cảm ơn Tiểu-thơ thạnh tình chiếu cố, mà tỏ sự nguy hiểm ấy cho tôi nghe, song tôi đã biết trước rồi, sự nguy hiểm ấy nó ở nơi lỗ miệng của một người ngồi đây nói chuyện với Tiểu-thơ khi nãy ; và chẳng những tôi biết đây mà thôi, mà tôi cũng biết tới sự nguy hiểm trong khi tôi vào diễn-trường mà thí võ nữa. Nhưng mà sự ấy không đủ làm cho tôi kinh tâm táng đởm? Và không đủ làm cho tôi rủn chí nguôi lòng, vì cái phẩm hạnh dung nghi của Tiểu-thơ làm cho tôi hết biết sợ sệt cái bẫy rập nguy hiểm người ta giăng trưởc mắt tôi, và cái lòng tư tưởng quyến luyến Tiểu-thơ làm cho tôi hết biết kinh khủng sự cọp hùm đao kiếm. Tôi cũng biết rằng Tiểu-thơ đem lòng thương tưởng đến kẻ phước bạc tình suy, nên mới dám đến đây mà cạn tỏ niềm riêng, ngỏ xin đài gương soi xét ; dẫu rằng tan xương nát thịt, tôi cũng cam lòng, miễn là tôi đặng Tiểu-thơ đoái chút tình thương, thì cũng đủ làm cho tôi đặng vinh vang danh giá.”
Tiểu-thơ nói: “Thưa Quan-nhơn, tôi chưa hề khi nào nói với Quan-nhơn rằng: tôi thương tưởng Quan-nhơn.”
Đông-Sơ nói: “Tiểu-thơ ôi! thật Tiểu-thơ chẳng nói rằng thương tôi, nhưng mà Tiểu-thơ cũng chẳng nói rằng chẳng thương. Vả lại tôi tưởng nếu Tiểu-thơ không đem lòng thương tưởng, thì tôi đã bị mũi tên độc-thủ, mà bỏ mạng nơi giữa đàng rồi, còn chi mà ngày nay đặng trùng phùng tái hội, và đặng thấy cái vẻ nhan sắc xinh đẹp của Tiểu-thơ trong lần thứ hai nầy đâu.”
Tiểu-thơ nghe nói thì sửng sốt trong lòng, thầm nghĩ rằng: sự nầy mình không dĩ hơi cho ai hay, mà sao va biết cũng lạ, rồi day lại mà nói với Đông-Sơ rằng: “Đó là phước mạng Quan-nhơn, chớ tôi không tài chi mà ngăn cản mũi tên ấy đặng?”
Đông-Sơ nói: “Tiểu-thơ ôi! Tiểu-thơ tuy không tài đỡ đạn ngăn tên, song cái tình Tiểu-thơ thương tưởng đến tôi, thì cũng đủ cứu tôi khỏi vòng tai nạn. Cải tình ấy làm cho tôi chạm dạ ghi xương, dẫu ngàn năm cũng không nguôi ngoai xao lãng, đã vậy mà Tiểu-thơ cũng còn rộng lòng ân cố, mà cho tôi hít đặng cái mùi hương trầm thơm tho của Tiểu-thơ rơi rớt ; và cho tôi một vật rất quí báu, làm cho tôi thấy vật ấy cũng như thấy cái vẻ nhan sắc xinh đẹp của Tiểu-thơ, tôi thấy đó mà nhớ dạng thương hình, đến đỗi mình gầy vóc ốm. Tiểu-thơ ôi! Tiểu-thơ xin hãy nằm đêm suy lấy đó ; rồi gác tay trên trán nghĩ mà coi: nếu chẳng phải ba sanh duơn nợ, thì ai xui cho gặp gỡ thình-lình, nếu chẳng phải giai ngẫu thiên thành, thì trời sao khiến cho dây tình nó vấn vương ràng buộc.”
Tiểu-thơ nghe nói thì cảm động lòng thương, song chẳng biết vật chi mà gọi là mình cho cũng lạ. Tự nghĩ như vậy, rồi day mắt liếc Đông-Sơ và hỏi rằng: “Quan nhơn nói rằng tôi cho Quan-nhơn một vật quí báu ấy là vật chi? Xin Quan-nhơn nói cho tôi rõ thử.”
Đông-Sơ nghe hỏi liền thò tay vào túi lấy ra một cái khăn mẫu-đơn, hãy còn phưởng phất mùi hương, rồi đưa ra và nói: “Tiểu-thơ ôi! cái món nầy là một món quí báu phi thường, chẳng biết bao nhiêu chỉ tơ xe dệt, rất chắc chắn khít khao, để làm một dây tơ hồng mà buộc cái tình chung của Tiểu-thơ và tôi lại đó. Tiểu-thơ ôi! cái tình ấy tuy là vô hình vô trạng, song rất mạnh mẽ vô cùng ; nó làm cho sống chẳng rời nhau, mà thác cũng không rẽ nhau đặng đa Tiểu-thơ. Tiểu-thơ ôi! nay tôi vì cái tình nồng nghĩa mặn ấy và cái cách điệu cử chỉ của Tiểu-thơ rất đằm thắm dịu dàng, làm cho tôi đem lòng thương hương mến ngọc, mà chẳng kể gươm đao, không kiêng thù hận, chỉ quyết đến cho tận mặt Tiểu-thơ, mà gạn hỏi ít lời: như Tiểu-thơ đành lòng gá nghĩa tóc tơ, thì xin Tiểu-thơ hứa trước một lời mà tạc đá ghi vàng ; rồi sau tôi sẽ cậy người mai ước.”
Tiểu-thơ nghe nói thì hai má ửng hồng, dường như có sắc thẹn thuồng, song cái cách điệu nghiêm trang dung nghi tề chỉnh, chẳng hề để một lời chi hốt tốt, lộ ra ngoài môi, và chẳng để cái tình thương yêu lộ ra sắc mặt, rồi day lại mà nói với Đông-Sơ rằng:
“Những đều phân trần trước đó, tôi e cho Quan-nhơn chẳng kịp cạn xét cùng suy, mà tưởng lầm tin lộn đó chăng? Sự tôi cứu Quan-nhơn trong một phong thơ kia, là một sự tôi trả ơn cho Quan-nhơn. Cái ơn tri ngộ Quan-nhơn tôi xin tạc dạ ghi xương, vì vậy nên tôi chỉ biết một sự lo mà ân đền nghĩa trả cho Quan-nhơn đó thôi, chớ tôi chẳng biết đều chi khác nữa. Song Quan-nhơn ngỡ rằng một sự ý hiệp tình riêng, làm cho tôi rất phiền lòng và hổ thẹn. Vả lại Quan-nhơn cũng rõ rằng: tôi tuy là phận nữ lưu bồ liễu, song cũng con nhà phiệt duyệt danh gia, lẽ đâu dám lấy sự tình riêng mà kết giao đối đãi. Vậy xin chớ lấy sự luân thường lễ nghĩa, mà xem dường một chuyện dỡn mận chơi đào, và chớ tưởng sự trộm phấn mến hương mà mang đều tội lỗi. Còn như Quan-nhơn đem sự tình nặng nghĩa sâu mà tưởng đến phận đào thơ liễu yếu ; thì tôi rất cảm tạ muôn vàn, nhưng mà việc trăm năm tơ tóc, thì chờ cha mẹ định đôi, tôi dám đâu hứa chắc cùng Quan-nhơn, vậy e lỗi niềm tử-đạo, vả lại Quan-nhơn cũng rõ biết rằng: anh tôi cùng Quan-nhơn, đương lúc cầm lòng thù hận, nằng nằng thệ chẳng chung trời, còn cha tôi thì còn ở Trung-kỳ, ấy là một sự trắc trở phi thường, dễ chi mà cậy lời mai ước. Vả lại những bực hồng nhan thục-nữ trong thiên-hạ, chẳng thiếu chi người, xin Quan-nhơn chọn những trang quốc sắc thiên tài, mà kết duyên cho xứng đôi vừa lứa, sá chi một phận liễu yếu đào thơ như tôi, mà phải nhọc lòng Quan-nhơn quyến luyến.”
Đông-Sơ nghe những lời Tiểu-thơ đối đáp, dường như ruột héo gan xào, rồi nét mặt dàu dàu, làm cho nghẹn lời mà không nói đặng. Kế đó thể-nữ bưng trà lại mời, Đông-Sơ uống hết một chung, rồi day lại mà nói rằng: “Tiểu-thơ ôi! Tiểu-thơ vẫn là con nhà thi lễ, phẩm giá thơ hương, đã bác lãm quần thơ, thông tri kim cổ, Tiểu-thơ lẽ nào chẳng nhớ người xưa có nói câu rằng:
Minh quân lương tế tao phùng dị,
Tài tử giai nhơn tế ngộ nan.
Tiểu-thơ ôi! Tiểu-thơ nghĩ đó mà coi, những bực minh quân lương tướng gặp nhau cũng chẳng khó gì, chí như tài tử với giai-nhơn thì dễ chi gặp nhau cho xứng đôi vừa lứa đặng. Nay Tiểu-thơ và tôi dẫu rằng chưa phải bực tài-tử giai-nhơn, song cũng một phẩm thuyền-quyên với một trang tuấn kiệt, ấy cũng một đều lương duyên may mắn, có mấy khi mà gặp hội tao phùng. Tiểu-thơ nghĩ đó mà coi, đá nọ thì dễ tìm, chớ ngọc kia tôi e khó kiếm, nếu Tiểu-thơ dầu đành hẹp lượng, mà chẳng tưởng đến sự nghĩa nặng tình thâm, chẳng là tội nghiệp cho lòng tôi mến ngọc thương hương bấy lâu, và cũng uổng cho cái công cực khổ tôi rày ước mai ao, trông cho gặp Tiểu-thơ mà gắn bó một lời tơ tóc.
Tiểu-thơ ôi! vả tôi nay cha mẹ đã sớm về cõi thọ, còn anh em thì tứ cố vô thân, tôi cũng ước ao cho gặp đặng một thục-nữ giai-nhơn, đặng mà chung hưởng sự vinh hoa phú quí, cho tử ấm thê phong, thì mới toại chí bình-sanh, và phỉ tình sở nguyện. Nếu như tôi vô duyên xấu phước, mà khiến cho Tiểu-thơ chẳng đoái tình thương ; thì tôi xin tỏ thật một lời: những sự công danh phú quí trong đời nầy, tôi chẳng cần chi cực khổ mà ràng buộc nơi lòng, những sự huê mĩ phiền ba trong thế gian nầy, chẳng hề làm cho tôi động lòng khoái mắt, những sự ăn sung mặc sướng, mĩ vị cao lương, chẳng hề làm cho tôi biết ngon ngọt béo bùi, những sự cửa tía lầu son, huê bào ngọc đái, chẳng hề làm cho tôi đặng đẹp lòng hứng chí, cái cảnh thanh lịch của võ trụ san hà nầy, chẳng hề làm cho tôi đặng tiêu sầu khiển muộn, tiếng nhạc ca tao nhã nơi cầm đài hí viện, chẳng hề làm cho tôi đặng khuây lãng tâm thần.
Tiểu-thơ ôi! vậy tôi xin nói một lời rốt nầy cùng Tiểu-thơ, nếu trời khiến cho tôi chẳng đặng gần cái vẻ đẹp đẽ thanh tân của Tiểu-thơ, mà vui gối tình chung, thì tôi cũng liều bỏ cái thân danh tôi, cho nước chảy hoa trôi, bỏ cái duyên phận tôi cho mây tan bèo dạt. Và tôi nhứt nguyện rằng tôi sẽ ở vậy trọn đời, chẳng hề cùng ai vui tình can lệ.
Tiểu-thơ ôi! Vui chi vui vậy cũng là, ai tri âm đó mặn mà với ai.”
Đông-Sơ nói rồi đứng sững mà thở ra, còn xem sắc diện thì nhao-nháo buồn dàu, như cậu kép với cô đào, hát lối tử biệt sanh ly, mà làm mặt sầu bi thảm đạm.
Tiểu-thơ thấy vậy thì lần chơn bước tới cách yểu điệu khoan thai, lại đứng trước Đông-Sơ mà liếc cặp mắt hữu tình, như sao nam tinh nó chói ra nhấp nháng ; rồi miệng cười chúm chím, xem rất hữu duyên, môi đỏ hồng hồng, đẹp đẽ như bông mới nở, đó rồi nàng buông lời tao nhã vói hỏi Đông-Sơ rằng: “Thưa Quan-nhơn, chẳng biết những lời tôi tỏ với Quan-nhơn khi nãy, dường có đều chi thất lật, làm cho chít mít dạ người, nên xem sắc mặt không tươi, hay là có hờn trách đều chi mà sanh lòng phiền muộn phải chăng?”
Đông-Sơ nghe hỏi thì day lại đáp rằng: “Tiểu-thơ ôi! phiền là phiền số tôi xấu phước, mà khiến cho chẳng gặp người thương ; buồn là buồn chút phận vô duyên, khiến cho nói không người chịu!”
Tiểu-thơ nói: “Quan-nhơn ôi! Bây giờ đây tôi xin tỏ thiệt cùng Quan-nhơn, những đều tôi nói với Quan-nhơn khi nẫy là tôi muốn đem lời khó dễ, mà dọ thử lòng người đó thôi. Nếu như Quan-nhơn quyết lòng vầy duyên can lệ, cho trăm năm kết chặt chữ đồng tâm ; thì tôi cũng nguyện trọn nghĩa tóc tơ, dầu ngàn thuở cũng chẳng sai lời ước thệ.”
Đông-Sơ nghe nói thì lòng mừng khấp khởi, phút chúc mặt nở mày tươi ; rồi chúm chím miệng cười và day lại buông lời pha lửng mà nói: “Thật tôi trách Tiểu-thơ ở chi sâu sắc, sao không sớm chịu hứa lời ; để cho tôi nói nỉ non, nói đã hết hơi, còn buồn nhao-nháo buồn gần muốn chết.”
Tiểu-thơ nói: “Quan-nhơn ôi! việc sâu sắc tôi xin đừng vội trách, chuyện hơn thua người nghĩ đó mà coi. Nếu chẳng ra khơi thì sao rõ mặt biển rộng dài ; còn có gặp lửa mới biết tuổi vàng cao thấp, đa Quan-nhơn.”
Đông-Sơ nói: “Tiểu-thơ ôi! nếu Tiểu-thơ nói vậy, thì tôi xin trả lời lại vầy: việc rộng hẹp phải đo mới biết, còn chuyện thấp cao, chẳng thử sao tường. Tiểu-thơ cũng biết rằng: lẽ ấy vốn là lẽ thường, nhưng mà tôi e lắm đa Tiểu-thơ, e là e cho Tiểu-thơ nói mà chẳng chịu đo, dò mà chẳng chịu thử, đó thôi.”
Tiểu-thơ nghe Đông-sơ trả lời như vậy, bỗng nhiên hai gò má phấn đã rần rần máu đỏ, ửng ửng sắc hồng, và liếc mắt háy Đông-Sơ, rồi vội vã lấy khăn che mặt, còn miệng thì chúm chím mỉm cười miếng chi, rồi đứng cách yểu điệu phương phi, rõ ràng là một bực giai nhơn tuyệt sắc, thật là đẹp đẽ thay cho cái vẻ thiên kiều bá mị, của một gái thuyền-quyên như Tiểu-thơ, nó nhởn-nhởn, nhơ-nhơ, hiện ra trước mặt Đông-Sơ, làm cho khách chung tình nầy, rối ruột lộn gan, điên hồn lạc phách, mà đứng sững ngó trân, rồi cái ngọn lửa chung tình, nó phừng phừng lên trong lò tư dục, làm cho Đông-Sơ mắt đổ hào quang, như thấy một nàng Hằng-nga xuống mà đứng nhấp nháng nơi dưới bóng trăng, như thấy một dạng tiên-nữ kia đi khoan thai bên bóng đèn khuya leo lét đó vậy.
Thật là:
Lạ thay nết nói nết cười,
Nết sao dễ khiến cho người muốn điên.
(Đây tôi xin lẳng lơ hỏi thử liệt vị khán quan một ít lời, giả như liệt vị khán quan lại mà đứng nơi một địa vị của Đông-Sơ nầy, trong lúc trăng thanh canh vắng, mà gặp một cảnh tình thinh lịch như vậy, thì chẳng biết liệt vị khán quan sẽ cử động ra thế nào hè? thế thì tôi tưởng cho chư vị khán quan cũng như tôi.
Chẳng những: Điêu lòng Dân-tử năm canh nguyệt,
Mà cũng: Bấn ruột tường-khanh mấy đoạn tình.
Đó rồi Đông-Sơ buông lời nhỏ-nhẻ, lấy giọng lẳng lơ, mắt liếc Tiểu-thơ, rồi mỉm cười và nói: “Tiểu-thơ ôi! nay tôi muốn đổi cái tiếng Tiểu-thơ, mà kêu lại bằng Tình-khanh cho dễ nghe, ước có được chăng?”
Tiểu-thơ nói: “Còn tiếng Quan-nhơn ấy chẳng biết đổi lại mà kêu bằng chi?”
Đông-Sơ nói: “Tự ý Tình-khanh, muốn kêu Đông-Sơ hay là Tây-Sơ chi cũng đặng, song tôi xin đừng kêu bằng Đông-Yên mà tôi thành ra điên-ông tội nghiệp!”
Tiểu-thơ mỉm cười và nói: “Mới gần gần mà thôi, chớ chưa đâu phòng sợ.”
Đông-Sơ nói: “Tình-khanh ôi! trong lúc trời khêu sao tỏ, gió rượt mây bay nầy, xin Tình-khanh bước ra hoa-viên đặng xem trăng chơi cho mát.” Đó rồi, Tiểu-thơ khoan thai bước ra hoa viên. Hai người đi thơ thẩn nhởn-nhơ, khi thưởng nguyệt lúc xem hoa, cười cười nói nói, cái tình cảnh xinh đẹp mặn nồng nầy, chẳng biết bao nhiêu mà vẽ cái tình trạng thanh tao thân-ái ra cho đặng.
Đó rồi Đông-Sơ day lại nói với Tiểu-thơ rằng: “Tình-khanh ôi! tôi có nghe rằng đêm xuân một khắc, giá đáng ngàn vàng, nay đã đành cho phụng nọ dựa kề loan, nhưng mà, chưa biết chừng nào mới đặng sắt cầm hòa rập nhịp? Bấy lâu tôi những ước ao cho lứa xứng lứa, như nhành giao lá tiếp, duyên phải duyên, cho đẹp dạ vui lòng, rày gặp cơn gió mát trăng trong, đâu lẽ nỡ phụ lúc canh tàn đêm lụn, thì uổng lắm a Tình-khanh.”
Tiểu-thơ nói: “Thưa Tình-quân, đôi ta đã hứa cùng nhau một lời rằng: trăm năm tơ tóc, thì phải đợi kỳ sính-lễ thành hôn, rồi sẽ hoa chúc động-phòng, cho rõ ràng lương-duyên giai-ngẫu, vậy trước đã đặng đẹp lòng cha mẹ, trong khi dưỡng dục sanh thành, vậy mới gọi là đền đáp chút nghĩa nặng tình thâm, cho kẻ áo cơm bồng ẵm. Kẻ ấy là kẻ đã chịu nhọc nhằn mà săn sóc cho chúng ta. Ngày nay đặng khôn lớn trưởng thành, chỉ mong định lứa sánh đôi cho chúng ta, rồi mới đành lòng đẹp dạ, nay nếu chúng ta ham sự vui riêng một chút, mà quên đều công nặng ơn dày, rồi nghĩ đến duyên phận ngày sau, thì tôi e cho ăn năn mà lại nhột lòng hổ thẹn. Chẳng những là phận gái như tôi đã lỗi niềm hiếu đạo với kẻ dưỡng dục sanh thành, mà lại làm cho dơ lấm lu-lờ cái ánh gương trinh bạch với Tình-quân sau nữa.
Tình-quân nghĩ đó mà coi, lẽ đâu chúng ta dám đem cái nghĩa tơ tóc trăm năm, mà đổi lấy cái tình trăng hoa một thuở. Vậy tôi e chẳng khác chi đem cái phẩm giá gương trong ngọc trắng của nhà quí tộc danh gia, mà đổi ra bướm mận ong đào, đổi ra thói đồi phong bại tục của đám hạ lưu nam nữ, nếu con người mà chẳng biết trung trinh tu ố, thì sao rằng thục-nữ thuyền-quyên! Phận gái mà chẳng giữ tiết hạnh chính chuyên, thì ai cần chi mà nể vì yêu chuộng.
Tình-quân ôi! Nay tôi lén đem sự trăm năm duyên phận mà hứa trước với tình quân đây, thì cũng là một đều tội lỗi cho tôi rồi, song tôi nghĩ vì cái ơn của tình-quân cứu tử hoàn sanh cho tôi trong khi Quan-âm-các, ơn ấy rất trọng như ơn của kẻ dưỡng dục sanh thành tôi ra đây, vì vậy nên tôi cam lỗi với cha mẹ tôi mà chịu trao duyên gởi phận cho Tình-quân đặng ngày sau kết nghĩa phu thê, mà đền ơn tri ngộ.
Vậy xin Tình-quân chẳng nên nài hoa ép liễu mà cho tôi thất hiếu thất trinh, thì ngày sau tôi còn mặt mũi nào mà ngó Tình-quân trong lúc giao chén phòng hoa, chung tình nệm gối.”
Đông-Sơ nghe mấy lời rất từ nghiêm lý chánh, thì lại càng đem lòng yêu mến kính vì, và thầm khen cho Tiểu-thơ đáng một phẩm hạnh thuyền-quyên, phải một người cầm quyền tề gia nội trợ, rồi nói:
“Tình-khanh ôi! những lời tôi nói trước đó, là nói thử Tình-khanh, cũng như Tình-khanh nói thử tôi khi nãy vậy ; chớ lẽ đâu tôi chẳng biết chuyện nghịch lý tồi phong mà ép nài Tình-khanh vào vòng tội lỗi. Vậy nay hai ta đã thuận tình hiệp ý, thì xin để một vật chi gọi chút lòng tin rồi đình đãi ít ngày sẽ tính cậy lời mai ước.”
Đông-Sơ nói rồi liền lấy một chiếc nhẫn, nhận ngọc oan ương, trao cho Tiểu-thơ, còn Tiểu-thơ cũng cổi chiếc ngọc xuyến kim cang, đưa cho Đông-Sơ để làm kỷ-niệm. Mảng đương trò chuyện, trống đã sang năm, trăng xế đài tây, nghe đã canh gà dục thúc. Đó rồi hai người từ giã, kẻ thì gởi lời trân trọng, rồi phăng phăng bước tới khuê phòng, người thì tỏ ý ân cần, rồi cũng vội vã trở về lữ-quán.