← Quay lại trang sách

Hồi Thứ Hai Mươi Ba Bị trôi nổi một thuyền tuôn sóng gió ;-Gặp hiểm nguy, hai gái luận tinh thần.

Lúc nầy Triệu-Dõng đứng trên cồn đá kia, thấy chiếc ghe bị gió, bê lần ra khơi, lật lại nghiêng qua, trồi lên hụp xuống như bong-bóng, thì trong lòng lo buồn hồi hộp, kinh hãi xiết bao, nhưng chẳng biết tính sao, đặng lội theo mà tiếp cứu, còn Thu-Hà với Triệu-nương ở trên ghe đương ngẩn ngơ lính quính, lại thêm gió dập sóng dồi, phần thì lo sợ cho Triệu-Dõng đánh với tên kia, chẳng biết thắng bại thể nào, phần thì ghe càng ngày càng trôi ra xa, và sóng càng ngày càng lớn, lượn thì dựng lên trước mũi, dường như xốc đến mà chận ngã đón đường, lượn thì chồm tới sau ghe, dường như áp lại mà dựt bườm bẻ lái, nào là cá xà cá mập, vơ vơ vởn vởn lội theo bên ghe, nào là sức ngạc oai kình, vùng vẫy xung xăng, hả miệng trương vi, táp nghe bầm-bập, tuồng như nó đợi người sa cơ thất thế, đặng nuốt sống ăn tươi, ấy là một giống dị loại vô tình, thừa dịp mà hại người lương thiện.

Cái cảnh ngộ rất dữ dằn hung hiểm ấy, dẫu cho một đứng anh-hùng khí phách, cũng phải táng đởm kinh tâm, huống hồ hai gái liễu yếu đào thơ như Thu-Hà với Triệu-nương nầy, mà lại gặp lúc vạn trận cuồng phong, thiên trùng nộ lãng như vậy, thế thì cũng phải điên hồn não ruột, nhưng Thu-Hà đứng dựa khoang ghe một cách tỉnh tề dạn dĩ, rồi day lại nói với Triệu-nương rằng: “Chị em mình tuy là phận quần xoa nhi-nữ, song cũng biết lấy một tinh thần mạnh mẽ mà đối với cái cảnh ngộ hiểm nguy nầy cho dạn dĩ vững vàng, chẳng nên thấy cái cảnh ngộ dữ dằn ấy mà rúng động tâm thần, và để sự kinh hãi kia lừng lẫy lên mà làm cho xào gan héo ruột.

Những người như vậy là một người liệt nhược tinh thần, xác thịt chưa chết mà linh hồn đà chết trước là vậy đó, cái chết mà phải nhơn phải nghĩa, thì dám lấy sanh mạng mà liều với sông biển nước non. Song hiềm là hiềm việc chưa đáng chi, mà bởi vì một tôi, mạng vận đảo điên, làm cho hai anh em cô, phải mang đều hoạn họa, thì tôi sao nỡ yên lòng.”

Triệu-nương nói:

Xin Tiểu-thơ chớ ngại. Anh em tôi chỉ biết lấy sự phò nguy cứu nạn, tựu nghĩa thi ân, mà gánh vác nơi vai, làm một gia tài sự nghiệp, dầu cho vào sanh ra tử thế nào, cũng chẳng nao lòng núng dạ. Tôi xét lại cái cảnh ngộ hiểm nguy ấy là một chỗ nghiệt trường của tạo-hóa, để đem một trở lực rất khổ sở gian nan mà nộ những kẻ yếu vía nhát gan, và bại những người vận cùng mạng bạc ; song cũng là một chỗ cao-đẳng học-đường, để mà tập luyện cho dạn dĩ mạnh mẽ cái chí khí tinh thần của kẻ anh-hùng cùng người liệt-nữ trong thế giới.

Vậy thì cái cảnh ngộ ngày nay đây, là một chỗ nghiệt trường của mạng vận, hay là một chỗ trường học của anh-hùng, thì xin phú cho tạo-hóa định phân, chí như sự chết mà được một nghĩa vụ với xã hội nhơn quần, thì tôi xem cái chết ấy dường như một mùi ngọt miếng ngon ; còn sống mà chẳng ích chi với non nước quê hương, thì xem cái sống ấy chẳng khác chi loài túi cơm giá áo kia vậy.”

Thu-Hà nghe Triệu-nương nói mấy lời thì ngạc nhiên rồi nói: “Tôi chẳng dè cô nương là một gái đào thơ liễu yếu mà nói đặng những lời có tư tưởng cao thượng và ý vị thâm trầm, dẫu cho đứng bực tu mi cũng ít người sánh kịp.

Thu-Hà đương nói chuyện vớỉ Triệu-nương, xảy thấy một lá bườm trắng trắng trong mé cù-lao ló ra, rồi phăng phăng chạy tới, thì hai chị em bèn châm châm mắt ngó, và trong lòng hồ nghi cho ghe của bọn Hoàng-nhứt-Lang rượt theo.

Khi chiếc ghe ấy gần tới, thì thấy 6, 7 người ra đứng trên mui ghe, song lúc ấy trăng bị mây án mờ mờ, nên không thấy rõ, bỗng nghe bên ghe ấy kêu lớn một tiếng và hỏi rằng:

“Tiểu-thơ và hiền muội bình yên vô dạng.”

Triệu-nương nghe hỏi thì biết anh là Triệu-Dõng song chẳng biết ghe ấy là ghe nào, kế thấy Triệu-Dõng bước ra chào mừng hớn hở và nói: “Khi tôi đương đứng trên cồn đá, may gặp chiếc ghe chạy ngang qua, tôi bèn xin ra đây mà tiếp cứu, ấy cũng một sự may mắn hồng phúc của chúng ta, bây giờ mới đặng chị em nhứt trường tụ hội. Nói rồi Triệu-Dõng liền nhảy qua ghe sửa sang bườm chèo tử tế, rồi thuận gió chạy vào Hải-ninh đặng dọ thăm tin tức Võ-đông-Sơ luôn thể.