Hồi Thứ Hai Mươi Bốn Chùa Tây-Hà thục-nữ tới hành hương,-Nơi lữ-quán oan gia theo nối gót.
Khi ra tới tỉnh Hải-ninh, Triệu-Dõng dắt Tiểu-thơ và em là Triệu-nương lên mướn một khách phòng sạch sẽ, rồi ba chị em ở đó nghỉ ngơi. Qua bữa sau, Thu-Hà nói với Triệu-Dõng rằng: “Cảm phiền Triệu quí hữu làm ơn đi kiếm giùm nhà dì tôi là Mã-thị Phu-nhơn coi ở đâu, đặng đến viếng thăm và có nơi đình trú cho phương tiện.
Triệu-Dõng vâng lời lật đật ra đi, chẳng dè Mã-thị đã theo chồng đi trấn nhậm phương xa, vì vậy nên ba người phải ở tạm tại lữ-quán ít ngày đặng lóng nghe tin tức Võ-đông-Sơ rồi sẽ toan bề tìm qua xứ khác.
Bữa nọ nhằm tiết Trung-ngươn, ngày rằm tháng bảy, tại mé Tây-hà có một cảnh chùa rất nguy nga tráng lệ. Nào là thiện nam tín nữ, nào là tài tử giai nhơn, xe ngựa nhộn nhàng, sắm sửa trà quả hương đăng, rủ nhau lăng xăng đến chùa, kẻ thì khẩn phước cầu duyên, người thì qui y thọ phát.
Thu-Hà thấy vậy thì nói với Triệu-nương rằng: Nay nhơn dịp ngày lành tháng tốt, chị em ta dắt nhau lên chùa, trước là bái phật hành-hương, sau là dạo xem phong cảnh cho giải muộn, đó rồi hai chị em mướn xe ra đi. Khi lên tới chùa lạy phật rồi ra hậu đường xem coi, bỗng thấy một bàn hương án sơn son thếp vàng rực rỡ, chính giữa để một bài vị, hương đăng nghi ngút, hoa quả tốt tươi.
Thu Hà liền bước lại xem, thấy trên bài vị có khắc một hàng chữ như vầy: “Đông-kinh nữ công tử Bạch-thu-Hà linh vị” thì thất kinh liền kêu Triệu-nương lại xem và nói: “Sự nầy cũng một sự rất lạ, chẳng biết cớ sao ai đem tên tôi vào đây mà thờ phượng như vầy?” Nói vừa dứt thì thấy một bên có khắc thêm một hàng chữ nhỏ rằng: “Ngự lâm quân Đô-úy Võ-đông-Sơ phụng lập.”
Thu-Hà với Triệu-nương ngó nhau sững sờ chẳng biết cớ sao mình còn sống đây, mà Đông-Sơ lại lập bài vị tên mình mà thờ, cũng là một đều rất lạ?
Triệu-nương nghĩ một hồi rồi nói: “Vậy thì chắc là Võ-đông-Sơ tưởng Tiểu-thơ thác rồi, nên mới lập bài vị nơi chùa đặng để làm kỷ niệm, và tam ngươn tứ quí thờ phượng Tiểu-thơ, nếu Tiểu-thơ muốn rõ căn do, xin hỏi Đạo-trưởng thoàn-sư chùa nầy thì biết.”
Kế thấy một vị thoàn-sư phía kia đi tới rồi lại trước Hương-án, đánh ba tiếng chuông và đốt hương khấn vái.
Thu Hà bước tới và hỏi: “Bạch quả thoàn-sư, chẳng biết Bạch-thu-Hà trong bài vị nầy là ai, và sự tích làm sao, xin thoàn-sư nói cho tôi rõ.”
Thoàn-sư nói: “Tôi đây chẳng rõ, song cách một tháng nay, có quan Đô-úy Võ-đông-Sơ đến nói: “Nữ-công-tử Bạch-thu-Hà nầy là người ở Đông-kinh, đã nhảy xuống biển mà tự tử, nên xin lập bài vị nầy nơi chùa, và gởi tiền bạc cho chúng tôi, đặng mua sắm hương-đăng mà phụng tự.”
Thu-Hà nghe nói thì ngó Triệu-nương và gật đầu rồi day lại hỏi: “Vậy bây giờ đây thoàn-sư có biết Võ-đông-Sơ ở đâu chăng?”
Thoàn-sư nói: “Tôi nghe nói người đã đi tuần thú phía Nam-quan, chẳng biết chừng nào trở lại.”
Thu-Hà nghe rồi liền cám ơn thoàn-sư và dắt Triệu-nương trở ra trước chùa, đứng xem phong cảnh, xảy thấy trong đám đông kia, có một người đương đứng lom lom xỏ mắt châm chỉ ngó mình, thì sảng sốt hãi kinh rồi mặt mày liền tái xanh thất sắc. Xem như một đóa đào hoa đương tốt tươi rực rỡ dưới bóng dương quang, bỗng chúc nhụy xủ hoa tàn, hồng phai phấn lợt, rồi kêu Triệu-nương và nói: “Cô làm ơn vịn giùm tôi ra xe cho mau mau.”
Triệu-nương nghe kêu, liền bước lại nắm tay Thu-Hà, thì tay chơn đều lạnh. Triệu-nương thất kinh và kêu và hỏi: “Tiểu-thơ sao vậy Tiểu-thơ?”
Thu-Hà lắc đầu, và mắt ngó qua phía kia dớn dác và nói: “Cho mau, cho mau, vịn tôi ra xe một chút.”
Khi ra tới xe thì hối tên đánh xe giục ngựa chạy mau, còn mình dựa vào mui, một tay vịn xe, một tay chận ngang trên ngực, dường như bị chứng kinh tâm, trong ngực rất phập phồng hồi hộp.
Xe chạy một đỗi, Thu-Hà day mắt ngó lại phía sau, thì vùng la lên: “Biểu chạy cho mau, người ta theo, người ta theo kìa.”
Triệu-nương lấy làm lạ, chẳng biết ai theo liền day đầu ngó lại, thì quả nhiên thấy một người đương bươn bả theo sau, Triệu-nương liền hối tên đánh xe chạy đi cho kíp.
Khi xe về tới lữ-phòng, ngó lại thì người ấy đâu mất, đó rồi Thu-Hà xuống xe bước vào phòng, ngồi dựa nơi ghế, sắc mặt buồn hiu, dường như có việc tai biến xảy đến thình-lình, làm cho tâm thần đều hoảng hốt.
Kế Triệu-Dõng ngoài cửa bước vô thấy Thu-Hà mặt mày thất sắc, thì lấy làm lạ, lật đật bước lại và hỏi: “Thưa Tiểu-thơ, hôm nay Tiểu-thơ trong mình có đau chứng chi, thì xin nói, đặng tôi kiếm thầy thuốc thang điều trị.”
Thu-Hà lắc đầu và nói: “Không không, xin Triệu-hữu đừng rước thầy mất công, bịnh tôi ngày nay đây, dẫu cho thánh dược thần-y có đây, thế cũng vô phương điều trị.”
Triệu-Dõng nói: “Thưa Tiểu-thơ, hay là Tiểu-thơ có đều chi kinh hãi, mà cảm xúc nơi lòng, thời nói cho tôi rõ. Nếu tôi có thể phân ưu cùng Tiểu-thơ, thì dầu cho thiên lao vạn khổ, tôi cũng chẳng dám từ nan, nếu Tiểu-thơ chẳng chịu tỏ thiệt bày ngay, để khi đến việc, thì tính sao cho kịp.”
Tiểu-thơ nghe Triệu-Dõng nói vậy, thì tầm tư tự nghĩ một hồi rồi trả lời rằng: “Triệu-quí-hữu ôi! nếu Triệu-quí-hữu chẳng nài khó nhọc, thì xin làm ơn mau mau đem tôi qua xứ khác mà thoát thân, nếu ở lại đây, tôi sẽ bị người bức ép buộc ràng, và chắc tôi phải liều thân mà tự tử một lần nữa.
Triệu-Dõng nghe thì nhíu mày và lấy làm lạ rồi hỏi: “Ở đây thì sẽ bị người thúc ép? Mà xin Tiểu-thơ nói cho tôi rõ: Người bức hiếp ấy là ai?”
Thu-Hà nói: “Người bức hiếp ấy là người tôi mới gặp tại chùa Tây-hà, và rượt theo tôi khi nãy.” Nói tới đây thì dựt mình đứng dậy, dớn dác ngó mông, kế nghe tiếng giày lộp cộp ngoài cửa đi vô. Triệu-Dõng lật đật bước ra coi ai, thấy hai người mặc đồ mã-kỵ xung xăng đi vào.
Triệu-Dõng liền bước tránh qua phòng kia, đứng núp rình coi, thấy hai người ấy bộ tịch băng xăng đi thẳng tới phòng Thu-Hà thì dừng chơn đứng lại, rồi cả hai dắt nhau bước vô. Thu-Hà ngó ra thấy người bước vô trước thì thất kinh, té ngồi xuống ghế, rồi ngó lại thấy người bước vô sau là người gặp nơi chùa, thì càng sững sờ và mặt mày thất sắc.
Triệu-nương chẳng biết người trước là ai, song thấy người sau thì tức thì nhìn biết là người rượt theo xe khi nãy.
Nguyên hai người nầy, một người là Bạch-xuân-Phương là anh ruột Thu-Hà, còn một người là Vương-Bích là người cưới hụt Thu-Hà khi trước.
Nguyên từ khi Bạch-thu-Hà từ hôn trốn đi, thì Vương-Bích và Bạch-xuân-Phương, dắt nhau đi tìm kiếm khắp nơi. Khi đi tới tỉnh Hải-ninh hai người đều vào lữ-quán thê ngụ.
Bữa nọ Vương-Bích lên chùa dạo xem phong cảnh, xảy gặp Bạch-thu-Hà thì vội vã rượt theo. Chừng thấy Thu-Hà vào khách phòng, thì lật đật trở lại thông tin cho Bạch-xuân-Phương hay, rồi hai người dắt nhau tới khách phòng mà kiếm.
Khi Bạch-xuân-Phương thấy Thu-Hà ngồi dựa trong phòng, liền bước vô lấy giọng nghiêm trang quở trách và nói:
“Thu-Hà, em sao rất tệ, làm cho bối rối đạo nhà. Cớ sao nửa đêm lén bỏ ra đi, mà chẳng chịu vầy duyên cùng Vương-Bích? Trước đã chẳng tuân theo lời gia-huấn, sau là chẳng kể đến luật quan trên, vả lại mình là con nhà trâm anh vọng tộc, mà đem thân lưu lạc giang-hồ, như một đứa hạ tiện nữ lưu kia, thì còn chi gọi rằng một gái khuê-môn danh giá? Nay đã có Vương-Bích đây, vậy em phải trở về mà vầy cuộc nhơn-duyên, trước là việc hôn phối sẽ đặng hoàn-thành, sau là tránh tiếng thiên hạ người chê bai nghị luận.”
Thu-Hà nghe anh nói vậy, thì sắc mặt buồn rầu, và trả lời rằng:
“Thưa anh, xin anh chớ nhọc lòng ép buộc, vì em đã quyết ý từ hôn, em nay cũng như bát nước đổ đi, lẽ nào còn toan bề hốt lại thì sao đặng.”
Vương-Bích thấy Thu-Hà chẳng chịu, thì bước tới và nói rằng:
“Xin Tiểu-thơ hãy hồi tâm xét lại, rồi nghĩ đó mà coi, việc hôn nhơn là một việc đại sự trong đạo cang thường, chớ chẳng phải như việc tầm thường nhỏ mọn. Vả lại khi cưới gả thì đã có quan viên thị chứng, hai bên thân tộc rõ ràng. Và có sính lễ hôn thơ, tôi còn giữ đây để làm bằng cớ. Nếu Tiểu-thơ quyết ý từ hôn chẳng chịu, thì thì tôi phải kiêm tương nội vụ mà đầu cáo cùng quan trên. Chừng ấy tôi e cho Tiểu-thơ chẳng những là bị tội bội ước đào hôn, mà Bạch-công-tử đây là anh của Tiểu-thơ cũng chẳng tránh khỏi tội đồng mưu liên lụy đó nữa. Tiểu-thơ là người thông minh hào mại, lẽ đâu chẳng rõ pháp luật triều đình, xin Tiểu-thơ hãy thẩm đoán trầm cơ, nếu để cho tồi bại gia-phong, thì còn chi là danh giá của con nhà trâm anh vọng tộc.”
Vương-Bích nói rồi, thò tay vào túi lấy tờ tập-nã đưa ra. Thu-Hà thấy tờ tập-nã có chữ quan phê, thì thất kinh và tự nghĩ rằng: “Nếu mình để cho người bất bình sanh sự, một mai kiện tới quan trên, thì ra việc tồi bại gia-phong, và anh mình với mình chẳng khỏi mang đều tội lệ.” Nghĩ vậy rồi cái lòng kinh nghi nó đánh giặc với trí khôn, làm cho nét mặt hồng nhan đã hiện ra một vẻ thảm đạm ưu sầu, và hai tròng thu ba đã rưng rưng giọt lệ, kế đó Bạch-xuân-Phương tiếp nói: “Vậy thì em phải sắm sửa đi theo hai ta, nếu cưỡng lý bất tuân, thì lập tức ta phải mượn phép quan trên trừng trị.” Nói rồi bước ra kêu tên quán, biểu đi mướn một cỗ xe ngựa cho hẳn hòi, đặng chở Thu Hà qua Thái-khê là chỗ của Vương-Bích và Bạch-xuân-Phương thê ngụ. Chỗ ấy xa cách tỉnh thành chừng 50 dặm.
Một hồi lâu, nghe tiếng ngựa xe rần rần chạy tới, thấy hai người ngồi trước cỗ xe, một người mặc đồ xanh, và một người đầu đội một cái nón ngựa sụp xuống phủ mặt, và vai choàng một áo tơi đặng để che mưa.
Bạch-xuân-Phương ra hỏi: “Ngựa ấy chạy hay không?”
Tên đánh xe kia nói: “Thưa Quan-nhơn ngựa nầy hay lắm.”
Bạch-xuân-Phương thấy ngựa vạm vỡ thì bằng lòng rồi vội vã trở vô biểu Thu-Hà ra xe tức tốc.
Triệu-nương thấy Thu-Hà ra xe, thì lật đật bước ra, ngó xem tứ phía, có ý kiếm anh là Triệu-Dõng, nhưng chẳng thấy Triệu-Dõng ở đâu, còn Thu-Hà thì bịn rịn Triệu-nương, chẳng chịu rời nhau, vì vậy nên Triệu-nương cũng phải lên xe đi theo, đặng chị em giúp đỡ nhau trong lúc hành trình cho có bạn. Còn Vương-Bích với Xuân-Phương hai người đều cỡi ngựa chạy theo sau xe mà hộ tống Tiểu-thơ.