Hồi Thứ Hai Mươi Năm Cơn lận đận tai qua rồi họa tới-Lúc thình-lình, nghĩa cũ gặp tình xưa.
Lúc nầy trăng sáng mờ mờ, mưa tro pháy pháy. Thu-Hà với Triệu-nương ngồi trong than thở, và sắc mặt dăng phủ một lớp màn sầu, lớp thì lo cho Triệu-Dõng chẳng biết đi đâu, lớp thì thương cho Triệu-nương vị nghĩa theo mình, mà phải anh em phân rẽ, ngoài trước thì hai tên đánh xe làm thinh lẳng lặng, chỉ lo giục ngựa chạy mau, trong lúc đường vắng canh khuya chẳng nghe chi lạ hơn là nghe những tiếng vó ngựa nó hòa với tiếng bánh xe, bỏ vận kịch kịch re re, chạy nghe rần rần rột rột, làm cho khách hồng nhan lạc bước, nghĩ tới khúc biệt hận ly sầu, thì ngơ ngẩn về đâu, rồi giọt lệ chứa chan, mà phải hồn tiêu phách lạc. Chẳng bao lâu xe đã ra khỏi tỉnh thành, và phăng phăng thẳng vào đồng nội, quanh qua lộn lại, chạy ước hồi lâu, ngựa đã đổ mồ hôi mà đường còn xa thăm-thẳm.
Khi chạy tới mé rừng, bỗng thấy một cái quán ở dựa bên đường, tên đánh xe nói: “Xin để ngừng xe nghỉ ngựa, một chút cho khỏe rồi sẽ đi.”
Vương-Bích và Bạch-xuân-Phương cũng đều xuống ngựa và dắt lại cột trong nơi mé rừng, rồi cả hai vô ngồi trong quán.
Nguyên hai người nầy là hai tay bợm rượu, đã quen theo cuộc tửu điếm trà đình, nên thấy trong quán có để ít hồ rượu ngon, hơi bay nức mũi, thì con trùng rượu trong bụng đã rọ rạy bò lên, làm cho hai cậu thấy rượu thì ngứa cổ bắt thèm, liền kêu tên quán biểu đem một hồ rót ra, rồi hai người chén tạc chén thù, và uống và chuyện trò rổn rảng.
Kế tên mặc áo tơi ngoài xe bước vô, lại trước hai cậu và nói: “Thưa nhị vị Quan nhơn, ngựa của nhị vị hôm giờ chạy mệt, vậy để tôi dắt ra sau, kiếm cỏ cho ăn, đặng nghỉ một chút cho khoẻ rồi sẽ đi cũng chẳng muộn.”
Vương-Bích nghe tên kia hỏi vậy, thì nói: “Ừ, được vậy thì tốt.” Nói rồi day lại uống rượu và đàm đạo với Bạch-xuân-Phương.
Tên mặc áo tơi kia lật đật lại mở hai con ngựa dắt ra phía sau rừng, rồi lấy roi dóc mỗi con một roi rất mạnh, hai con thất kinh nhảy sải vô rừng rồi chạy mất ; tên ấy liền trở ra xe nói nhỏ với Thu-Hà và Triệu-nương rằng: “Xin Tiểu-thơ và em ngồi cho vững, đặng tôi giục ngựa chạy mau, bây giờ phải tính kế thoát thân, dĩ đào vi thượng, thì mới khỏi.”
Hai cô nghe nói ngó lại, thấy tên ấy là Triệu-Dõng mà giả dạng mặc đồ theo mấy đứa đánh xe thì ngạc nhiên chưng hửng, Triệu-Dõng nói rồi liền nhảy lên ngồi trước cỗ xe, quất ngựa một roi, la chạy, ngựa ấy thình-lình bị quất một roi, thất kinh nhảy dựng hai chơn trước lên rồi mang xe vụt chạy.
Bạch-xuân-Phương và Vương-Bích đương ngồi chuyện trò uống rượu, bỗng thấy xe chạy, lật đật bước ra kêu xe, xe ngừng lại, ngừng lại.
Triệu-Dõng nghe kêu càng quất ngựa chạy mau, hai người kêu thôi rát họng, mà xe chẳng chịu ngừng, bèn chạy ra sau tính cỡi ngựa rượt theo, nhưng ngựa đã mất đâu chẳng thấy.
Hai người lính quính đương đứng ngơ ngẩn ngó mông một hồi rồi chạy tuôn vô rừng mà kiếm. Còn Triệu-Dõng ở trước xe, một tay cầm cương, một tay quất ngựa, xe chạy như bay. Tên đánh xe kia thấy Triệu-Dõng đánh ngựa thì nóng ruột nói: “Thôi anh, thôi anh, gò cương cho chạy chậm chậm kẻo đường sá tối tăm, nếu rủi ro đụng hố sụp hầm, ắt chúng ta phải gãy tay lọi cẳng.”
Triệu-Dõng nói: “Không sao phòng sợ, ta biết cỡi ngựa cầm cương, có hề chi mà mi ngại”, và nói và quất ngựa trót trót, rồi day lại kêu Tiểu-thơ và nói: “Xin Tiểu-thơ và em ngồi cho vững.”
Thu-Hà thấy Triệu-Dõng giả dạng và thiết kế mà cứu mình, thì khấp khởi mừng thầm, nhưng còn sợ một nỗi hai người kia rượt theo, nên và ngồi và day lại ngó chừng đàng sau, mà trong lòng rất phập phòng hồi hộp.
Khi ra khỏi rừng rồi, thì trời trong trăng tỏ, hai bên đường thì bụi cây lúp xúp triền núi thấp cao, chạy đặng một đỗi xa xa, xảy thấy một cây đại-thọ sùm sề, và đường phân ba ngã ; một ngã chạy qua Nam-quan, còn một ngã chạy qua phía Tây-bắc. Triệu-Dõng đứng trước cỗ xe ngóng coi một hồi rồi nói: “Nếu chúng ta chạy ngã đại lộ Tây-bắc thì đường sá dễ đi, song sợ Vương-Bích và Xuân-Phương rượt theo, vậy phải chạy qua ngã Nam-quan ; đặng kiếm chỗ mà an thân đào nạn thì mới tiện.”
Tên đánh xe kia nói:
“Trời ôi! đường qua Nam-quan, bụi bờ gay trở, rừng núi hiểm nguy lắm, nếu đi đường đó thì ắt xe gãy ngựa què, gia tài tôi có con ngựa với cái xe, để mà độ nhựt kiếm ăn, nếu anh biểu đi đường nầy, đặng hại tôi cho chết đói sao? Tôi không đi đâu.”
Triệu-Dõng nghe nói nổi xung, trợn mắt lườm lườm như khu chén, ngó tên đánh xe kia và nói: “Xe mi đã cho ta mướn, thì ta đặng phép làm chủ trong lúc hành trình, ta biểu sao mi phải nghe vậy, nếu mi nghịch ý chẳng tuân ta đạp mi xuống xe cho cọp ăn, chừng ấy mi đừng oán trách.” Nói vừa dứt, bỗng thấy trong bụi cây lúp-xúp, ló ra hai ngọn đèn nhắp nháng sáng lòa, hồi đầu còn thấy xa xa, phút chúc đã lần lần đi tới.
Triệu-nương bèn kêu Triệu-Dõng và chỉ và la: “Anh, anh, đèn nhà ai lấp ló trong bụi kia cà, hay là đèn ma nó hiện ra đó vậy?”
Triệu-Dõng với tên đánh xe vừa ngó lại, thì thấy hai ngọn đèn ấy quả thiệt lần lần đi tới, kế nghe rống lên một tiếng giậy đất vang rừng, chừng ấy mới biết hai ngọn đèn đó là hai con mắt cọp, nó phóng xạ hào quang nên chiếu ra như đèn thiệt kia vậy, tên đánh xe kia thất kinh la lên: “Trời ôi! Cọp cọp kia kìa” và nói và run như thằn-lằn đứt đuôi. Thu-Hà và Triệu-nương cũng đều kinh hãi.
Triệu-Dõng nói: “Có tôi đây không sao phòng sợ”, kế con ngựa nghe oai cọp rống, thì hoảng hồn vụt chạy như bay.
Triệu-Dõng đứng trước cỗ xe, hai tay nắm cương và nói: “Tiểu-thơ và em ngồi cho vững”, nói rồi day lại hai tay gò cương chừng nào, thì con ngựa càng nhảy rột rột chừng nấy, còn xe thì lắc lại nghiêng qua, vồng lên sụp xuống như tuồng muốn lật.
Tên đánh xe kia hoảng vía kinh hồn, mặt mày tái lét, kế cây gọng xe bên hữu sút ra, một đầu rớt xuống lòng thòng dưới đường, đụng đất nghe khua lốp bốp. Con ngựa bị cây gọng lớp đập vào hông, lớp va vô cẳng, hoảng kinh ngóng cổ ngay đui rồi nhảy nghe vụt vụt như tên bay. Hai cánh tay Triệu-Dõng mạnh mẽ như thần, nhưng gặp nhằm con ngựa nầy là ngựa tơ, vóc dạng lớn cao, sức lực rất nên hùng tráng, chẳng kể yên cương, không kiêng kiều khấu, nên Triệu-Dõng gò cương trì lại chừng nào, thì càng lôi xe lướt bánh mà chạy chừng nấy, hai bàn tay Triệu-Dõng bị nắm cương kềm thúc, đã mỏi rục phồng da, và nóng hực như lửa, miện`g thì kêu tên đánh xe kia, biểu coi chừng, kẻo đứt dây lôi, song tên kia sợ té, hai tay nắm xe chắc cứng, còn miệng thì la chết chết như gõ thoi.
Thu-Hà và Triệu-nương trong xe thấy vậy cũng hoảng kinh, song hai người đều nống trí dằn lòng, lẳng lặng làm thinh, để cho Triệu-Dõng tỉnh tề đặng lo mà kềm chế con ngựa.
Lúc nầy ngựa đã chảy mập miếng mập mồm, và mình thì đổ mồ hôi như tắm. Bỗng nghe Triệu nương kêu “Anh anh, phía sau có người ta cỡi ngựa rượt theo kia kia.”
Triệu-Dõng nghe nói ngó lại, thì thấy xa xa quả có hai người đương giục ngựa chạy tới như dông.
Thu-Hà thất kinh kêu Triệu-Dõng và nói: “Trời ôi! nếu anh tôi và Vương-Bích rượt theo, thì chúng ta ắt không thế gì mà trốn khỏi.”
Triệu-Dõng nói: “Xin Tiểu-thơ chớ lo, tới đâu hay đó”. Kế thấy trước đường có một cái cầu bắc ngang qua sông, hai đầu cầu có xây bốn cây thạch trụ.
Triệu-Dõng bèn ráng sức gò cương đặng nhắm thế qua cầu, song gò cương chừng nào, thì ngựa cũng nhảy rột rột như giông chừng nấy. Triệu-Dõng thất kinh và tự nghĩ rằng nếu ngựa nhảy như vầy, thì qua cầu ắt có rủi ro nguy hiểm lắm, nhưng đương lúc tâm thần rối loạn, chẳng biết tính sao, chỉ lo sửa ngựa kềm cương, rồi đánh liều nhắm ngay giữa cầu mà chạy, và kêu Thu-Hà với Triệu nương biểu phải vịn xe cho chắc, hễ nghe la nhảy thì nhảy cho mau, còn phía sau hai người cỡi ngựa rượt theo, rần rần chạy tới, bỗng nghe tiếng kêu vẳng vẳng sau xa: “Xe xe, ngừng lại, ngừng lại.”
Thụ-Hà thấy cái cảnh ngộ rấp tới sau lưng, và cái tiền đồ hung hiểm trước mắt, thì ngồi trong xe mà thầm than rằng: “Trời ôi! cái cảnh ngộ gì mà bức trắc dan nan như vậy, trước thì có sông cầu cản trở, sau lại thêm người ngựa rượt theo, chẳng biết cái thân nầy có tội lỗi chi với tạo-hóa thiên công, nên ngày nay khiến cho nợ oan gia nó cứ theo mãi mãi.
Ớ ngựa kia ôi! ta cùng mi vốn không thù hận, cớ sao mà mi sanh chứng ác nghiệt dữ dằn? Mi chạy đi đâu mà chẳng kể bờ bụi yên cương? Mi chạy đi đâu mà chẳng kể tiền đồ nguy hiểm đó vậy? Hay là mi quyết đem ta mà bỏ vào chốn cùng đồ tuyệt mạng, hay là mi quyết đem ta mà xô vào nơi vực thẳm sông sâu đó chăng? nên mi vội vã lướt dặm băng ngàn, mà nhảy không ngừng vó, đó vậy?”
Thu-Hà than vừa dứt lời, thì thấy ngựa và xe đã nhảy lấn lên cầu, kế nghe bánh xe đụng vô trụ đá cái rầm, Triệu-Dõng la nhảy một tiếng rất lớn, thì xe và ngựa đã nhào lăn xuống sông, xe văng một nơi, ngựa trôi một phía.
Ôi! thảm thay cho Thu-Hà với Triệu-nương là hai gái, mình hạc xương mai, thân bồ vóc liễu, mà gặp một tai nạn rất dữ dằn xảy đến thình-lình, như sấm nổ sét văng, thì nghĩ sự chết sống con người, xem nhẹ như mảy lông, và lẹ dường nháy mắt.
Ôi! thảm thiết thay cho Thu-Hà là một gái giai nhơn tuyệt sắc, mà bị cái thời ma vận quỉ, nó cứ đeo đuổi xui dục vào chốn biển nghiệt thành sầu, nó khiến cho gặp cái trở lực rất khốn khổ đảo điên, gặp một cảnh ngộ rất gian truân hung hiểm, lúc dưới biển thì bị sóng dồi gió dập, khi lên bờ thì bị cản trước ngăn sau, thương cho chút phận thơ đào, mới lên khỏi biển lại nhào xuống sông! nên sách Tàu có câu rằng:
Ốc lậu cánh trùng liên dạ vũ
Thuyền trì hựu ngộ đã đầu phong.
(Nghĩa là nhà dột lại gặp mưa rào, ghe chậm lại gặp gió ngược)
Trong lúc tai lâm nạn chí, phách lạc hồn phi, kế hai người cỡi ngựa rượt theo vừa tới, bỗng thấy phía trước xe ngựa đều té nhào xuống sông, thì thất kinh giục ngựa sải đến như bay, chừng tới đầu cầu thấy một người té trên động cát, còn một người đương chới với giữa sông, người cỡi ngựa ấy tức thì nhảy xuống lội ra, vớt đem vô bờ, và day lại nhìn mặt xem coi, thì sửng sốt tâm thần, và rất nên kinh dị, rồi một tay ôm người ấy để trên đầu gối, còn chơn kia thì quì xuống bãi cát và la lên rằng:
“Ủa nầy Bạch-thu-Hà phải chăng? Ủa nầy Tình-khanh phải chăng? Thu-Hà nào đã trầm thân tự tử? Còn Thu-Hà nào nay lại gặp đây?”
Thu-Hà nghe hỏi dựt mình, ngó lại thì cái trí mơ màng kinh sợ khi nãy làm cho nàng ngơ ngẩn như giấc chiêm bao, rồi tức thì la lên: “Ủa Võ-đông-Sơ! ủa Lang...” tới đây muốn kêu Lang quân thì ngập ngừng mà nín lại, rồi liền chờn vờn đứng dậy, lấy tay xô Đông-Sơ dang ra, và nét mặt lộ ra một cách rất lơ là buồn bực, dường như một người nguôi lòng rủn chí, bạc ước vong tình, rồi cúi mặt làm thinh, chẳng nói chi hết.
Kế Triệu-Dõng dưới nước trồi lên, thấy thì tưởng Bạch-xuân-Phương với Vương-Bích nên lật đật bươn bả lội vô, chừng lại gần thấy Võ-đông-Sơ thì mừng quính và la lên rằng: “Ủa Võ-ân-huynh, ân huynh ở đâu rượt tới thình-lình, làm cho tôi thất kinh, tưởng Bạch-xuân-Phương nên đánh xe chạy hoảng.”
Đông-Sơ thấy Triệu-Dõng và Triệu-nương thì mừng rỡ chào hỏi lăng xăng và nói: “Tôi đi tuần vãng phía Tây-bắc trở về, dọc đường thấy xe, ngỡ là xe bọn gian nhơn, nên giục ngựa rượt theo, chẳng dè ngày nay chúng ta thình-lình mà đặng nhứt trường tụ hội, thì cũng là một cuộc rất hân hạnh kỳ phùng, làm cho những sự mơ tưởng ước ao bấy lâu, nay thoạt nhiên đổi ra một cảnh ngộ rất vui lòng toại chí.
Triệu-Dõng day lại Thu-Hà và hỏi: “Tiểu-thơ có hề chi chăng?”
Thu-Hà nói: “Không sao”, kế nghe phía bên đầu cầu có tiếng rên la, Đông-Sơ với tên bộ-hạ và Triệu-Dõng lật đật chạy lại coi ai, thì thấy tên đánh xe nằm dưới đầu cầu, hai tay ôm chơn và rên và nói:
“Trời ôi! thời vận mạt rồi, gia tài rụi hết, ý ôi! ai khiến cho tôi rủi ro đến thế, gặp chi cái mối ác nhơn, ý ôi! đã làm cho xe gãy ngựa què, mà còn bị quẹo tay lọi cẳng nữa chớ.
Trời ôi! tôi đã nói đường đi gay trở, mà còn một hai cãi sước chẳng nghe, may không chút nữa ngựa đạp xe đè, chắc phải dập sườn lòi ruột mà chết, ôi, ôi, hại tôi chi vậy, chuyến nầy tôi lãnh cái tay cán vá, với cái cẳng cà khêu nầy đem về mà báo hại vợ con, ắt nó chưởi nghe không hết.”
Triệu-Dõng nghe nói lật đật bước lại đỡ lên, thì thấy chẳng chi trọng bịnh cho lắm, duy thấy tay thì cong cong cán vá, cẳng thì nhắc nhắc cà khêu, lưỡi chắt chắt như thằn lằn, còn miệng la đau đau như seo-séo đó thôi.
Đó rồi Triệu-Dõng hỏi Đông-Sơ rằng: “Từ khi ân-huynh cách biệt đến nay, chẳng biết ân-huynh đi đâu, cho em rõ?”
Đông-Sơ nghe hỏi thì trả lời rằng: “Từ khi tôi phụng mạng tuần dương, dẹp yên hải khấu, rồi trở về gặp hiền-hữu tại sông Nhĩ-hà. Đó rồi về Đông-kinh dưng địa-đồ tỉnh Quảng-Đông cho Lê-công, chẳng dè gặp thơ-đồng trao thơ cho tôi, nói rằng Tiểu-thơ bị anh là Bạch-xuân-Phương ép gả cho Vương-Bích, nên Tiểu-thơ không chịu bèn trốn qua Hải-ninh. Lúc đó tôi tính qua Hải-ninh đặng tìm Tiểu-thơ. Kế có thánh-chỉ sai tôi đi tuần thú Nam-quan. Khi đi ngang qua Quảng-yên, nghe nói Tiểu-thơ lạc vào sơn-động. Vì vậy nửa đêm tôi lên thám sơn-động đặng tìm kiếm Tiểu-thơ.”
Triệu-Dõng hỏi: “Khi ân-huynh lên sơn-động gặp Tiểu-thơ không?”
Đông-Sơ nói: “Khi tôi lên sơn-động có gặp tên chủ sơn-động là Hoàng-nhứt-Lang. Người nầy cũng là một tay anh-hùng hảo hớn. Người bèn dắt tôi ra Thạch-đình đặng hội diện cùng Tiểu-thơ, chẳng dè Tiểu-thơ để lại một phong thơ nói rằng nhảy xuống biển mà trầm thân tự tử. Vì vậy tôi tưởng Tiểu-thơ đã thác, bèn đến chùa Tây-hà, thiết lập bài vị đặng để phượng tự Tiểu-thơ. Chẳng dè Tiểu-thơ còn sống mà ngày nay đặng gặp tại đây. Vậy thì chưa rõ duyên cớ thể nào, xin hiền-hữu thuật lại cho tôi nghe thử.”
Triệu-Dõng bèn thuật khi cứu Tiểu-thơ tại Thạch-đình rồi đưa thẳng qua Hải-ninh tìm dì mà không gặp, bèn vào lữ-quán đình trú, kế đó lại gặp Bạch-xuân-Phương và Vương-Bích bắt Tiểu-thơ lên xe chở đi. Vì vậy tôi phải thiết kế giả làm tên đánh xe mà cứu Tiểu-thơ thoát khỏi.
Đông-Sơ nghe rồi lấy làm mừng rỡ và cảm ơn Triệu-Dõng vô cùng. Rồi nói: “Cảm phiền hiền-hữu kiếm coi nhà ai gần đây, đặng dắt Tiểu-thơ và Triệu-nương tạm vào ngơi nghỉ một chút.”
Triệu-Dõng liền bước lên cầu ngóng xem bốn phía, xảy thấy có một cái nhà ẩn ẩn trong chòm cây, ở gần mé lộ, thì chỉ cho Đông-Sơ, đó rồi các anh em đều dắt nhau vào nhà gõ cửa.