Hồi Thứ Hai Mươi Sáu Bị thế bức chẳng nhìn lời thệ ước-Lấy lẽ công biện bạch nợ tình chung
Một lát kế cửa mở ra, thấy một lão-bà và một người gái trẻ, cầm đèn trong cửa bước ra, rảo mắt ngó xem mỗi người. Khi ngó tới Thu-Hà và Võ-đông-Sơ, thì người gái kia vùng la lên và nói: “Ủa cô, ủa Quan-nhơn”, rồi chạy lại ôm Thu-Hà và rưng rưng hai hàng giọt lệ.
Thu-Hà thấy thể-nữ Xuân-Đào, thì mừng và hỏi: “Sao mi ở đây? Và ở đây với ai?”
Xuân-Đào nói: “Từ khi tôi ở Thạch đình gặp Võ-quan-nhơn, nửa đêm đến đó kiếm cô, chẳng dè thấy thơ cô để lại thì tưởng cô có trầm thân tự tử nơi chốn vực thẳm biển sâu rồi, nên tôi theo Quan-nhơn về ở với mẹ tôi đây từ ấy đến nay, chẳng dè ngày nay cô cháu đặng trùng phùng, và đặng thấy Võ-quan-nhơn đây, thì mừng nầy biết sao mà nói đặng.” Đó rồi mẹ con Xuân-Đào mời các anh em vào nhà và dọn một phòng riêng cho Thu-Hà ngơi nghỉ.
Thu-Hà vô giường thì cúi mặt làm thinh chỉ ngồi thiêm thiếp, xem lại thì gương đào giã dượi, mày nguyệt nhăn nho, vì đương so đo một mối tơ tình, nó xăng xít bên lòng, không vò mà rối.
Kế đó Võ-đông-Sơ bước vô lại đứng một bên và nói: “Ái-khanh bây giờ trong mình thể nào? Sao xem sắc mặt có vẻ thảm đạm ưu sầu, hay là quí thể có đều chi chẳng yên, xin nói ra cho biết.”
Thu-Hà day lại thấy Đông-Sơ đứng kế một bên, thì lấy tay xô Đông-Sơ dang ra, rồi cúi mặt làm thinh, chẳng một lời chi đáp lại.
Đông-Sơ thấy vậy thì lấy làm lạ kỳ, rồi tiếp mà hỏi nữa: “Ái-khanh ôi! bấy lâu kẻ chơn trời người góc biển, biết bao nhiêu là tháng đợi ngày trông, nay hai ta đặng gặp nhau đây, lẽ thì chẳng xiết vui mừng, nhưng cớ sao ái-khanh lại nỡ làm thinh, mà chẳng tỏ một lời hơn thiệt? Thế thì ái-khanh đã quên những lời ngày xưa thệ ước, những lúc câu chuyện giọng tình, nên lẳng lặng làm thinh, mà tỏ rằng lòng kia lơ lãng đó chăng? Hay là ái-khanh đã quên cái người ôm ấp một khối chung tình từ ấy nhẫn nay với ái-khanh, rất thương yêu tríu mến đó chăng?
Ái-khanh ôi! ái-khanh hãy ngó lại mà coi, cái người ấy bây giờ đương đứng trước mặt một kẻ rất tríu mến thương yêu đây, và người ấy bây giờ đương đứng mà ao ước trông mong, một đều phối hiệp lương duyên cùng ái-khanh, không cơn nào mà nguôi lòng đổi ý cho đặng, người ấy bấy giờ đây là Võ-đông-Sơ, kìa ai là Thu-Hà thì xin đoái tình mà thương lại?”
Thu-Hà nghe rồi đứng dậy ngó Đông-Sơ cách lơ láo và trả lời rằng: “Tôi chẳng phải là ái khanh của người ấy, và cũng chẳng phải là Thu-Hà của Đông-Sơ đó đâu, những lời ngày xưa thệ ước, nay đã xem như bọt nước chảy dòng sông ; cái khối chung tình ngày xưa, nay xem như một bóng dương quang nó làm tan giọt tuyết, người ấy tuy bây giờ đứng đó, nhưng tôi chẳng dám gần, người ấy tuy bây giờ ở đây, nhưng tôi không nhìn đặng.”
Nóỉ tới đây liền lấy tay ôm ngực, và sắc mặt buồn xàu ; kế đám giặc nghi cụ ưu phiền lừng lẫy nổi lên, rồi đánh một trận với đám giặc ân tình trong trái tim, làm cho cả một tòa lương tâm đều phập phồng hồi hộp, đó rồi Thu-Hà mặt mày cháng váng, té xỉu nơi giường. Còn Đông-Sơ nghe mấy nhiêu lời, thì ngọn lửa phấn khích trong lòng, hực hực xung lên, làm cho héo ruột xào gan, rồi cả và mình đều rướm rướm mồ hôi, đổ ra như tắm.
Đông-Sơ ngó Thu-Hà sững sờ một hồi, và tầm tư tự nghĩ rằng: “Lạ thay, từ khi tri ngộ Thu-Hà tại hoa-viên đến nay, ta chưa hề có đều chi phụ nghĩa bạc tình cùng nàng, và cũng chẳng có đều chi làm cho nàng phiền lòng mích dạ, cớ sao nay lại buông lời lạt lẽo, xem ra như người đã bội nghĩa vong tình, hay là nàng đã gá cuộc nhơn duyên với nơi nào, nên mới nỡ muộn những lưỡi búa lời dao, đặng mà cắt đứt dây tình xưa nghĩa cũ đó chăng? Hay là nàng bị giang-hồ lưu lạc, đã nhiều phen họa dập tai dồn, làm cho nàng hoảng hốt tâm thần, mà ra kẻ kinh hồn lãng trí.”
Nghĩ vậy rồi bước tới và hỏi rằng: “Ái-khanh, tôi xin hỏi một lời: Khi tại sông Nhĩ-hà, ái-khanh có nhớ một người nào bơi thuyền cỡi sóng mà xông pha giữa chốn vạn trận phong đào, đem một sanh mạng mà liều với sông biển nước trời, chẳng kể cái cảnh ngộ hung hiểm gian nguy, chẳng kể cái tiền đồ cuồng phong nộ lãng. Chỉ biết lấy một lòng nhiệt thành ân ái, mà đối đãi với một kẻ yêu dấu tình nhơn trong lúc ngộ nạn lâm nguy. Nếu mà chẳng may bị lượn sóng vô tình nó chôn dập đã chốn trường giang, thế thì ái-khanh cũng phải cảm động lòng thương và nhỏ một giọt nước mắt ân tình, ngõ khóc cho kẻ vì mình mà phải chịu oan hồn uổng tử đó chớ? Nhưng may mà ngày nay cái sanh mạng của kẻ ấy hãy còn sống nơi cõi dương gian nầy và đương đứng trước mặt ái-khanh đây, là Võ-đông-Sơ, mà gắn bó kêu nài cùng ái-khanh một lời rất thiết yếu rằng: vì cớ nào mà ái-khanh chẳng tưởng đến lời non thề biển hẹn? Vì cớ nào mà chẳng nhìn đến kẻ nghĩa cũ tình xưa? Xin ái-khanh hãy tỏ hết cái tâm sự dấu diếm nơi lòng, và nói thiệt căn do cho tôi rõ, dẫu mà hai ta chẳng phải nhơn duyên trời định, khiến cho ái-khanh chẳng đoái tình thương, thì tôi cũng lấy một chí khí đại độ trượng phu, mà để cho người thong thỏa theo lòng sở dục. Còn như có đều chi bức ép hay là bị một thế lực mạnh mẽ nó buộc ràng, làm cho ái-khanh rủn chí phiền lòng, thì tôi sẽ hết sức gánh vác đởm đương chẳng để cho ái-khanh phiền lòng cực trí chi hết. Nếu ái-khanh chẳng tưởng mà nói rằng Thu-Hà chẳng phải là người tình-nghĩa của Đông-Sơ nầy, vậy thì Thu-Hà là người của ai? Xin hãy nói cho nghe thử?”
Thu-Hà nghe Đông-Sơ gạn hỏi mấy lời, thì nghĩ mà đau lòng ly biệt, xót ruột ân tình, làm cho thỉnh thoảng trên má hồng nhan, đã chứa chan hai hàng giọt lệ, rồi day lại mà nói với Đông-Sơ rằng:
“Bấy lâu tôi cũng ngỡ Thu-Hà nầy là một người vợ chưa cưới của Đông-Sơ ; chẳng dè ngày nay Thu-Hà thành ra một người vợ đã cưới rồi của Vuơng-Bích!
Bấy lâu cũng tưởng mượn bước giang-hồ lưu-lạc, đặng cho khỏi cái dây oan trái nó buộc ràng ; chẳng dè ngày nay cái kiếp đọa hồng nhan, nó chưa chịu nhả nhớm, buông tha, hãy còn đeo đuổi mà bắt vào tay bức hiếp.”
Đông-Sơ nghe rồi nhíu mày ngó sững Thu-Hà và hỏi: “Ái-khanh hãy nói cho tôi rõ: Vương-Bích ở đâu? và vì cớ nào mà ái-khanh gọi rằng vào tay bức hiếp?”
Thu-Hà nói: “Anh tôi và Vương-Bích mới gặp tôi nơi lữ-quán, nói rằng: Trong khi gả cưới, đã có hôn-thơ bằng cớ, và hai bên thân tộc rõ ràng, rồi chiếu tờ tập nã của quan phê mà nói rằng: tôi bị tội bội ước đào hôn, nên người và anh tôi tìm theo mà bắt lại, may nhờ Triệu-quí-hữu thừa cơ rồi giả kế mà cứu tôi trong lúc giữa đường, song tôi nghĩ dầu cho cao chạy xa bay, thì sớm muộn cũng chẳng khỏi vào tay oan trái đó nữa.
Vì vậy tôi nay còn gì mà gọi rằng một người tình nghĩa yêu dấu của Đông-Sơ, vì tôi đã bị làm một người bức ép buộc ràng của Vương-Bích”, nói rồi thì mạch nước mắt chung tình đã cuộn cuộn tràn ra, làm cho hai tròng thu ba phải dầm dề hột lụy.
Đông-Sơ nghe rồi thì tơ tình rối ruột, trán đổ mồ hôi, thật là một việc rất trắc trở khó khăn, dẫu cho ai thiết thạch tâm trường, gặp lúc như vầy, cũng phải sững sờ ngơ ngẩn, huống hồ Đông-Sơ là kẻ đã giao lời thệ ước, nặng gánh chung tình, lẽ nào nghe vậy mà chẳng xúc động tâm thần, bầm gan tím ruột.
Đó rồi Đông-Sơ làm thinh đứng sững, nghĩ nghị một hồi ; bèn day lại kêu Thu-Hà và hỏi: “Ái-khanh nói rằng Vương-Bích có chiếu tờ tập nã, và có dựng chứng hôn-thơ, nhưng chẳng biết trong giấy hôn-thơ, ái-khanh có ký tên hay chăng?”
Thu-Hà nói: “Tôi đã từ hôn chẳng chịu, lẽ đâu còn chịu ký tên?”
Đông-Sơ nói: “Nếu ái khanh thiệt chẳng ký tên, thì can chi mà ái khanh còn nghi ngờ lo sợ. Dẫu cho Vương-Bích quyết lòng ép buộc, mà đầu cáo cùng quan trên, thì ái khanh cứ thiệt khai ngay, quan trên cũng chẳng lý nào mà ép duyên chồng vợ đặng. Vả lại việc vợ chồng cưới gả, thì do nơi hai bên trai gái thuận tình, dầu cho cha mẹ cũng chẳng nỡ ép uổng việc nhơn duyên ; huống hồ anh em có quyền chi mà buộc ràng sự trăm năm tơ tóc. Nếu ái-khanh lòng còn nghi ngại, thì tôi xin Hoàng-thượng ngự bút tứ hôn cho hai ta, dầu cho Vương-Bích kiện tới thiên-đình, cũng chẳng làm chi hai ta cho đặng.”
Thu-Hà nghe mấy lời Đông-Sơ biện bạch, thì bao nhiêu những sự ưu sầu nghi cụ, chất chứa nơi lòng, tức thì chẳng đuổi mà tự nhiên tan đi, chẳng dầm mà tự nhiên tiêu mất, rồi đổi lại một tình trạng rất hân hoan vui vẻ, hiện ra một sắc diện rất đẹp đẽ mặt mày, mừng thay anh én gặp bầy, hết cơn ly hận tới ngày hiệp hoan. Cái mừng nầy nói ra khôn xiết, mà viết cũng chẳng hết lời, đó rồi Thu-Hà bước lại ôm Đông-Sơ mà thỏ thẻ giọng tình, và mừng và nói:
“Lang-quân ôi! Lang - quân sẽ xin ngự bút tứ hôn cho đôi ta sao? Vương-Bích chẳng làm chi hai ta đặng nữa sao?
Lang-quân ôi! Lang-quân ôi! Nếu mình chẳng hết lời phân trần cặn kẽ, thời tôi mảng bị một sự kinh hãi nghi sầu nó làm cho tôi rối loạn tâm thần ; mất cả trí khôn, hết đều tư tưởng chi nữa, đến đỗi gặp mà chẳng dám nhìn, xem dường một kẻ lãng hạnh vong tình, và một người ăn lời thệ ước kia vậy.
Lang-quân ôi! Nay tôi mới thiệt là Thu-Hà của Đông-Sơ, nay tôi mới thiệt là vợ chưa cưới của Đông-Sơ, chớ chẳng còn nghi ngờ lo sợ chi nữa, vậy nay đôi ta đã đặng nhứt trường hội ngộ, thì xin tính sao cho trọn chữ ân-tình, trước là đẹp đẽ cuộc giai ngẫu lương duyên, sau là khỏi tay Vương-Bích và anh tôi, người theo buộc ràng ép uổng.”
Đông-Sơ day lại choàng tay qua vai Thu-Hà rồi kề môi dựa má, lấy giọng an ủi mà rằng: “Ái khanh ôi! Cũng bởi tôi đa mang việc nước, mà làm cho ái khanh phải lạc bước giang hồ, cũng bởi cơn thời vận gian nan, nó làm cho cái vóc yểu điệu hường nhan, phải giảm bớt vài phần khí sắc.”
Ôi! Trong lúc mai kề liễu dựa, mận ấp đào ôm nầy, thì chẳng biết bao nhiêu mà vẽ cái tình trạng rất thân ái thương yêu, làm cho ngọn lửa ân-tình phưởng phất, lừng lên rồi cả hai đều hồn mê ruột rối. Bỗng nghe trước cửa rần rần vó ngựa, rảng rảng lạc đồng, kế thấy Triệu-nương và thể-nữ Xuân-Đào, hơ hãi chạy vào, và kêu và nói:
“Tiểu-thơ,Tiểu-thơ, Vương-Bích và công-tử Bạch-xuân-Phương, hai người đương giục ngựa buông cương rần rần chạy tới kia kìa.”
Đông-Sơ nghe nói liền rút gươm vội vã bước ra, Thu- Hà thất kinh chạy theo níu lại và nói: “Lang-quân, xin Lang quân ở nơi phòng nầy với tôi, đặng để coi Vương-Bích cử động thế nào, rồi chúng ta sẽ tùy cơ ứng biến.”
Lúc ấy Triệu-Dõng đương đứng trước khách đường, xảy thấy hai người cỡi ngựa rầm rầm chạy tới, thì biết là Bạch-xuân-Phương và Vương-Bích, sợ chúng nó vô nhà thình-lình, thì gặp Thu-Hà ; liền lật đật chạy ra, đứng ngăn trước ngõ.
Vương Bích xuống ngựa châm chỉ bước vô, thấy Triệu-Dõng mặc đồ võ trang, bộ coi nghiêm chỉnh, khác lúc giả dạng tên đánh xe, nên không nhìn đặng, bèn kêu mà hỏi rằng: “Tên kia, ngươi có thấy hai người gái chạy vào đây chăng?”
Triệu-Dõng nói: “Tôi chỉ thấy hai người trai là hai chú đó thôi, chớ không thấy ai nữa.”
Vương-Bích nghe Triệu-Dõng trả lời như vậy, bèn dòm vô nhà đặng coi có ai chăng, xảy thấy có bóng đờn bà lấp ló phía trong, thì nghi và nói: “Ngươi nói không ai, sao trong nhà có dạng đờn bà con gái đó vậy? Ngươi hãy tránh, để ta xét coi”, và nói và sấn bước bước vô.
Triệu-Dõng nổi xung, lấy tay cản lại, và nói: “Ngươi muốn xét thì phải xin phép cái cánh tay ta đây, bằng ngươi ỷ thế làm ngang, thì nó không hề dễ cho mi bước tới một bước.”
Vương-Bích nghe nói thì mặt đỏ phừng phừng và nói: “Để ta bước vô coi mi làm chi ta cho biết.” Nói rồi xốc tới bước vô, Triệu-Dõng tức thì lấy tay nắm ngang ngực Vương-Bích, quăng ra xa một cái rất mạnh, làm cho Vương-Bích hỏng chơn văng ra xa hơn năm thước rồi té nhào xuống đất, Triệu-Dõng nhảy lại đạp chơn trên lưng, muốn đánh thêm một thoi, cho rồi đời ngang ngược.
Bạch-xuân-Phương thấy Triệu-Dõng sức mạnh phi thường, xem thế ắt cao cường võ nghệ, thì chạy lại mà can rằng: “Xin tráng-sĩ bớt lòng thạnh nộ, vì vương hữu trong cơn nóng nảy, mà ra sự lỗi lầm, nếu thiệt chẳng có hai gái vào đây, thì chẳng cần chi mà sanh đều tranh đấu”, nói rồi lại dắt Vương-Bích trở ra, rồi cả hai lên ngựa đi về một nước.
Triệu-Dõng mặt còn phừng phừng sắc giận, đương đứng trợn mắt ngó theo, xảy nghe có người phía sau bước tới vỗ vai một cái và nói rằng: “Mừng cho Triệu-quí-hữu đắc thắng.”
Triệu-Dõng day lại thì thấy Đông-Sơ và các chị em đều chạy ra mừng rỡ.
Thu-Hà nói: “Nhờ có Triệu-quí-hữu mau chơn ra cản trước ngõ, nếu không thì anh tôi và Vương-Bích, đã xốc vô nhà, gặp tôi và Lang-quân ở đây, ắt sanh đều đại sự.”
Kế đó Đông-Sơ day lại biểu tên bộ-hạ đi mướn một cỗ xe, rồi rước Thu-Hà và hai anh em Triệu-Dõng trở về tư dinh, và dọn dẹp một phòng cho Thu-Hà và Triệu-nương ngơi nghỉ, còn Đông-Sơ thì tính làm một tờ biểu chương, bày tỏ sự tình, đặng xin Hoàng-thượng ngự bút tứ hôn, ngõ cùng Thu-Hà vầy duyên can lệ.