← Quay lại trang sách

Câu chuyện 3 Vạch xuất phát trong suốt

Khi tôi từ phòng nghỉ giải lao xuống trước quán, tôi thấy dáng cô Yumiko đang cho mèo hoang Mi ăn. Còn Yume được cô Yumiko đưa đi dạo đang ngồi ngoan ngoãn dưới chân cô. Hình như từ lúc ông Kadokura mất, giờ cô Yumiko không còn làm lấy tiền công nữa nhưng vẫn rất thân tình tiếp tục dẫn Yume đi dạo.

“Cô Yumiko, vừa xong có cuộc gọi từ quán cà phê ở khu bên cạnh.”

Yume nhận ra tiếng của tôi, quay ngoắt đầu nhìn lên.

“Quán cà phê mèo… ở khu bên?”

“Nói ra cháu mới thắc mắc, không hiểu tự lúc nào chỗ này đã biến thành nơi hỏi đáp tư vấn về chuyện nuôi động vật ý nhỉ?”

“Ơ, cô đâu có nói gì. Cô nghĩ là nếu ghi số điện thoại cố định ở nhà, chồng cô có nghe máy thì cũng quên nhắn lại với cô nên đã lấy số ở đây, vì kiểu gì cũng có cháu nghe và nhắn lại cho cô.”

Tôi nghĩ có nói thêm thì cũng chẳng cải thiện được gì nên trước mắt cứ nói lại nội dung người bên quán cà phê mèo vừa hỏi.

“Sao? Họ nói muốn nhận bốn con mèo cô đang nuôi ư? Có đúng họ nói thế thật không?”

“À, cháu có nói cắt ngang là có gì cứ nói chuyện cụ thể trực tiếp với cô. Thế có được không ạ?”

“Được, được. Cô cảm ơn, Goroh-chan. Thật may khi cô đã làm cuốn “Sổ tìm chủ nuôi” đó. Ngày nó phát huy tác dụng đã tới. Nếu những cơ hội kiểu như thế này tăng lên, có lẽ chúng ta sẽ cứu được nhiều con vật đáng thương hơn.”

Cô Yumiko tỏ ra khá mừng rỡ và vừa lấy hai tay vuốt lông Yume vừa nghiêng nghiêng đầu nói “Nhỉ!”, làm điệu bộ như muốn Yume đồng tình.

Tôi đưa địa chỉ liên lạc tôi đã hỏi người chủ quán cà phê mèo cho cô Yumiko.

Lúc đó, cô Yumiko đưa cho tôi dây buộc Yume, nói “Chờ cô một chút!” rồi lấy di động ra nhanh chóng bấm số gọi.

Rồi sau khi chào hỏi xã giao xong và tắt điện thoại, cô Yumiko nhìn về phía tôi và nói:

“Goroh-chan này, khi nào cháu xong việc, cô với cháu đi uống nước nhé?”

Cô Yumiko thừa biết sau khi xong việc tôi cũng chẳng có việc gì để làm nên đã rủ bằng được tôi đi tới quán cà phê mèo ở khu bên cạnh.

“Hôm nay cháu…”

Khi tôi vẫn đang vừa tìm lý do từ chối vừa ấp úng trả lời, cô Yumiko đã nói luôn “Vậy, cô chờ ở đây lúc sáu giờ tối nhé!” rồi tiếp tục dắt Yume đi.

Sáu giờ tối. Tôi mượn xe của ông chủ quán rồi cùng cô Yumiko đến quán cà phê mèo. Nhìn thoáng qua, quán cà phê đó giống quán của nhà người dân bình thường. Tôi đỗ xe ở bãi có biển chỉ dẫn đánh dấu mũi tên rồi bấm chuông ở bên cạnh biển hiệu ghi “Lối vào quán”, sau đó nghe thấy tiếng nói từ máy kết nối nội bộ: “Mời vào.” Tôi nhẹ ấn cánh cửa có lớp kính mờ đi vào, thấy bên trong là một mặt sàn rộng chừng ba mươi tatami, dàn đều năm bộ bàn tròn kiểu cổ điển và ghế nhỏ. Quán lấy mèo làm chủ đạo có nghĩa là bố trí theo kiểu sờ, vuốt mèo ở trên sàn nhà chứ không phải chú trọng việc uống trà là chính. Những con mèo như thể đang ở lãnh địa riêng của mình, rải rác khắp phòng, con ở trên nhà cây dành cho mèo, con ở thang đi cho mèo, và con nào con nấy đều đang ngồi trong trạng thái thư giãn.

“Xin chào!”

Một người phụ nữ tầm bốn mươi tuổi từ góc nhà đi ra chào chúng tôi. Cô Yumiko đang khoái chí trước những con mèo đáng yêu cũng đáp lại với vẻ tươi cười: “Chào chị!”

“Tôi xin lỗi đã phiền hai người phải tới tận đây. Mời ngồi đi ạ. Tôi sẽ pha trà việt quất.”

Nói xong, người phụ nữ có vẻ là chủ quán đó quay lại chỗ góc nhà.

Tôi vừa nhìn một lượt xung quanh vừa ngồi xuống ghế. Còn cô Yumiko đang vuốt ve lần lượt các con mèo đang đi lững thững trên sàn.

Một lát sau, người phụ nữ quay lại cùng hương thơm ngào ngạt. Khi đặt lên bàn tách trà được làm bằng tay từ quả việt quất phơi khô xong, người phụ nữ đó vừa ôm cái khay vừa nói:

“Tôi rất vui khi hai người đã tới đây luôn như thế này. Còn người đã nhận điện thoại là…”

“Là cháu.”

“Vậy à, cô cảm ơn nhé. Cháu tham gia việc nuôi giữ các con vật chứng tỏ cháu cũng khá yêu quý chúng đấy nhỉ.”

Tôi định cất lời là chỗ cô ấy đã gọi điện tới là quán Pachinko cũ kĩ nhưng cũng vì không muốn làm mất mặt cô Yumiko nên đã nuốt luôn câu đó vào cùng với trà việt quất. Người phụ nữ đặt chiếc khay lên bàn, lấy từ trong túi áo tấm danh thiếp đưa cho tôi và cô Yumiko.

Cô Yumiko rất lịch sự nhận bằng hai tay, tấm danh thiếp có ghi “Chủ quán: Satoh Kumiko”, rồi cả hai đi vào chủ đề chính.

“Quán cà phê mèo ở đây, như chị thấy đấy, tôi nuôi mèo thả tự do. Cũng có quán cà phê mèo lại để mèo trong lồng kính, nhưng tôi muốn khách tận hưởng cái gọi là “cảm giác được chơi với mèo như ở nhà” hơn là “quan sát mèo” nên đã quyết định nuôi thả chúng.”

Cô Yumiko vừa gật gù nghe chuyện của cô Satoh vừa hỏi:

“Nhưng nuôi thả tự do thế này, liệu có người như kiểu thô bạo với mèo hay gì đó không?”

Cô Satoh nghe xong câu hỏi, đã trả lời bằng nụ cười tươi để xóa tan sự lo lắng của cô Yumiko.

“Tất nhiên để không xảy ra những chuyện như thế, quán tôi đã có một đội ngũ hội viên hoàn hảo. Vì ở đây tôi chỉ tuyển những người có lai lịch rõ ràng nên từ trước tới giờ chưa một lần nào có chuyện mèo bị đối xử thô bạo hay bị nhìn dọa nạt cả. Vì thế, chị Yumiko, mong chị hãy cứ yên tâm về những bé mèo chị sẽ gửi gắm ở đây.”

Cô Yumiko vừa nói “Ra vậy!” vừa gật mạnh đầu.

“Chỗ tôi không chỉ có những con mèo thuần chủng như giống mèo Ba Tư hay giống mèo Nga mắt xanh, mà còn có cả mèo bị vứt đi hay đã từng được chăm sóc đấy. Có trường hợp khách ngỏ ý muốn nuôi những bé mèo như thế, và cũng có trường hợp nhận là “bố mẹ nuôi” của chúng luôn.”

Cô Yumiko chăm chú nhìn cô Satoh với ánh mắt đăm chiêu, nghiêm túc nói: “Chị Satoh này, tôi có thể nói một câu được không?”

Cô Satoh đáp “Vâng, vâng!” xong, cô Yumiko bỗng đứng dậy, nắm chặt tay cô Satoh, gửi gắm những suy nghĩ đầy nhiệt huyết.

“Chị Satoh, tôi đã đợi một người như chị đã từ rất lâu! Giờ có thể gặp được một người đang làm một việc tuyệt vời thế này, tôi… tôi… thực sự cảm động!”

Cô Satoh lúng túng đứng lên, nắm lại tay cô Yumiko.

“Nếu tôi làm được việc có ích như vậy, tôi nghĩ sẽ thật tốt khi có được sự hợp tác của chị.”

Rồi sau khi cùng cảm kích nhau như thế, cả hai đã nói vào việc chính, trước tiên, bốn bé mèo được đăng ở “Sổ tìm chủ nuôi” sẽ được giao cho quán cà phê cô Satoh đang kinh doanh.

Trong lúc tiến hành các thủ tục về mặt hình thức, cô Satoh đã hỏi thăm chuyện gia đình của cô Yumiko.

“Gia đình của tôi ấy à? Nhà tôi có ba người, tôi, chồng tôi và con gái.”

“Ồ? Cô Yumiko có con gái à?”

Tôi buột miệng chen vào giữa câu chuyện.

“Đúng. Năm nay nó tròn hai mươi tuổi, nhưng thể trạng con bé yếu lắm… Vì nó không thể ra ngoài được mấy nên bình thường cứ ở trong nhà chăm sóc mấy con vật.”

Cô Satoh nói “Con gái chị cũng hiền lành nhỉ!” rồi điền vào ô số người trong gia đình là “ba người”.

Khi những giấy tờ nói chung được điền xong, cô Yumiko vuốt ve lần lượt từng con mèo, nói “Vậy hẹn chị Chủ nhật này nhé!” rồi định đi ra khỏi quán cà phê, thì cánh cửa kính mở ra, một vị khách nữ còn trẻ bước vào bên trong.

“Ô, Remi, cháu đã về à?”

Cô chủ quán Satoh không nói “Mời vào!” với vị khách nữ mà tôi nghĩ cũng là một khách quen mà nói “Cháu đã về rồi à?”. Chính cách nói này đã tạo nên sự ấm cúng của quán cà phê này chăng?

Cô gái được gọi là Remi đó trả lời: “Vâng, cháu về rồi này cô Kumiko.”

Khi đó, cô Yumiko chào vị khách đó: “Chào cháu!”

Cô Satoh giải thích liền một mạch với vị khách và cô ấy vừa gật gật vừa nói:

“Hóa ra cô là người đang tham gia công tác nuôi giữ, bảo vệ động vật à? Thực ra, cháu đang sống cùng một bé mèo tam thể cháu đã nhặt mấy năm trước, nhưng lúc cháu hay về muộn, nó có vẻ buồn khi ở một mình… Thế nên thỉnh thoảng cháu ghé qua đây, tìm bạn “tâm giao” cho bé mèo nhà cháu.”

Khuôn mặt cười rạng rỡ của cô ấy làm sáng bừng không khí nơi cô ấy đứng. Và rồi cô gái bắt đầu nói những chuyện còn đáng ngạc nhiên hơn về chú mèo đang nuôi.

“Nhưng bé mèo nhà cháu có hơi khang khác… Cháu có đặt tên bé là “Hime-chan”*, nó hơi khác so với các con mèo khác, đồng điệu về tâm hồn với cháu hơn là con người ấy chứ.”

⚝ ♪ ⚝

“Hime” trong tiếng Nhật có nghĩa là “tiểu thư” hoặc “công chúa”.

“Đồng điệu về tâm hồn hơn cả con người?” Cả tôi và cô Yumiko đều vừa nghiêng nghiêng đầu tỏ vẻ bán tín bán nghi vừa hỏi Remi.

“Ví dụ thế này, cứ buổi sáng nào mà thấy cháu không dậy sớm, kiểu gì nó cũng đánh thức cháu đúng giờ đó, còn cứ khi nào cháu thấy mệt, nằm yên một chỗ là cứ sát lại người cháu, giữ ấm cho cháu. Thế nên, cứ có “Hime-chan” là cháu chẳng thấy buồn gì cả, có lẽ cháu cứ thế sống độc thân mãi luôn… Mà chính xác là cháu đã ly dị.”

Remi có vóc người mảnh mai, nhỏ nhắn, thuộc tuýp người không phải không cuốn hút. Cô ấy mặc chiếc váy liền phẳng phiu, khoác chiếc túi màu trắng, tôi thấy nói gì thì nói cô ấy cũng thuộc hàng ngũ của những cô gái xinh.

Nếu ở đây mà có Hiromu, kiểu gì cậu ta cũng phải thốt ra lời nhận xét một cách thẳng tưng là “Người xinh thế này lại độc thân đúng là quá uổng phí!” cho xem.

Và rồi, sau khi kể câu chuyện kỳ lạ đó, Remi khẽ cúi đầu, nói “Hẹn gặp các cô sau nhé!” rồi đi ra chơi với các con mèo.

Tôi và cô Yumiko chào xã giao bình thường xong, hẹn sẽ gặp lại cô chủ quán Satoh rồi ra khỏi quán cà phê mèo.

•••

“Anh ơi, em đã về. Anh về rồi hả?”

Tôi có thói quen khi về nhà là gọi với từ lối vào cửa hàng chuyên bán đồ hợp kim nho nhỏ của hai vợ chồng vào phía cuối phòng khách như thế. Gọi là kinh doanh đồ hợp kim nhưng chỉ dựa vào thu nhập từ việc bán hàng thì cũng chẳng thấm tháp gì nên chồng tôi cả tuần có làm thêm việc đưa báo sáng và chiều nhưng phần lớn vẫn về trước tôi.

Rồi từ đằng sau lưng chồng tôi đang làm món ăn nhẹ cho bữa tối, tôi bắt đầu kể những việc đã làm được trong cả ngày hôm nay. Nào là chuyện có quán cà phê ở khu bên cạnh gọi điện tới quán Pachinko nơi tôi thường hay tới để hỏi thăm thông tin, nào là cùng Goroh đi tới quán cà phê và cả chuyện quán đó sẽ lấy bốn con mèo.

Chồng tôi đã chỉ đáp những từ lặp đi lặp lại “Ồ, hả, thế à!” nhưng nghe được câu “Ồ, hả, thế à?” là tôi có cảm giác cuối cùng một ngày cũng đã hết.

“Thỉnh thoảng anh cũng tới quán Pachinko đi, xả hơi cho sướng.”

“Không, anh không cần đâu. Anh không hên như em được… Đây, anh xong rồi, cả nhà ăn thôi.”

Chồng tôi đặt lên bàn ăn món đậu lạnh rắc gừng mài nhuyễn và đậu Edamame đã rã đông, lấy bát Nikujaga* và bia trong tủ lạnh ra. “Nói mới nhớ, Aoba… đã cho đám mèo ăn chưa nhỉ?”

⚝ ♪ ⚝

Nikujaga là một món ăn của Nhật Bản gồm có thịt, khoai tây và hành tây được hầm trong nước sốt đậu ngọt.

Aoba, con gái của chúng tôi năm nay tròn hai mươi tuổi, vậy mà vẫn cứ như trẻ con, hễ bắt đầu đọc truyện tranh một cái là quên hết tất tật các việc khác, có lúc cứ đọc triền miên liền luôn mấy tiếng đồng hồ.

“Không sao đâu, con đã cho ăn đầy đủ rồi.”

“Vậy à? Nếu vậy thì tốt rồi. Dù thể trạng của con có yếu đến mấy đi nữa, nếu cứ mãi coi nó như trẻ con như thế làm sao đi làm dâu được.”

“Ôi trời, đến đâu hay đến đó. Thôi, Aoba ăn xong rồi nên chúng ta cũng ăn mau đi để còn dọn dẹp nào.”

Gia đình tôi tuy không giàu có về vật chất nhưng chính khoảnh khắc tôi vừa nhâm nhi các món ăn chồng tôi làm vừa báo cáo tình hình trong ngày như thế này có thể nói đối với tôi là giây phút cực kỳ hạnh phúc. Từ đáy lòng tôi thực sự muốn cảm ơn chồng về việc tuy không tới mức trực tiếp kết hợp với tôi nhưng đã thấu hiểu sâu sắc cho tôi về việc nuôi giữ, chăm sóc mấy con vật.

Tôi ăn liền một miếng đậu lạnh mà chồng tôi làm cho rồi tiếp tục nói về những việc đã làm trong ngày hôm nay.

“Mô hình hoạt động ở chỗ chị chủ quán tên là Satoh phải nói là thực sự tuyệt vời anh ạ. Ở quán cà phê, không chỉ có những con mèo thuần chủng mà còn có cả mèo bị vứt bỏ, mèo đã được nuôi nữa cơ. Cũng có luôn cả chức năng tìm chủ nuôi đấy. Đúng rồi, không biết họ có nhận Aoba nhà mình vào làm không nhỉ?”

“Không được đâu. Nếu trong lúc đang làm, Aoba lại bị yếu, mệt mỏi thì sẽ gây phiền toái cho người khác, đúng không nào?”

“Vâng… thì… đúng là vậy. Rồi em còn gặp một vị khách trẻ có tên là Remi, cô ấy nói con mèo mình đang nuôi là con mèo có thể hiểu tâm tư suy nghĩ của con người đấy.”

“Con mèo… hiểu được tâm tư suy nghĩ của con người ư?”

“Đúng. Nào là nó biết gọi dậy vào buổi sáng, nào là nằm sát bên cạnh lúc bị ốm, lại còn biết lấy điện thoại dưới gối đem cho chủ nữa cơ. Anh thấy siêu chưa?”

“Nghe cứ như là chuyện trên tivi ấy nhỉ.”

“Trên tivi?”

“À, trên tivi chẳng có chương trình giới thiệu con mèo có tài đặc biệt còn gì? Cũng từa tựa thế đúng không?”

“À, đúng, đúng! Anh đúng là được cái liên hệ nhanh! Em sẽ giới thiệu con mèo của Remi lên đài truyền hình! Tiện thể nếu chị Satoh và quán cà phê mèo này cũng được giới thiệu, có lẽ chúng ta sẽ tìm được càng nhiều người muốn nhận nuôi đám mèo mình đang chăm sóc.”

“Yumiko… Nói thì đơn giản nhưng em định làm thế nào để giới thiệu lên đài truyền hình?”

“Hình như có lần em nghe cậu Hiromu nói là ông giám đốc trung tâm “Gì cũng làm” nơi cậu ấy đang làm có quen ai đó ở đài truyền hình. Em ăn xong sẽ gọi điện hỏi thử xem.”

“Em vẫn cứ không lúc nào ngơi chân ngơi tay nhỉ.”

“Vậy hả anh? Em cứ thấy háo hức thế nào ấy. Thôi em phải ăn nhanh đã.”

Tôi nhanh nhanh chóng chóng ăn hết bữa cơm rồi gọi điện cho Hiromu. Nghe xong, Hiromu mừng như mình được lên tivi và hứa sẽ nhờ ông giám đốc liên hệ với người quen ở đài truyền hình.

Khoảng mấy ngày sau, thông qua Hiromu, tôi đã nhận được hồi đáp từ người ở đài truyền hình. Nói là đài truyền hình nhưng cũng chỉ là một đơn vị truyền hình địa phương nho nhỏ thôi, tuy vậy vẫn có thể hy vọng là có sức ảnh hưởng. Họ nói sẽ xem xét theo hướng cùng một lúc vừa giới thiệu con mèo của Remi vừa giới thiệu kèm luôn cả quán cà phê. Nếu thực hiện được, chắc chắn chính bản thân chị Satoh cũng sẽ có khả năng cạnh tranh cao hơn trong việc kinh doanh quán cà phê.

Người ở đài truyền hình khi nghe câu chuyện về con mèo của Remi cũng có vẻ thấy mới lạ nên muốn mau chóng hỏi thêm nữa.

Để nhanh chóng kết nối với Remi, tôi đã gọi điện đến quán cà phê và rất tình cờ, Remi cũng đang có mặt ở đó. Tôi nói với giọng rất phấn khích “Chị đưa máy cho Remi giúp tôi với!”, rồi trực tiếp nói với Remi về chuyện đài truyền hình sẽ xem xét việc giới thiệu con mèo Hime-chan.

Nhưng chính miệng Remi đã trả lời trái ngược với hy vọng của tôi.

“Thế thì hơi khó cho cháu…”

“Sao cơ?”

“Cháu không muốn Hime-chan của cháu là thứ để trưng ra cho mọi người xem.”

“Cháu nói là thứ trưng ra ư…? Cháu có thể tìm ra người bạn tâm giao cho Hime-chan này, mở rộng quy mô hoạt động quán cà phê mèo của chị Satoh này. Cô nghĩ đó không phải là chuyện xấu. Kiểu gì cũng không được sao?”

“Vâng, cháu xin lỗi cô đã nhiệt tình nhưng…”

Remi đã nói vậy rồi dập máy.

Tôi thấy nhói đau trong lồng ngực khi làm người khác mất lòng như vậy.

Chẳng phải là tôi đã nói vì Remi, vì chị Satoh, chứ thực ra đâu có vì mình mà lợi dụng mèo của Remi. Và cũng chẳng phải là tôi cũng định là thông qua truyền hình, sẽ dễ dàng tìm được người nhận nuôi đám mèo còn gì. Tôi cứ liên tục tự hỏi tự trả lời như thế và quyết định tới xin lỗi trực tiếp Remi.

Ngày hôm sau, tôi lại gọi điện tới quán cà phê mèo, nói qua tình hình với chị Satoh và được chị ấy cho địa chỉ của Remi. Vì tôi sợ đi một mình sẽ lại lỡ miệng nói những lời không cần thiết nên đã đi tới quán Pachinko để định nhờ Goroh xem cậu ấy có đồng ý đi cùng tôi hay không.

•••

Buổi chiều ngày hôm đó thật yên tĩnh khi tôi không nghe thấy tiếng gọi “Goroh-chan!” vọng từ bên ngoài. Tôi vừa nghĩ vậy xong, đã thấy tiếng gõ cửa văn phòng, và cô Yumiko mặt thẫn thờ khác mọi khi bước vào.

“Cô sao vậy, cô Yumiko?”

“Có chuyện này, Goroh-chan… Thực ra là cô muốn cháu đi cùng cô tới nhà Remi.”

Tôi nghe cô Yumiko với thần thái khác hẳn mọi khi kể sự tình, thấy có vẻ như cô ấy lại lăng xăng nhiệt tình lo hộ chuyện nào đó của người khác không phải lối. Vì cô ấy thực sự buồn nản và khá hối hận nên muốn tôi tiếp thêm sức mạnh… và thế là tôi đi cùng cô ấy đến nhà Remi.

Và để tra đường đến nhà Remi, tôi đã gõ địa chỉ lên máy tính của phòng làm việc, thấy chỗ đó hiện trên bản đồ là một khu đất trông cách xa khu dân cư.

“Đây, đây là… Rốt cuộc là thế nào nhỉ?”

“Chính cô cũng muốn hỏi thế.”

Cuối cùng, tôi quyết định nhờ tới sự trợ giúp của Hiromu vì cậu ta nắm được tuốt tuột các thông tin. Và thế là cả ba chúng tôi túm tụm quanh chiếc bàn phòng làm việc tìm hiểu.

Hiromu đang ngồi trên ghế sô pha với thái độ rất “vênh”, hỏi cô Yumiko rất cụ thể thông tin về Remi.

“Nghề nghiệp của Remi là gì vậy cô?”

“Hình như cô ấy nói là đang làm việc gì đó liên quan tới thiết kế…”

“Việc liên quan tới thiết kế tức là gì?”

“Là gì nhỉ… Cô cũng đã hỏi qua chị Satoh nhưng cô không rành lắm về công việc gọi bằng tiếng Tây đó. Dù là gì đi nữa thì cô ấy đang làm tự do nên cô ấy nói cứ có người đặt làm là phải đi tới chỗ đó là chuyện thường xuyên…”

“Có người đặt làm ư?”

Hiromu hỏi lại luôn như nuốt lời người khác vậy.

“Nếu vậy thì có khả năng cao là sẽ liên lạc được bằng cách nào đó.”

Nói vậy xong, Hiromu đi về phía máy tính, đánh vào phần tìm kiếm dòng chữ: “Thiết kế Fujii Remi làm tự do”. Sau một hồi cứ vừa tìm kiếm đến tận trang cuối cùng của một loạt kết quả tìm kiếm hiện ra vừa liên tục thay đổi các từ khóa tìm kiếm, có tiêu đề một trang từa tựa như thế hiện ra.

“A, có phải đây không?”

Tôi nhìn theo hướng tay Hiromu chỉ, thấy tiêu đề một trang chủ viết là: “Trang của Fujii Remi, nhà thiết kế vật lưu niệm”. Khi tôi nhấp chuột vào trang đó, tôi thấy có bức ảnh giới thiệu chụp mặt Remi đang cười rất hiền dịu.

“Đúng là cô ấy. Không nhầm đâu, chính là Remi cô đã gặp ở quán cà phê mèo.”

Hiromu vừa nói “Trúng phóc!” vừa giơ tay khự một cái như lúc thể hiện chiến thắng.

Công việc của Remi hình như là thiết kế, tạo hình thú nhồi bông giống y như đúc với mẫu thật dựa trên ảnh chụp những con thú cưng quý giá. Có vẻ như phần lớn chủ yếu là phục dựng nguyên bản thú cưng đã mất, và ở phần phản hồi ý kiến khách hàng có những dòng nhận xét bày tỏ lòng cảm ơn của họ như: “Bé… của tôi như đang hồi sinh!”, “Ngày nào tôi cũng cưng nựng”, “Đúng là bõ công chờ đợi!”… Khi xem thử những tác phẩm trước đây, tôi thấy tay nghề của cô ấy đã đạt tới độ hoàn hảo còn hơn cả mức tưởng tượng. Con thú nhồi bông do Remi làm giống y như thật từ màu sắc của bộ lông cho tới những nét tiểu tiết nhất, nhìn sống động và có hồn.

Hiromu trầm trồ trước tài năng của Remi: “Cô gái này giỏi quá…”

Rồi sau khi chép lại địa chỉ đã được ghi rất nhỏ ở phần giới thiệu, Hiromu nói: “Nào, chúng ta đi thôi!” Khi tôi nói “Không cần hẹn trước ư?” thì cô Yumiko lại đồng tình với ý kiến của Hiromu, nói: “Đúng đó, có khi gọi điện cũng không gặp được ấy chứ… Cứ đến thẳng trực tiếp đó luôn.”

Chỗ ở kiêm nơi chế tác của Remi đi qua cả tỉnh Saitama nơi có quán cà phê mèo, ở ngay đoạn sang tới tỉnh Ibaraki. Mặc dù vậy, xung quanh toàn là đường đồng không mông quạnh chẳng có đèn hiệu giao thông hay gì cả nên đi bằng ô tô mất chừng ba mươi đến bốn mươi phút là tới.

Chúng tôi nhanh chóng tới gần chỗ đó bằng xe ô tô của ông chủ quán và thấy có đúng một cột đèn đường, nói dại mồm chứ bao trùm nơi đó là một bầu không khí rờn rợn. Trời cũng bắt đầu xâm xẩm tối, nếu không mau mau tìm ra có khi cách mấy mét thôi cũng không thấy được gì.

“Có người ở chỗ như thế này thật ư?”

Những lời Hiromu vừa lẩm bẩm đó có thể nói là thay cho cảm giác của cả ba người chúng tôi luôn.

Tiến thêm một chút nữa, chúng tôi cũng tới được chỗ có ghi địa chỉ như trên trang chủ. Đó là một căn nhà một tầng nhỏ, trên tấm biển có ghi chữ “Fujii”.

“Cô gái có tên Remi đó có lẽ vẫn tầm hai mươi mấy cô nhỉ? Người vừa trẻ vừa xinh thế lại sống một mình ở nơi như thế này ư?”

Ý kiến đó của Hiromu quá chuẩn. Không biết cô ấy suy nghĩ thế nào mà lại sống một mình ở một nơi tối tăm không có cột đèn đường như vậy. Hơn nữa, ở căn nhà một tầng nhỏ nhỏ hoàn toàn không trang bị thiết bị chống trộm như những khu nhà tập thể thế này, chuyện trộm vào bất cứ lúc nào cũng chẳng là lạ.

Trước mắt, tôi cứ đỗ xe ở bên cạnh nhà Remi, rút chìa khóa rồi lúc đang đi về phía lối vào nhà, tôi nhìn thấy mọi thứ bên trong nhà từ cánh cửa sổ ở bên hông căn nhà.

Remi cột cao tóc, đang làm một con búp bê ở trước cái bàn mà tôi nghĩ là bàn làm việc dành cho người thợ.

“Đó là Remi…”

Quả đúng không nhầm, đây là nhà của Remi. Tôi không thấy có cảm giác như là cô ấy sống với một ai đó, đúng là cô ấy ở một mình.

Lúc ấy, Hiromu nói “Chúng ta như đang nhìn trộm vậy, vòng ra cửa chính thôi!” rồi bước đi luôn. Khi tới trước tấm biển đề chữ “Fujii”, tôi phát hiện một chiếc xe đạp ba bánh nhỏ đang để đấy. Đó là xe đạp ba bánh màu hồng trông như mới.

Trong lúc có bao nhiêu sự phỏng đoán hiện lên trong đầu tôi, cô Yumiko đã giơ tay bấm chuông cửa.

“Vâng, ai đó ạ?” Đèn ở lối ra vào cửa được bật cùng lúc có tiếng nói vừa cất lên, cánh cửa gạt sang một bên theo kiểu truyền thống của Nhật cũng được mở.

“Cô… cô Yumiko? Và cả Goroh nữa… Còn đây là…”

“Xin chào! Tôi là Hiromu, nhân viên trung tâm “Gì cũng làm”.”

Hiromu nói giọng dõng dạc mà có thể nói hơi không được tự nhiên cho lắm, chào rất lịch sự.

Remi đã mời chúng tôi vào trong nhà mà mặt không hề tỏ ra khó chịu trước ba người chúng tôi đang đứng có vẻ lo lắng và đầy hoài nghi.

Cô Yumiko vừa tiến vào trong sảnh đã cúi thấp đầu rồi nói: “Cháu cho cô xin lỗi về chuyện hôm trước!”

Remi vừa cười tươi đáp “Không sao, không sao mà cô!” vừa nói tiếp:

“Cô đừng bận tâm làm gì. Chính cháu mới phải xin lỗi cô vì đã trả lời như kiểu đã làm cho kế hoạch công phu của cô thành công cốc như thế. Nhưng mà cô đã biết chỗ này rồi nhỉ. Cháu xấu hổ khi sống ở chỗ quê mùa thế này nên đã nói với cô Satoh ở quán cà phê mèo là cháu đang ở khu chung cư cùng khu phố. Nhưng thôi, mọi người đã cất công tới đây rồi nên cứ ở lại uống chén trà đã. Mời mọi người ngồi ạ!”

Vì trông Remi không có vẻ gì là bận tâm lắm như cô Yumiko nghĩ nên cô Yumiko đã tươi tắn trở lại, quyết định vào trong nhà ngồi chơi.

Nhà của Remi khá ngăn nắp, gọn gàng, vừa có khoảng trống tối thiểu cần thiết, vừa có không gian hợp lý thoải mái. Ở phòng bếp rộng tầm bốn, năm tatami có đặt một chiếc bàn ăn nhỏ dành cho một người, ở phòng làm việc kiêm phòng ngủ có xếp mấy con thú nhồi bông đang làm dở.

Hiromu đứng lại trước chỗ làm việc, vừa nhìn một con thú nhồi bông như thế đang cử động vừa lẩm bẩm: “Tuyệt quá!” Con thú nhồi bông đó còn nhìn thấy trông như thật hơn là khi nhìn trên ảnh. Thấy chúng tôi đang đứng im, Remi hỏi: “Các cậu thấy thế nào?” Hiromu đang mải ngắm con thú nhồi bông đó đã bày tỏ rất thật lòng ngưỡng mộ đối với Remi.

“Thật tuyệt! Chị làm một con như thế này mất tầm bao lâu?”

Khi đó, Remi với khuôn mặt tươi tắn hiền lành đã trả lời câu hỏi rất trẻ con của Hiromu:

“Cảm ơn cậu. Tôi rất vui khi cậu có những lời khen ngợi như thế. Hoàn thành một con có lẽ mất tầm một tuần. Cũng có con cần làm cầu kỳ thì mất hơn hai tuần nhưng tôi háo hức được nhìn vẻ mặt hạnh phúc của khách nên cuối cùng cũng quên luôn cả thời gian. Với lại…”

“Với lại?”

“Những khách hàng nhờ tôi làm vì toàn là những người rất đau lòng mất đi vật nuôi mình yêu thương nên để họ vui vẻ hơn dù chỉ một chút thôi, tôi tuyệt đối không thể lơ là được. Tôi tưởng tượng tiếng kêu của con vật lúc chúng còn sống hay hình ảnh lúc chúng chơi với chủ của mình, rồi để phục dựng lại hết mức có thể, tôi còn kỳ công phân biệt sự cảm nhận khác nhau giữa chất liệu vải và sợi len.”

Tôi nghe những lời nói về một niềm tin trong sáng, thuần khiết ấy của Remi, bỗng cũng thấy tâm hồn mình như được gột sạch. Cô gái không phải vì tiền và danh lợi, đang dốc hết khả năng của mình để hàn gắn trái tim con người ấy chắc chắn là một người có tấm lòng đẹp.

Và chúng tôi được dẫn đi xem phòng ngủ rộng khoảng sáu tatami có trải một chiếc thảm màu trắng.

Đúng như ấn tượng lúc mới bước vào trong nhà, ngôi nhà một tầng nhỏ xinh gồm hai phòng và một bếp được bố trí rất hợp lý. Dưới chiếc bàn tròn cao đến đầu gối, mèo Hime-chan đang cuộn tròn người ngủ nhưng tuyệt nhiên không hề thấy nhúc nhích.

“Thật tiếc là mọi người đã cất công tới đây vậy mà… Hôm nay Hime-chan không được khỏe, chứ bình thường nó khỏe khoắn hơn nhiều.”

Chúng tôi nhìn thấy một nỗi buồn sâu thẳm ẩn sau khuôn mặt tươi cười rạng rỡ của Remi.

Mèo tam thể Hime-chan đang cuộn tròn nằm ngủ dưới chiếc bàn tròn kia cũng là một con mèo nhồi bông được làm giống hệt như mèo thật.

Remi đã giới thiệu mèo nhồi bông Hime-chan cho chúng tôi. Chúng tôi chỉ có thể im lặng nhìn. Nhưng nét mặt lúc Remi nói với Hime-chan nhồi bông ít ra là cũng chẳng thấy có vẻ gì là đang lừa chúng tôi cả. Không những không thế mà còn trông rất hạnh phúc.

Lúc đó, Hiromu không thể nhịn nổi, sau khi hít một hơi thật sâu, đã nói với Remi:

“Xin hỏi chị… Đó là thú nhồi bông đúng không?”

Tôi và cô Yumiko cùng quay sang nhìn nhau, hơi chột dạ vì câu nói của Hiromu đã động chạm tới điều không nên nhắc tới, ấy vậy mà Remi không hề nao núng trước lời nói đó của Hiromu, nói “Cháu đi pha trà nhé!” rồi đi ra phía bếp.

Nhân lúc đó, chúng tôi túm tụm lại bàn nhau xem thoát ra khỏi chỗ này bằng cách nào.

Hiromu nói “Kiểu gì thì kiểu, cứ phải về ngay lập tức!”, còn cô Yumiko thì nói: “Cứ bịa ra việc gì đó!” Tôi không biết làm cách nào thì tốt nên cứ thế im lặng. Thế rồi, cô Yumiko đã đề xuất một việc như sau, khi Remi mang trà quay trở lại.

“Nói vậy chứ, Remi, cháu đang đi tìm “bạn đời” cho Hime-chan nhỉ?”

“Vâng. Nhưng Hime-chan nhát lắm nên không biết có để cho nó sống cùng con mèo khác được không nữa.”

“Cô có một người quen sắp đi ra nước ngoài. Con mèo mà người ấy đang nuôi cũng ngoan, trầm tính nhưng khó có thể mang nó đi theo… Cháu thấy thế nào khi con mèo được nuôi nấng cẩn thận, tốt như thế sẽ là “bạn đời” của Hime-chan?”

Hiromu vừa nói “Lại lăng xăng rồi!” vừa uống một ngụm hết cốc trà Remi vừa rót. Nhưng tôi lại không hề nghĩ việc cô Yumiko đề xuất không hẳn là một việc như Hiromu nói chút nào. Có lẽ cô Yumiko đã mượn chuyện nuôi mèo để biến lời nói dối của Remi thành thật.

Khi đó, khuôn mặt đang tươi cười của Remi khi đang nghe chuyện cứ đờ dần đi, và Remi lẩm bẩm gì đó với giọng như kiểu run run. Chúng tôi nghe không rõ nên hỏi lại: “Sao cơ?”

“Hãy về đi…”

Khuôn mặt đang cúi gằm xuống của Remi khi ngẩng lên, những giọt nước mắt cứ thế cứ thế tuôn ra.

Từ trước tới giờ, tôi chưa từng nhìn thấy ai có những giọt nước mắt buồn như thế.

Chúng tôi lặng lẽ đứng lên, lí nhí nói “Xin lỗi đã làm phiền!” rồi rời khỏi ngôi nhà của Remi. Trên con đường về tối om, ở trong xe không ai nói với ai câu nào.

Chuyện “Hime-chan” mà Remi rất yêu thương đó đã không có ngay từ đầu hay đã có từ trước thì chúng tôi không biết. Nhưng chúng tôi chỉ có thể hiểu rằng cô ấy một thân một mình sống ở một nơi tối tăm như thế, chắc chắn là vì một quá khứ rất đỗi đau buồn. Không biết rốt cuộc quá khứ của cô ấy đã có chuyện gì mà có sống cũng như không vậy. Hãy khoan, chẳng có lẽ chính vì Remi cũng đang ở đáy vực của nỗi buồn nên mới làm thiết kế đồ lưu niệm để hàn gắn trái tim của những người đang bị tổn thương.

Thế còn chiếc xe ba bánh để ở ngoài lối cửa ra vào không biết là của ai. Vì tuyệt nhiên không có dấu hiệu nào là có trẻ con đang sống trong nhà…

Mấy ngày sau hôm có vụ đến thăm đường đột để lại dư âm không mấy hay ho đó, cô Satoh chủ quán cà phê mèo đã gọi điện cho cô Yumiko. Hình như cô ấy nói Remi có nhắn với chúng tôi rằng “Có chuyện muốn nói!” nên Chủ nhật tới chúng tôi sẽ gặp lại Remi ở quán cà phê.

Ngày thứ Bảy.

Ngày hôm đó, trên cửa vào quán cà phê mèo có treo biển “Đã kín chỗ”.

Khi mở cánh cửa lắp kính mờ, chúng tôi thấy Remi đang ngồi lọt thỏm một mình ở giữa ghế sô pha to rộng.

Mèo nhồi bông Hime-chan được đặt trên chiếc bàn tròn kiểu cổ điển.

Remi nhìn thấy chúng tôi thì đứng lên, khẽ cúi người, nói: “Cháu xin lỗi đã hẹn mọi người cất công tới vào đúng ngày nghỉ thế này.”

Nét mặt của Remi khác hoàn toàn với lần gặp gần đây, trông có vẻ có gì đó nhẹ nhõm hơn.

“Chính chúng tôi đã không phải khi đột ngột tới thăm.” Cô Yumiko đã thay mặt nói lời xin lỗi, rồi cả ba chúng tôi cùng cúi đầu.

Khi tất cả mọi người cùng đứng dàn trải ở chỗ ghế sô pha, cô chủ quán Satoh mang trà tới.

“Nào, mọi người, bỏ khuôn mặt căng thẳng đó đi. Mời ngồi, mời ngồi.”

Remi uống một ngụm trà việt quất cô Satoh vừa rót, hít nhẹ một hơi, bắt đầu khẽ khàng nói chuyện.

“Cháu đã có một bé gái. Nhưng con bé đã bỏ qua thế giới này đi thẳng luôn lên thiên đường rồi…”

“Bỏ qua… thế giới này?”

Trước câu hỏi hơi e dè của cô Yumiko, Remi đã ôn tồn trả lời:

“Vâng, chồng cháu hơn cháu tận mười ba tuổi nhưng vì anh ấy và cả bố mẹ chồng cháu đều cực kì khát khao có em bé luôn nên hai mươi tuổi cháu đã đi làm dâu. Nhưng mãi cháu vẫn không thấy có tin vui… Rồi ba năm trước, lúc cháu hai mươi lăm tuổi, cuối cùng cháu cũng có thai. Chồng và bố mẹ chồng cháu đã rất mừng. Tuy nhiên, lúc cháu mang bầu vừa sang tháng thứ bảy, thai vẫn ổn định bình thường nên chồng cháu khá yên tâm, đã đưa cháu đi công tác nước ngoài cùng. Nói là đi công tác nhưng cháu đã thấy rất tuyệt khi được tận hưởng những chuỗi ngày đi du lịch dài miên man, lúc chồng cháu làm việc, cháu ra ngoài mua sắm. Dù chồng cháu đã dặn là không được ra ngoài khách sạn cho tới lúc chồng cháu về nhưng cháu đã không thể chờ được đến lúc đó, đúng là cháu đã sai… Trong lúc đang mua sắm, cháu bị giật đồ, khi ấy, do bị va đập mạnh nên em bé đã…”

Remi đang nói liền mạch từ đầu tới giờ bỗng nghẹn lời khi nói tới đó… Cô Yumiko đứng lên, vuốt nhẹ vào lưng của Remi. Rồi Remi nói tiếp:

“Em bé đó là bé gái, đúng như lòng mong mỏi của hai vợ chồng. Chồng cháu đã không thể tha thứ cho sự bất cẩn đó của cháu, tới mức đã ly dị cháu. Nói chính xác hơn, lý do hàng đầu dẫn đến việc ly dị chính là đúng dịp sảy thai đó, bác sĩ đã nói với cháu rằng sau này cháu khó có thai được. Bố mẹ chồng cháu thì nói rằng đã mất công lấy vợ trẻ cho con trai mình mà lại không sinh đẻ được thì không có ý nghĩa gì nữa… Họ đã nói rõ ràng như thế.”

Hiromu lắng nghe câu chuyện của Remi với khuôn mặt rất nghiêm túc, đã nói thể hiện sự tức tối.

“Đúng là toàn lũ khốn nạn.”

Tuy đó là những lời nói hơi quá nhưng Remi cảm nhận được bản chất tốt bụng của Hiromu đã cười cay đắng, nói tiếp: “Cháu đã nghĩ mình phải đối mặt với hiện thực và đã bắt đầu đi làm. Trong ba năm từ lúc tốt nghiệp cấp ba cho tới lúc kết hôn, cháu đã từng làm công việc chế tạo các nguyên mẫu nhân vật hoạt hình nên cháu nghĩ mình sẽ vận dụng các kỹ thuật đó và bắt đầu công việc làm búp bê. Ban đầu, cháu thử làm giống vật nuôi của nhà hàng xóm, hay làm con chó đã gặp ở công viên, rồi dần dần những đơn hàng cứ thế tăng lên, tự nhiên là đã có thể có cái ăn đủ no. Nhưng…”

“Nhưng?”

Cô Yumiko thôi vuốt lưng Remi, dựa vào ghế nghe tiếp.

“Nỗi buồn khi mất đứa con trong bụng hoàn toàn không hề biến mất. Dù bố mẹ đẻ của cháu cũng dang tay ân cần đón cháu trở về nhưng họ càng ân cần bao nhiêu cháu càng thấy đau khổ bấy nhiêu… Cháu đã mang theo chiếc xe ba bánh mua cho con gái cháu rồi dọn tới chỗ ở hiện nay. Nhưng cháu vẫn thấy yêu lúc nhìn những khuôn mặt tươi cười của khách hàng khi cầm trên tay những con búp bê cháu làm vì cháu có cảm giác khoảnh khắc đó mình đã được cứu rỗi. Cháu nghĩ nếu làm ra những con búp bê vì chính bản thân mình thì có lẽ nỗi buồn cũng sẽ tiêu tan và cháu đã định tái hiện em bé ở trên thiên đường của cháu. Nhưng… cháu không làm nổi. Khuôn mặt đó không hiện ra trong đầu được, mà nếu có hiện ra được thì cháu đã giàn giụa nước mắt, tay cháu hoàn toàn không làm được gì nữa… Khi cháu thử làm Hime-chan, là con mèo tam thể ngày xưa cháu từng nuôi, cứ càng gần tới lúc hoàn thiện, thật kỳ lạ cháu càng thấy nhẹ nhõm hơn.”

Cô Yumiko vừa nhẹ nhàng vuốt con mèo nhồi bông đặt ở trên bàn vừa nói: “Đó chính là Hime-chan đang ở đây đúng không?”

“Vâng, Hime-chan chắc chắn đã giảm bớt nỗi buồn của cháu. Nhưng dần dà cháu lại suy nghĩ có chăng trái tim mình được hàn gắn là nhờ sự có mặt của Hime-chan cũng là một điều tội lỗi?”

“Nghĩa là thế nào?”

“Dốc tình yêu thương cho một thứ ngoài đứa con gái trên thiên đường chính là bằng chứng của việc bản thân sự tồn tại của con gái cháu đã không còn sâu đậm nữa… Đó chẳng phải là điều tội lỗi hay sao…”

Lúc đó, Hiromu đang im lặng lắng nghe cũng đã từ từ cất tiếng: “Chị Remi, đó không phải là điều tội lỗi.”

“Sao…?”

“Là vì chẳng phải Hime-chan kia chính là hiện thân của con gái chị hay sao? Tuy có hình hài là một con mèo nhồi bông nhưng em nghĩ vóc dáng, hình hài chẳng liên quan gì hết cả. Việc chị chỉ có dốc hết lòng yêu thương như thế cũng là bằng chứng của việc con gái chị đang trú ngụ bên trong hình hài của Hime-chan… Em cũng không biết nói gì cho phải nhưng em nghĩ hoàn toàn không có chuyện dốc hết tình yêu thương đó lại là một điều tội lỗi.”

Tôi cảm nhận được sức thuyết phục kỳ lạ bên trong những điều Hiromu vừa nói. Từ đôi mắt trên khuôn mặt đang cúi xuống của Remi, hai hàng nước mắt cứ tuôn trào. Rồi cô ấy nói với Hiromu điều rất thật với lòng mình:

“Cảm ơn cậu… Hiromu, tôi rất cảm ơn cậu. Duy có một điều này cậu hãy tin tôi. Lúc tôi lơ mơ vì sốt cao, tôi thấy có tiếng Hime-chan ở đâu đó, và tôi có cảm giác như nó ghé sát nằm cạnh tôi. Chuyện đó là có thật. Chỗ nó nằm sát vào tôi thật ấm áp, và tôi đã khỏe lại nhờ có hơi ấm đó.”

Lúc đó, cô Yumiko gật mạnh đầu, nói với Remi bằng giọng hết sức chân thành: “Cô rất hiểu…” Sau đó, cô ấy lại thêm một câu như thế này:

“Thực ra… cô cũng từng nghe giọng của một người đáng lẽ là không có…”

Chúng tôi nhất loạt nhìn về phía cô Yumiko. Nét mặt cô Yumiko rất nghiêm túc, nhìn không có vẻ gì là đang nói dối đồng cảm với Remi nhưng tôi không có cảm giác rằng cô ấy có ý định kể ra tiếp ngay sau đó.

Khi ấy, cô chủ quán Satoh đã hướng mắt vào cô Yumiko, nói như sau:

“Là giọng của Aoba đúng không?”

Cô Yumiko mở to mắt nhìn, hỏi cô Satoh: “Sao chị lại…?”

Hiromu đã nói với cô Yumiko: “Aoba chính là con gái có thể trạng yếu ớt của cô đúng không?” Nhưng cô Yumiko chỉ im lặng cúi đầu.

Cô Satoh không nói gì, đứng lên, nói: “Thực ra hôm nay còn một vị khách nữa tôi đã mời tới đây!”, rồi ra phía cuối phòng để gọi người đó. Khi cô ấy dẫn người đó ra đứng trước mặt chúng tôi, cô Yumiko ngẩng đầu lên vừa mở to mắt vừa lẩm bẩm:

“Anh… Sao anh lại ở đây?”

Có một người khách nữa, đấy chính là chồng của cô Yumiko. Chú ấy ngồi xuống chỗ đối diện với cô Yumiko và nhẹ nhàng nói:

“Yumiko, chẳng phải đã tới lúc em cũng phải đối mặt với hiện thực giống như Remi rồi sao?”

Và chú ấy bắt đầu nói về lý do tại sao lại được mời tới đây.

“Chị Satoh đã đoán hôm nay rất có thể Yumiko sẽ lại nghĩ ngợi đau khổ… nên đã gọi tôi tới đây. Chính khoảnh khắc Remi có cùng cảnh ngộ với Yumiko chấp nhận hiện thực, có lẽ Yumiko cũng sẽ nhớ tới Aoba nên…”

Cô Yumiko và Remi có chung cảnh ngộ… Rốt cuộc là thế nào? Trong đầu tôi bắt đầu hoang mang, đúng lúc ấy, Hiromu đã hỏi chồng cô Yumiko một câu hỏi như là một lời xác nhận.

“Lẽ nào cô con gái có thể trạng yếu ớt lúc nào cũng ở trong nhà đã…”

Chồng cô Yumiko vừa khẽ gật đầu vừa trả lời câu hỏi của Hiromu:

“Aoba, con gái của chúng tôi… đã qua đời. Tám năm trước, con bé gặp tai nạn và bị thương rất nặng, rồi bị viêm phổi do biến chứng từ đó. Trước khi mở quán cà phê mèo này, chị Satoh đây đã từng là người điều trị tâm lý ở bệnh viện nơi Aoba nằm điều trị. Vì Aoba được chỉ định điều trị tâm lý nên người điều trị mà bác sĩ đã giới thiệu chính là chị Satoh. Nhưng việc Aoba phải điều trị tâm lý đã được giấu không cho Yumiko biết. Vì tôi nghĩ nếu Yumiko biết thì chắc chắn cô ấy sẽ lại tự đổ tội cho mình…”

Hiromu thật thà hỏi: “Có nghĩa là thế nào?”

Cô Yumiko vừa nhắm nghiền mắt không muốn chấp nhận hiện thực vừa khẽ nói:

“Aoba đã như bị tôi giết vậy… Lúc ấy, nếu tôi không tới trễ chỗ nó đang đợi, nó sẽ không bị cuốn vào vụ tai nạn đó…”

“Vụ tai nạn đó là…?”

Hiromu hỏi cô Yumiko với giọng dè dặt. Cô Yumiko lặng lẽ nghe trong khi mắt vẫn nhắm, rồi kể lại chuyện quá khứ đã giữ kín.

“Ngày hôm đó, cô đã hẹn sẽ cùng Aoba đi chùa để mua vật hộ mệnh. Vì Aoba ao ước được mặc bộ thủy thủ màu trắng tinh, mong muốn được học ở trường cấp hai tư thục, chuẩn bị tham gia kỳ thi đầu vào. Con bé vào ngày nghỉ cũng tới lò luyện thi, và lúc đi học về đã chờ cô ở nhà ga đúng khoảng thời gian đã hẹn. Ấy vậy mà cô đã mải nói chuyện khá lâu ở phòng khám ngay trên đường tới nhà ga và thế là cô đã đến trễ… Khi cô tới nhà ga… cô thấy Aoba đang nằm ngay trên đường trước cửa soát vé...” Giọng cô Yumiko nghẹn lại và chồng cô ấy đã thay cô ấy nói tiếp những gì xảy ra tiếp theo.

“Một tài xế say rượu đã đâm xe vào Aoba. Dù may mắn cứu được tính mạng nhưng khuôn mặt bị thương rất nặng… Từ đó trở đi, Aoba đã từng luôn tươi tắn, giờ đã khép kín tâm hồn.”

Theo lời của chồng cô Yumiko, sau đó, với vết thương trên mặt, Aoba không bao giờ hé miệng nói chuyện với bất kỳ ai nữa. Chú ấy nói cô Yumiko luôn đổ lỗi cho mình đã cướp đi tương lai của đứa con gái học giỏi, hát hay, chơi thể thao tốt… Rồi khi đang ở viện, Aoba đã bị viêm phổi do bị ngấm nước mưa và qua đời. Khi Aoba mất, cô Yumiko vẫn cứ tiếp tục nghĩ Aoba mang theo nỗi buồn phiền về chuyện của mình đi lên thiên đường, cô ấy không chấp nhận Aoba đã chết, và chọn cách sống không hề tồn tại từ “chết” đó.

Rồi chồng cô Yumiko lại nói tiếp:

“Chị Satoh đã không làm tư vấn điều trị tâm lý nữa sau khi Aoba mất, đã rất nhiều lần gửi thư cho tôi. Nhưng Yumiko luôn tâm niệm Aoba vẫn còn sống nên tôi đã không đưa cho Yumiko xem những bức thư của chị Satoh. Thế nên, lúc đó tôi đã nhắn với chị ấy là muốn bức thư này sẽ là bức cuối cùng. Tôi đã xác định tiếp tục cuộc sống của một gia đình gồm ba thành viên cho tới ngày Yumiko chấp nhận hiện thực.”

“Đúng như lời anh nhà chị nói. Qua việc để mất đi Aoba, tôi đã không còn sự tự tin đi cứu người nữa và đã từ bỏ công việc tư vấn điều trị tâm lý. Tôi cũng không viết thư nữa, có một thời gian tôi chẳng làm gì, cứ tiêu lẹm vào tiền tiết kiệm, rồi cho tới một lần, tôi đã gặp một con mèo con bị ướt sũng nước mưa. Vô tình, tôi cứ lồng ghép hình ảnh của Aoba. Cứ có hình ảnh Aoba bị viêm phổi do ngấm nước mưa ở trong vườn của bệnh viện cùng lúc hiện lên… Thế nên, theo bản năng, tôi đã nghĩ mình phải cứu mèo con đó… Tôi đã trùm con mèo trong áo cardigan rồi đưa về nhà. Chính nhờ có việc tôi bắt đầu nuôi mèo con đó, những người hàng xóm hay mang cho tôi thức ăn cho nó, nên tự nhiên thành ra có thói quen mọi người cứ tập trung ở nhà tôi, nhâm nhi tách trà với nhau…”

“Và đó là cơ duyên để cô mở quán cà phê mèo đúng không? Thế là chú mèo hồi đó cũng có ở trong số mấy con mèo kia?” Tôi vừa nhìn quanh quán vừa hỏi cô Satoh.

“Đúng. Nhưng chú mèo hồi đó không có ở đây, vì nó đã được một gia đình tốt bụng nhận nuôi, được coi như thành viên trong gia đình. Cũng nhân dịp chú mèo đó được nhận nuôi, cô đã tính biến quán cà phê này kiêm luôn cả việc chăm nuôi mèo, và từ đó tới nay cô vẫn tích cực làm công việc kết nối các con mèo với những người muốn nhận nuôi. Và cô nghe mọi người nói với nhau là có cuốn sổ tìm chủ nuôi được đặt trước quán Pachinko ở khu bên cạnh nên đã rất muốn xem. Cô đã nghĩ rằng có khi sẽ cứu được nhiều chú mèo hơn nữa.”

Chồng cô Yumiko xoa bờ vai bé nhỏ của cô Yumiko rồi bắt đầu nói tiếp luôn về chuyện đó:

“Chị Satoh nhìn thấy cuốn sổ đó là nhận ngay ra Yumiko cũng đang làm việc giống mình. Và rồi, sau tám năm, chị ấy lại viết thư cho tôi, ngỏ ý muốn giúp đỡ công việc của Yumiko. Tất nhiên, chị ấy sẽ không nói mình là người tư vấn tâm lý hồi xưa mà sẽ giới thiệu với tư cách là một người chủ quán cà phê.”

Cô Yumiko từ đầu tới giờ chỉ im lặng, nghe xong đã nói như thể ngắt lời chồng mình: “Vậy là lúc tôi tới đây, chị đã biết tôi là mẹ của Aoba? Và cũng biết luôn chuyện nhà tôi có ba người, tôi đang sống cùng chồng và con gái là nói dối?”

Chồng cô Yumiko nói như để xoa dịu cơn nóng đó của cô Yumiko: “Cái đó thì ở khu này ai cũng thế còn gì!”

Bất chợt tôi nhớ tới lúc đến nhà Remi. Cô ấy đã nói “Cứ bịa ra việc gì đó!” cũng là suy từ bụng mình ra. Với việc mọi người trong khu phố chấp nhận lời nói dối của cô Yumiko, cứ cho rằng Aoba vẫn còn sống, cô Yumiko đã cảm thấy nhẹ nhõm hơn.

Như xóa tan những nỗi buồn cứ chất chứa trong lòng suốt những năm tháng dài qua, cô Yumiko đã lẩm bẩm: “Nếu tôi không tới muộn… Chỉ vì tôi mà Aoba đã bị vết sẹo trên mặt, rồi luôn cảm thấy đau khổ, buồn phiền và đã tự giết bản thân mình…”

Tôi đã không thể cất lời, trong đầu hiện lên dấu chấm hỏi sau từ “tự tử”.

Khi đó, cô Satoh đã dứt khoát trả lời rất rõ ràng: “Không phải vậy!”

“Aoba không tự tử. Tôi nghe bác sĩ chính điều trị cho Aoba nói nguyên nhân là viêm phổi do biến chứng. Aoba đã bắt đầu hướng về phía trước, định sẽ lại có những nụ cười tươi như trước. Hơn nữa, hoàn toàn không có chuyện cô bé đổ lỗi cho mẹ mình huống chi là nghĩ tới chuyện tự tử.”

“Thế tại sao Aoba lại ngồi hàng giờ dưới mưa? Chính cô y tá đã phát hiện ra con bé cứ tiếp tục ngồi dưới trời mưa lạnh như thể cố ý tự làm mình bị viêm phổi còn gì? Điều đó không khác gì với cố tình tự tử! Tôi… Tôi đã dồn Aoba tới cái chết!”

Cô Yumiko không kiềm chế được bản thân, khóc nức nở, khuôn mặt buồn vô hạn giống hệt lúc Remi giàn giụa nước mắt lần trước.

Trong suốt tám năm ròng, bức tường sự thật mà cô ấy quay lưng lại giờ đã quá cao vượt hơn mức tưởng tượng. Nỗi buồn của cô Yumiko “đập mạnh” vào bức tường trước mặt rồi bật ngược trở lại, đâm nhói vào trái tim chúng tôi.

Rồi cô Yumiko đã òa khóc nức nở ở đó. Cô Satoh vừa nhẹ nhàng xoa lưng cô Yumiko vừa vô tình nói:

“Chị Yumiko này, chị có nghĩ người đang theo đuổi ước mơ sẽ tự tử không?”

“…Ước mơ?”

“Đúng. Ước mơ của Aoba đã được gửi gắm vào vật hộ mệnh mà Aoba rất trân trọng mà?”

“Trong… vật hộ mệnh?”

“Đúng vậy. Là vật hộ mệnh mà chị đã mua cho Aoba sau vụ tai nạn. Chị đã mua vật hộ mệnh đó để động viên cô bé có ước mơ, tiến về phía trước đúng không? Aoba đã đau lòng khi không thể nói trực tiếp với chị lời “Cảm ơn!”, nhưng cô bé có nói là khi ra viện sẽ cho mẹ biết về ước mơ mới của mình, rồi viết những suy nghĩ đó vào một tờ giấy, nhét vào vật hộ mệnh, cầm đi. Cô y tá chăm sóc Aoba nói lúc đó Aoba đã đưa cho mẹ mà…”

“Vâng, tôi có nhận được. Đến giờ nó vẫn là vật bất ly thân, tôi luôn mang nó bên người để có thể cảm nhận được hơi thở của Aoba. Nhưng, ước mơ được gửi gắm trong vật hộ mệnh lẽ nào là…”

Có khi cô Yumiko đã không thể chấp nhận nổi cái chết của con gái, khi nhận lấy vật hộ mệnh cũng chính là di vật của Aoba từ tay cô y tá, đã ở trong tình trạng không thể nghe nổi câu gì nữa? Và cho tới tận bây giờ, cô ấy vẫn chưa từng mở vật hộ mệnh đó ra. Cô Yumiko nhẹ nhàng lấy hai tay tháo sợi dây đang đeo ở cổ rồi run run mở vật hộ mệnh trước mặt chúng tôi. Và sau khi lấy ra một tờ giấy được gấp nhỏ, cô cùng chồng mình thận trọng mở ra, nhìn chăm chú vào những nét chữ của con gái đã viết từ hơn tám năm trước.

Đúng như lời cô Satoh nói, đó là những dòng chữ viết về giấc mơ của Aoba. Những ước mơ cô bé định tới một lúc nào đó sẽ nói với cô Yumiko được gói gọn trong tờ giấy con con.

“Mẹ, con cảm ơn mẹ đã cho con vật hộ mệnh này. Con nghe thấy bố nói rằng sau vụ tai nạn, mẹ đã tự mình đi mua nó cho con. Tâm lý của con vẫn chưa được ổn định và chưa thể cất lời cảm ơn mẹ được, mẹ cho con xin lỗi nhé. Tiếp nữa, con cũng xin lỗi mẹ khi mẹ đã động viên con tham dự kỳ thi, vậy mà con đã bỏ dở giữa chừng. Nhưng, mẹ à, con đã có một ước mơ khác. Đó là ước mơ trở thành bác sĩ thú y. Vì mẹ rất thích các con vật nên chắc chắn mẹ cũng sẽ ủng hộ con đúng không? Nếu là công việc liên quan tới các con vật thì dù mặt có bị sẹo như thế nào thì cũng chẳng thành vấn đề, với cả được mẹ phụ giúp làm cùng con thì tuyệt biết mấy… Tuy con không thể mặc bộ thủy thủ trắng tinh được nữa nhưng con sẽ cố gắng trở thành bác sĩ thú y để được mặc bộ áo blouse trắng của bác sĩ. Vậy nên, mẹ đừng tự dằn vặt bản thân nữa, mẹ hãy trở về đúng với con người vốn tươi vui của mình nhé. Con yêu khuôn mặt mẹ lúc cười lắm mẹ à!”

Để hướng tới một tương lai mới, để nhìn người mẹ mình yêu thương với khuôn mặt tươi tắn, Aoba tuổi vừa tròn mười hai đã quyết tâm sống trên cõi đời này. Không thể có chuyện cô bé với suy nghĩ như thế lại đi tự tử được. Chỉ trong một khoảnh khắc, những lời nói được gửi gắm trong mẩu giấy này đã cho chúng ta biết được điều đó. Tôi chưa từng gặp Aoba nhưng trong đầu tôi bỗng hiện lên hình ảnh một cô gái với khuôn mặt giống y hệt cô Yumiko.

Và cô Yumiko sau khi cất lại tờ giấy vào trong vật hộ mệnh, đã nói:

“Ban nãy cô có nói với Remi là cô cũng từng nghe giọng của một người đáng lẽ là không có…” đúng không? Đúng như chị Satoh nói, đó chính là giọng của Aoba. Con bé đã nói với cô: “Mẹ ơi, mẹ hãy cứ cười tươi lên!” Sau một đêm khóc đẫm nước mắt vì muốn gặp Aoba vô cùng, đến sáng, cô đã nghe lời nói đó thì thầm bên tai. Nếu được nghe lời nói đó, chỉ biết cười mà thôi đúng không? Chỉ biết tươi lên đúng không? Vì đó là lời thỉnh cầu của Aoba, người quan trọng nhất thế gian này cơ mà…”

Cô Yumiko lúc nào cũng tươi tắn đã luôn nở nụ cười trên môi hàng ngày vì cô con gái quan trọng nhất thế gian này của mình. Cô Satoh đã tiết lộ thêm một sự thật với cô Yumiko đang vừa khóc vừa ôm chặt lấy vật hộ mệnh.

“Chị Yumiko, thực ra tôi… tôi còn đang giữ một suy nghĩ nữa của Aoba.”

“!”

“Vì tôi nghe thấy mọi người nói chị đã không thể chấp nhận nổi cái chết của Aoba nên tôi đã giữ kín không nói… Vì giữ thứ này nên Aoba đã ngồi giữa trời mưa trong ngày hôm đó.”

Cô Satoh đứng lên, lấy chén trà mọi người đang uống, đưa cho cô Yumiko, nói.

“Tám năm trước, Aoba đã trồng một cây việt quất để thay đổi hoàn toàn suy nghĩ của bản thân, làm lại tất cả từ đầu.”

“Trồng cây việt quất ư?”

“Vâng, tên của Aoba vốn cũng được đặt nhân một dịp có liên quan tới cây việt quất đúng không chị?”

“Đúng, đúng. Hình như thế. Nhưng sao lại trồng cây việt quất?”

“Aoba rất tự hào về cái tên của mình. Trước khi chị sinh Aoba, hai vợ chồng chị đã đi sang Úc du lịch và đã tới thăm quan vườn cây việt quất đúng không? Lúc đó, hai vợ chồng chị đã rất ấn tượng trước một màu xanh ngát của lá cây việt quất và đã hứa với nhau khi sinh con sẽ đặt tên nó là “Aoba”*. Chính Aoba đã kể lại cho tôi điều đó với vẻ mặt rất hào hứng. Cô bé đã rất tự hào về cái tên mang đầy tình yêu thương của bố mẹ dành cho mình. Vì thế cô bé muốn chăm sóc cây việt quất vốn có liên quan tới tên của mình, đồng thời với việc đó sẽ làm mới mình và sẽ xuất phát lại một cuộc đời mới…”

⚝ ♪ ⚝

“Aoba” trong tiếng Nhật nghĩa là “lá xanh”.

“Vậy là cô bé muốn bảo vệ chồi cây việt quất lúc trời mưa…?”

Bỗng Remi có một nỗi buồn giống cô Yumiko đã hỏi vậy.

“Đúng, Aoba đã xin phép bệnh viện trồng một cây việt quất ở một góc vườn và chăm sóc nó rất cẩn thận. Mãi rồi cây cũng đâm chồi, nhưng vừa đúng lúc đó thì trời lại mưa to như bão… Cô y tá, người đã tìm thấy Aoba ở vườn hoa đã nói chắc là sau giờ tắt điện, Aoba đã lén ra khỏi phòng bệnh, cứ thế che ô cho chồi cây đến sáng… Có lẽ cô bé muốn bảo vệ chồi cây như là bảo v?