← Quay lại trang sách

PHẦN THỨ NHẤT (2) Vết Máu Dẫn Đường

Thứ Sáu ngày 1 tháng Bảy, 2005

Hàng rào đang được dựng lên ở khắp mọi nơi. Suốt trục cầu George Đệ Tứ và xuôi tuyến phố Princes, công nhân đang đặt rào chắn vào vị trí cần thiết. Các dự án cải tạo cầu đường và những công trình xây dựng đều bị tạm dừng thi công, những giàn giáo được di dời đề phòng chúng bị tháo ra chế thành vũ khí trong tay những kẻ biểu tình. Thùng thư bị niêm phong và nhiều cửa hàng đã bị bít kín bằng ván. Các cơ quan tài chính đã được cảnh báo, cán bộ viên chức được hướng dẫn không nên mặc đồ trang trọng - dễ khiến họ trở thành mục tiêu tấn công. Thị trấn này quá đỗi tĩnh mịch so với một buổi tối thứ Sáu. Xe thùng của cảnh sát tuần tiễu những phố chính, lưới sắt gắn trước kính chắn gió. Nhiều xe thùng nữa đậu khuất tầm nhìn trong những ngách phố ánh sáng lờ mờ. Cảnh sát hiện trường mặc trang phục chống bạo loạn cười lớn với nhau, trao đổi những câu chuyện từ các chiến dịch trước đây. Một số cựu binh từng tham gia chiến dịch trong suốt làn sóng biểu tình cuối cùng của công nhân ngành mỏ. Những người khác thi thoảng lại chèn vào giữa những ký ức này vài mẩu chuyện về các trận bóng đá vừa mới diễn ra, những cuộc biểu tình thuế khóa, hay tuyến đường Newbury. Họ trao đổi những đồn đãi về quy mô đúng như tưởng tượng của nhóm người Ý vô chính phủ.

“Hải cảng Genoa[*] đã tôi luyện đám người đó đấy.”

“Đúng cách chúng ta mong đợi, phải không các anh?”

Dáng vẻ hiên ngang, khí phách và tình cảm đồng đội thân thiết. Bất cứ khi nào chiếc bộ đàm trên tay phát ra mấy tiếng lạch xạch thì tất cả đồng loạt hạ giọng.

Những cảnh sát mặc đồng phục làm nhiệm vụ trên sân ga khoác áo khoác màu vàng tươi. Ngay cả ở đây, hàng rào đã được dựng lên. Chúng chặn các cửa ra, như vậy sẽ chỉ còn lại một lối ra vào duy nhất. Một vài sĩ quan mang theo máy quay phim để ghi hình khuôn mặt các hành khách đến từ những chuyến tàu Luân Đôn. Có những toa đặc biệt đã được đặt riêng cho những kẻ phản kháng, để dễ dàng khoanh vùng đám người này hơn. Cũng chẳng phải những kỹ năng này của cảnh sát thực sự cần thiết gì: người biểu tình hát vang những ca khúc, mang ba lô cồng kềnh, mặc những chiếc áo phông đính đầy huy hiệu và mang vòng cổ tay. Họ giương cao cờ và biểu ngữ, mặc quần rộng thùng thình, áo choàng ngụy trang của quân đội và đi ủng leo núi. Tin tức tình báo cho hay hàng đoàn xe buýt những kẻ biểu tình đã xuất phát từ phía nam nước Anh. Ước đoán sơ bộ nêu khoảng năm mươi nghìn người. Dự đoán mới nhất lại là xấp xỉ một trăm nghìn nữa từ phía bắc. Chừng ấy người, cùng với lượng du khách mùa hè, đã làm bùng nổ dân số của Edinburgh.

Đâu đó trong thành phố có một cuộc mít tinh làm tín hiệu mở đầu cho Các Lựa Chọn G8 Khác, loạt những cuộc diễu hành và mít tinh suốt cả tuần. Thêm cảnh sát sẽ có mặt ở đó. Nếu cần thiết, vài trong số này sẽ cưỡi ngựa tuần tra. Cả một lượng lớn cảnh sát điều khiển chó nghiệp vụ, tính luôn bốn người ở ngã tư sân ga Waverley. Chiến lược an ninh rất đơn giản: phô trương sức mạnh. Cứ để bất cứ kẻ định gây rối nào biết chúng sẽ phải đối đầu với những gì. Mặt nạ, dùi cui và còng tay; ngựa tuần tra, cảnh khuyển và xe tuần tra nữa.

Sự áp đảo của số lượng.

Công cụ của thương mại.

Chiến thuật.

Trong buổi đầu lịch sử thành lập thành phố, Edinburgh thường hay bị xâm lược. Người dân ẩn nấp sau những bức vách và cánh cổng, khi tường vách lẫn cánh cổng thất thủ, họ rút xuống hệ thống đường hầm như một mê cung chạy bên dưới phố High và tòa thành Edinburgh, bỏ lại thành phố trống không và chiến thắng chẳng vẻ vang. Nhưng tài tình là sau đó những cư dân ấy vẫn tiếp tục tổ chức Lễ hội tháng Tám thường niên. Khi dân số tăng lên, cư dân địa phương bớt hữu hình khác biệt, mà hòa lẫn vào nền cảnh thế giới. Điều này cũng có thể lý giải tại sao Edinburgh dựa chủ yếu vào những ngành công nghiệp “vô hình” như là ngành ngân hàng và bảo hiểm. Mãi đến sau này, nghe đâu quảng trường Thánh Andrews là giàu mạnh nhất châu Âu, kiêu hãnh vượt hàng loạt trụ sở của các tập đoàn đầu não. Mà nhờ có không gian vị trí hạng nhất, rất nhiều dự án cao ốc mới phát triển bùng nổ trên đại lộ Lothian và xa hơn nữa về phía tây, đến tận sân bay. Chính bởi thế, trụ sở ngân hàng Hoàng gia vừa mới khánh thành tại Gogarburn được chọn làm mục tiêu gây rối. Cùng chung số phận là các cao ốc thuộc sở hữu và là trụ sở của công ty bảo hiểm Standard Lite và ngân hàng Widows Scotland. Lái xe giết thời giờ qua từng con phố, Siobhan nhủ thầm thành phố này sẽ bị thử lửa chưa từng thấy trong những ngày tới đây.

Chợt một xe cảnh sát hộ tống rú còi inh ỏi, vượt qua xe của Siobhan. Không lẫn vào đâu nụ cười thích chí như của một cậu học sinh trên gương mặt người tài xế: đang tận hưởng từng phút giây tuyệt vời, Edinburgh chả đang hào phóng ban tặng anh ta nguyên cái đường đua cá nhân này. Một chiếc Nissan màu tía phóng ầm ầm đằng sau, bên trong chật cứng những thanh niên địa phương. Siobhan cho chiếc xe chừng mười giây để vượt qua rồi ra hiệu xin đường và hòa vào dòng xe cộ. Cô đang trên đường tới khu cắm trại tạm thời ở Niddrie. Một trong những khu vực ít mang vẻ trưởng giả nhất của Edinburgh. Đám người biểu tình được yêu cầu đến đây thay vì dựng lều căng bạt trong vườn nhà của dân địa phương.

Niddire.

Hội đồng đã quyết định lấy bãi cỏ bao quanh Trung tâm Jack Kane. Họ đang lên kế hoạch phục vụ cho mười nghìn du khách, thậm chí có thể lên đến mười lăm nghìn người. Nhà vệ sinh và nhà tắm di động đã được chuẩn bị sẵn sàng, và một hãng bảo vệ được thuê chịu trách nhiệm an ninh. Siobhan không đừng được ý nghĩ, khả năng mọi chuẩn bị này là để ngăn các băng nhóm địa phương ở bên ngoài hơn là phục vụ những người biểu tình ở bên trong khu vực. Dân địa phương bỡn nhau rằng trong vài tuần tới quanh những quán rượu sẽ bày bán hàng loạt đồ nghề cắm trại và lều bạt với giá rẻ như bèo. Siobhan đã đề nghị cha mẹ tới nghỉ trong căn hộ của cô. Dĩ nhiên là cô đã đề nghị: chính họ đã giúp cô mua nó. Họ sẽ ngủ trên giường; cô có thể nằm trên ghế tràng kỷ. Nhưng họ đã nhất định quyết: họ sẽ ngồi xe buýt vượt cả chặng đường dài tới đây và cùng cắm trại với “những người khác”. Họ từng trải qua đời sinh viên vào những năm 60, và cho đến tận bây giờ vẫn chưa hoàn toàn rũ bỏ hẳn được thời kỳ đó. Dù bây giờ đã xấp xỉ lục tuần - cùng thế hệ với Rebus - cha Siobhan vẫn cột tóc đằng sau kiểu đuôi ngựa. Còn mẹ cô vẫn diện những chiếc váy phần lớn là kiểu captan có thắt đai ở ngang lưng. Siobhan nhớ lại những lời cô đã nói với Rebus: Bởi anh chính là hình mẫu cảnh sát mà bố mẹ tôi sợ rằng con gái họ sẽ trở thành chứ sao nữa. Sự thật là, một phần trong cô bây giờ cảm thấy mình kiên quyết gia nhập lực lượng cảnh sát chủ yếu vì biết sẽ không nhận được sự ủng hộ từ cha mẹ. Sau tất cả những quan tâm thái quá của họ dành cho cô, cô cần được nổi loạn. Trả đũa cho những lần phải chuyển nhà, chuyển trường do yêu cầu về công việc dạy học của họ. Trả đũa chỉ đơn giản bởi vì nó nằm trong khả năng của cô. Lần đầu tiên khi cô tâm sự hẳn ra với họ, nét mặt bàng hoàng của họ gần như đã khiến cô phải chùn bước. Nhưng nếu vậy thì quá là yếu đuối. Đương nhiên họ ủng hộ, nhưng vẫn nói bóng gió rằng cái nghề cảnh sát này có lẽ sẽ chẳng giúp cô phát huy tối đa năng lực vốn có. Nhiêu đó cũng đủ khiến cô cương quyết biến dự định của bản thân thành hiện thực.

Vậy là cô trở thành một cảnh sát. Không phải tại thủ đô Luân Đôn nơi cha mẹ cô đang sống mà là ở tận Scotland, một nơi cô không hề để tâm cho đến khi tới nhập học đại học. Lời yêu cầu khẩn thiết cuối cùng từ cha mẹ cô:

“Đâu cũng được, nhưng đừng là Glasgow.”

Glasgow: với hình ảnh những tên tội phạm cứng đầu và văn hóa dao kiếm, cũng như tình trạng phân chia giáo phái phức tạp. Thế nhưng Siobhan lại phát hiện ra, đây là một nơi lý tưởng cho việc mua sắm. Nơi cô và bạn bè thi thoảng còn cùng nhau tận hưởng - những bữa tiệc xa hoa dẫn lối họ ở lại qua đêm trong các khách sạn hạng nhất, hoặc có khi là thử cảm giác của cuộc sống ban đêm, nhưng luôn tránh xa các hộp đêm đèn mờ có bảo kê canh gác ngoài cửa - một nguyên tắc trong những quy định liên quan đến rượu bia mà Rebus và Siobhan đã thống nhất. Trong khi đó Edinburgh lại chứng tỏ đây mới là nơi thực sự nguy hiểm đến mức cha mẹ cô không thể nào hình dung nổi.

Tất nhiên không đời nào cô kể với cha mẹ mình. Suốt các cuộc điện thoại hôm Chủ nhật cô đã cố tình lờ đi mấy câu dò hỏi tình hình của mẹ và thay vào đó cố chủ động hỏi mẹ mấy câu hỏi khác. Siobhan dự định đón cha mẹ tại bến xe buýt nhưng họ nói cần thời gian để dựng lều. Hình ảnh cặp vợ chồng già xấp xỉ sáu mươi tuổi loay hoay với lều bạt và dây dợ khiến cô phì cười khi dừng xe trước đèn đỏ. Năm ngoái họ đã xin nghỉ dạy về hưu sớm. Sống trong một căn hộ có diện tích vừa đẹp ở khu Forest Hill, tiền trả góp đã trả xong xuôi. Thường xuyên hỏi con gái mình có cần thêm tiền không…

“Con sẽ thuê khách sạn cho cha mẹ,” cô nói với họ qua điện thoại nhưng cả hai vị thân sinh đều nhất quyết không. Nhấn ga ngay sau tín hiệu đèn giao thông, cô tự hỏi liệu có phải là một hội chứng rối loạn tâm lý nào đó hay không.

Siobhan đậu xe trên trục đường Wisp, phớt lờ cái nón giao thông màu da cam dựng ngay trước mũi xe và gài mảnh thông báo Cảnh sát đang thực hiện Nhiệm vụ lên kính chắn gió. Nghe thấy tiếng động cơ xe, một nhân viên bảo vệ áo khoác vàng ngó ra xem xét. Anh ta khẽ lắc đầu chỉ mảnh thông báo, rồi đưa một bàn tay lên ngang cổ đoạn hất đầu hướng về phía sơ đồ tòa chung cư gần nhất. Siobhan gỡ bỏ mảnh thông báo, nhưng xe cô vẫn để tại chỗ.

“Băng nhóm quanh đây,” người bảo vệ nói. “Báo hiệu thế này có khác nào vẫy khăn đỏ trước bò tót đâu cơ chứ.”

Anh ta sượt tay qua túi áo và đứng thẳng người, ưỡn bộ ngực chắc nịch ra phía trước. “Sĩ quan, ngọn gió nào đã đưa cô tới đây?”

Đầu tóc húi cua gọn gàng, nhưng anh ta nổi bật với bộ râu quai nón đen rậm rịt cùng đám lông mày mọc lộn xộn.

“Thực ra là vấn đề dân sinh,” Siobhan trả lời và đưa thẻ căn cước của mình cho anh ta xem. “Có một đôi vợ chồng họ Clarke. Tôi có đôi lời cần nói với họ.”

“Xin mời đi theo tôi.” Anh ta dẫn cô tới một cánh cổng phía trong hàng rào bao quanh. Nó trông giống như hàng rào an ninh ở Gleneagles được thu nhỏ lại. Thậm chí còn có cả một kiểu chòi canh. Dọc hàng rào, cứ khoảng 10 mét lại có một nhân viên an ninh đứng gác. “Đây, cô đeo cái này vào,” người bạn mới vừa nói vừa đưa cho Siobhan một chiếc vòng tay. “Nó sẽ giúp cô bớt bị chú ý. Đây là biện pháp chúng tôi dùng để kiểm soát những người cắm trại vui vẻ này.”

“Rất hay,” cô nhận xét và nhận chiếc vòng từ người bảo vệ. “Cho đến thời điểm này thì mọi việc vẫn ổn chứ?”

“Đám thanh niên địa phương không thích thú lắm. Chúng cũng cố tìm cách để vào, nhưng mới chỉ đến thế thôi.” Anh ta khẽ nhún vai. Họ bước dọc theo lối đi bộ rải đá, né sang một bên giây lát khi một cô bé trượt pa tanh lướt qua. Mẹ cô bé đang ngồi bắt tréo chân trên mảnh đất bên cạnh căn lều và dõi mắt trông chừng con.

“Có bao nhiêu người ở đây thế?” Siobhan nhận thấy khó mà ước tính.

“Khoảng một nghìn gì đó. Ngày mai sẽ nhiều thêm.”

“Các anh không đếm số người ư?”

“Chúng tôi cũng không ghi tên họ đâu - bởi thế tôi cũng không chắc cô có thể tìm thấy người quen của mình ở chỗ nào. Chúng tôi chỉ được phép thu của họ một thứ duy nhất, đó là lệ phí cắm trại.”

Siobhan đưa mắt nhìn quanh. Mùa hè năm nay khô rang, nên mặt đất dưới chân vẫn rất cứng. Xa xa bên kia đường chân trời toàn những chung cư và dãy nhà nhấp nhô Siobhan có thể tưởng tượng ra bao nhiêu khung cảnh khác, những hình khối cổ xưa hơn: như công viên Holyrood[*] hùng vĩ và đỉnh đồi Arthur’s Seat[*] đầy kiêu hãnh. Cô nghe có tiếng cầu kinh rì rầm, vài tiếng ghi ta bập bùng cùng với tiếng còi thiếc. Tiếng cười giòn giã của con trẻ, và tiếng một em bé bập bẹ đòi mẹ cho ăn. Cả tiếng vỗ tay và tiếng chuyện trò nữa. Tất cả đột ngột im bặt bởi tiếng loa, một người đàn ông có mái tóc bù xù được giấu bên dưới chiếc mũ len ngoại cỡ đang nói. Chiếc quần chắp vá lõng thõng ở đầu gối và đôi dép lê loẹt quẹt dưới chân anh ta.

“Tại căn lều to màu trắng, thưa quý vị - chính là đang ở đó. Món cà ri rau củ thơm ngon với giá chỉ bốn đồng, cảm tạ sự hỗ trợ của nhà thờ Hồi giáo địa phương… Chỉ bốn đồng mà thôi…”

“Có thể cô sẽ tìm thấy người quen ở đó,” người dẫn đường của Siobhan nói. Cô cảm ơn anh ta và người bảo vệ quay trở lại vị trí làm việc của mình.

“Căn lều to màu trắng” hóa ra là một cái rạp lớn bằng vải và có vẻ như được trưng dụng làm chỗ hội họp của những người cắm trại. Ai đó đang gọi váng lên là một đội sắp sửa cùng nhau thẳng tiến vào thị trấn để làm một chầu. Hẹn năm phút nữa tập trung dưới lá cờ màu đỏ. Siobhan vừa đi qua một dãy nhà vệ sinh, nhà tắm di động cùng với hệ thống ống nước chằng chịt. Giờ thì cô chỉ cần để ý các túp lều quanh đây. Mọi người xếp hàng chờ lấy cà ri rất trật tự. Một người trong số họ cố đưa cho cô chiếc thìa nhựa nhưng Siobhan lắc đầu từ chối, ngay sau đó cô mới sực nhớ ra là đã khá lâu mình chưa có gì bỏ bụng. Bê trên tay chiếc đĩa nhựa chất đầy đồ ăn, cô quyết định sẽ đi dạo một vòng quanh khu cắm trại. Nhiều người đang tự nấu ăn với những nguyên liệu mà họ mang theo từ nhà bằng bếp du lịch. Bỗng một người chỉ về phía cô.

“Còn nhớ tôi hồi ở Glastonbury không?” họ gọi với theo cô. Siobhan chỉ biết lắc đầu. Rồi cô trông thấy cha mẹ mình và bất giác nở một nụ cười tươi tắn. Hai người đã dựng một chiếc lều cực kỳ kiểu cách: một gian lều lớn đỏ chót với những ô cửa sổ và một hiên vào có mái che. Bàn và ghế gấp, cùng một chai rượu mở sẵn bên mấy chiếc ly thủy tinh. Cha mẹ Siobhan đứng lên khi trông thấy cô, ba người trao nhau những cái ôm và những nụ hôn mừng rỡ rồi họ xin lỗi cô vì chỉ mang theo có hai chiếc ghế.

“Con ngồi trên cỏ được rồi mà,” Siobhan nói để cha mẹ cô an tâm. Có một người phụ nữ trẻ cũng đang ngồi ở đó rồi. Cô ta không hề rời chỗ khi Siobhan tiến tới.

“Chúng ta đang kể với Santal về con,” mẹ Siobhan nói. Bà Eve Clarke trông khá trẻ so với tuổi thực, dấu ấn thời gian để lại trên khuôn mặt của bà chỉ là vài vết nhăn xuất hiện mỗi khi cười. Nhưng ông Teddy, cha của Siobhan thì không được trẻ trung như vậy. Bụng ông đã phát tướng và những nếp da chảy xệ trên khuôn mặt. Ông đã hói trông thấy, túm tóc đuôi ngựa giờ đã chuyển sang màu xám và thưa thớt hơn bao giờ hết. Ông khoái chí đổ đầy rượu vào ly, thích thú tận hưởng thú vui đã gắn liền với cuộc sống của ông bao năm qua.

“Con tin chắc cô Santal đây thích mê,” Siobhan nói, tay cô đỡ lấy ly rượu từ cha.

Người phụ nữ trẻ hơi mỉm cười. Cô ta có mái tóc vàng hoe dài ngang vai trông hơi dơ dáy, không biết là vì đã được vuốt gel hay do lâu không gội mà những lọn tóc ấy cứ bện vào nhau thành từng đám trên đầu chủ nhân. Không trang điểm, nhưng nguyên một hàng khuyên chạy dọc vành tai và một chiếc nhỏ mỗi bên cánh mũi. Chiếc áo phông không tay ngắn cũn cỡn màu xanh sẫm giúp phô ra hình xăm Celtic trên cả hai vai và cái bụng trần khoe một chiếc khuyên khác ngay cạnh rốn. Vô số trang sức kỳ dị được tròng quanh cổ cô nàng, lủng lẳng trễ nải cùng với một vật nhỏ trông giống chiếc máy ảnh kỹ thuật số tích hợp chức năng quay phim.

“Cô là Siobhan,” cô ta nói với giọng hơi ngọng.

“Tôi e đúng là thế,” Siobhan vừa nói vừa nâng ly lên.

Một chiếc ly khác cùng chai rượu thứ hai trong giỏ mây đựng đồ dã ngoại đã được đưa ra.

“Từ từ đã nào, anh Teddy à,” bà Eve Clarke dịu dàng nói với chồng.

“Santal thì cần phải đầy có ngọn chứ,” ông giải thích, tuy nhiên Siobhan nhận thấy rượu trong ly của vị khách quý thực ra cũng đang còn đầy chẳng kém ly của cô.

“Vậy là ba người đã đi tới đây cùng nhau à?” cô hỏi.

“Santal vẫy xe xin đi nhờ từ Aylesbury,” ông Teddy Clarke trả lời. “Sau chuyến xe buýt kinh khủng vừa phải chịu đựng thì chắc lần sau cha cũng sẽ làm như cô ấy.” Ông đảo mắt nhìn vợ rồi hơi nhấp nhỏm trên ghế để vặn nắp chai rượu. “Giờ đến rượu cũng làm nắp xoay, cô Santal à. Đừng nói cuộc sống hiện đại không có vài điều tiện lợi.”

Kỳ thực, cô ta chẳng đáp lại câu nào. Bản thân Siobhan không lý giải được vì sao cô lại ngay lập tức có ác cảm với người phụ nữ xa lạ này, chỉ trừ một điều, cô ta là một người xa lạ. Siobhan mong có chút thời gian bên cha và mẹ cô. Chỉ ba thành viên trong gia đình cô mà thôi.

“Lều của Santal ở ngay sát lều cha mẹ,” bà Eve giải thích. “Cha mẹ đã nhờ cô ấy giúp đỡ một chút khi dựng lều…”

Chồng bà đột nhiên bật một tràng cười to, đoạn rót đầy ly của mình. “Cũng khá lâu rồi chúng ta mới lại đi cắm trại thế này đấy,” ông nói.

“Căn lều trông khá mới,” Siobhan nhận xét.

“Mượn đỡ của hàng xóm đó con,” mẹ cô nói nhỏ.

Santal lúc này đã đứng lên. “Có lẽ tôi nên đi…”

“Đừng vì chúng tôi nhé,” ông Teddy phản đối.

“Mấy người chúng tôi đang định vào thị trấn tìm một quán rượu xem thế nào…”

“Tôi rất thích chiếc máy ảnh của cô,” Siobhan nói.

Santal cúi nhìn chiếc máy ảnh dưới cổ. “Bất cứ kẻ nào âm mưu chụp hình tôi, tôi cũng muốn chụp lại kẻ đó. Phải công bằng chứ, đúng không?” Cái nhìn không chớp mắt của cô ta giống như buộc người đối diện phải đồng tình.

Siobhan quay sang nhìn cha cô. “Hóa ra hai người đã kịp tiết lộ về nghề nghiệp của con,” cô nói rất khẽ.

“Cô không thấy xấu hổ đấy chứ?” Santal bật ra từng từ.

“Thành thực mà nói thì ngược lại,” ánh mắt của Siobhan chuyển từ cha sang mẹ cô. Hai người đột nhiên tỏ vẻ chăm chú quan sát chai rượu đặt trước mặt họ. Khi quay lại nhìn Santal, cô thấy người phụ nữ trẻ đang chĩa máy ảnh về phía cô.

“Một kiểu cho album ảnh gia đình,” Santal nói. “Tôi sẽ gửi định dạng jpeg cho mọi người.”

“Cảm ơn,” Siobhan lạnh lùng trả lời. “Một cái tên kỳ lạ, phải không, Santal?”

“Nghĩa là gỗ đàn hương,” bà Eve Clarke trả lời.

“Ít nhất thì người ta cũng có thể đánh vần được nó,” Santal tự nói thêm.

Ông Teddy Clarke cười lớn. “Ta đã kể cho Santal nghe về cách chúng ta tìm cho con cái tên mà không một ai ở miền Nam có thể phát âm nổi.”

“Cha mẹ còn chia sẻ bí mật nào của nhà ta nữa không?” Siobhan xù lông. “Còn mẩu tâm sự hài hước nào mà con cần biết trước không?”

“Con gái bác quả là hay tự ái,” Santal thì thầm với mẹ của Siobhan.

“Cháu biết đấy,” bà Eve Clarke đồng tình, “thực sự chúng ta chưa bao giờ mong muốn nó trở thành…”

“Mẹ à, vì Chúa!” Siobhan chặn lời mẹ cô. Song những lời phàn nàn thêm nữa của bà bị cắt ngang bởi những âm thanh rộ lên từ phía hàng rào. Cô trông thấy một nhóm bảo vệ chạy rầm rập về hướng đó. Bên ngoài hàng rào có một đám thiếu niên choai choai đang giơ tay lên chào theo nghi thức Nazi. Chúng đều mặc áo đen có mũ trùm che kín mặt và đang yêu cầu bảo vệ phải trục xuất “tất cả bọn hippie cặn bã”.

“Cách mạng sẽ được bắt đầu ngay tại đây!” một đứa trong đám hét toáng lên. “Hãy đứng dựa vào tường, hỡi những kẻ bất tài!”

“Thật là đáng khinh,” mẹ Siobhan rít lên qua kẽ răng.

Nhưng lúc này những món đồ đã đang bị ném lên, bay vèo vèo qua khoảng trời nhá nhem tối.

“Nằm xuống!” Siobhan cảnh báo mọi người xung quanh, và chỉ kịp đẩy mẹ cô vào lều mặc dù không hoàn toàn tin tuởng căn lều có tác dụng gì trước một trận mưa đá cuội và vỏ chai thế kia. Cha cô tức tối xông lên phía trước, nhưng cô cũng đã kéo giật ông lại. Santal vẫn đứng nguyên tại chỗ, đang giơ máy ảnh về phía khung cảnh loạn đả.

“Các người chỉ là một lũ du khách!” một tên trong đám dân địa phương gào lên. “Mau cuốn xéo về nhà trên mấy cái xe thồ đã đưa các người tới đây!”

Những tiếng cười nhạo khàn đặc: những lời giễu cợt và điệu bộ. Nếu du khách không chịu ra ngoài, chúng sẽ chuyển mục tiêu sang đội bảo vệ. Nhưng tất nhiên là bảo vệ đâu có ngớ ngẩn đến thế. Thay vì xông ra bên ngoài, người bạn của Siobhan ban nãy đang gọi tiếp viện qua bộ đàm. Những tình huống như thế này có thể được dập tắt ngay lập tức nhưng cũng có khả năng bùng lên thành một cuộc hỗn chiến. Người bảo vệ thấy cô đã đang bên mình từ lúc nào.

“Không phải lo,” anh ta nói. “Chắc hẳn cô đã mua bảo hiểm…”

Mất một giây cô mới hiểu ra ý anh ta. “Xe của tôi!” cô hét lên rồi cắm đầu cắm cổ chạy về phía cổng vào khu cắm trại. Huých khuỷu tay gạt hai người bảo vệ. Chạy được ra ngoài đường. Chiếc mui xe cô đã mẻ và bị rạch nham nhở, cửa kính phía sau bị đập vỡ tan tành. Bốn chữ ĐTNN được xịt lên kính chắn phía trước.

Đội Thiếu Niên Niddrie.

Đám thanh niên đứng dàn hàng, khoái trá cười nhạo cô. Một đứa còn giơ điện thoại lên ghi lại khoảnh khắc chiến thắng với vẻ rất đỗi tự hào.

“Cứ chụp ảnh thoải mái đi,” Siobhan nói với nó. “Càng dễ truy ra mấy đứa.”

“Khốn nạn, cảnh sát đấy!” một đứa trong bọn la toáng. Nó đứng ở giữa đám trẻ, trên vai áo đeo một cái phù hiệu hàm trung úy.

Đứa thủ lĩnh.

“Đúng là cảnh sát đấy,” cô nói. “Chỉ cần đúng mười phút trong Sở Cảnh sát Craigmillar là tôi sẽ nắm rõ mọi thông tin về cậu hơn chính bà mẹ tội nghiệp của cậu nữa.” Cô giơ tay dọa nạt nhưng nó chỉ nhếch mép khinh khỉnh, càng phớt lờ khi cô gằn giọng cảnh cáo. Chỉ nhìn thấy phần dưới khuôn mặt nó, nhưng cô vẫn có thể nhận dạng được. Một chiếc xe đang trờ tới, ba người đàn ông bên trong. Siobhan nhận ra người ngồi phía sau: chính là ủy viên của hội đồng địa phương.

“Biến ngay đi!” ông ta vừa xuất hiện đã ré lên, liên tục xua hai tay như thể lùa lũ cừu trở vào chuồng. Mặc dù thằng bé thủ lĩnh giả bộ sợ hãi, nhưng có thể nhận thấy mấy đứa đồng bọn của nó đang thực sự nao núng. Nửa tá nhân viên an ninh đã tiến ra từ phía sau hàng rào, người bảo vệ có râu quai nón dẫn đầu cả nhóm. Còi báo động inh ỏi từ xa đang ngày một rõ hơn.

“Thôi nào, đi chỗ khác đi!” vị ủy viên hội đồng kiên quyết.

“Cả trại toàn một lũ ẻo lả biến thái!” tên thủ lĩnh cằn nhằn đáp trả ông ta. “Mà ai đã góp tiền dựng khu này hả?”

“Ta e rằng không phải là cậu, con trai ạ,” vị ủy viên đáp. Lúc này hai người đàn ông cùng đi trong xe đã bước ra đứng sát sườn ông ta. Cả hai trông đều cao to lực lưỡng, có vẻ như cả đời họ chưa một lần nào phải chùn bước trong mấy cuộc đối đầu. Chính kiểu người thăm dò ý kiến đối phương mà các chính khách ở Niddrie cần đến.

Cậu chàng thủ lĩnh nhổ toẹt xuống mặt đất, rồi quay người bỏ đi.

“Cảm ơn vì đã giúp giải quyết,” Siobhan nói và chủ động đưa tay về phía vị ủy viên.

“Có gì đâu,” ông ta trả lời và dường như đã gạt ngay toàn bộ vụ rắc rối ra khỏi tâm trí. Quên luôn cả Siobhan. Lúc này ông ta đang bắt tay người bảo vệ có râu quai nón, hai người này rõ ràng là đã biết nhau từ trước.

“Một tối bình yên đấy chứ?” vị ủy viên hỏi. Người bảo vệ hưởng ứng bằng một nụ cười ý nhị.

“Liệu chúng tôi có thể giúp gì cho ông, ông Tench?”

Uỷ viên Tench đưa mắt nhìn xưng quanh. “Tôi chỉ định ghé qua để báo cho tất cả những vị khách đáng mến ở đây biết rằng tôi sẽ kiên quyết ủng hộ họ trong cuộc chiến chống lại đói nghèo và bất công trên thế giới.” Bây giờ thì ông ta đã thu hút được một nhóm thính giả: có khoảng năm mươi người cắm trại đang đứng bên kia hàng rào. “Chúng ta biết cả hai điều đáng buồn đó đang phần nào hiện diện ngay tại khu vực này của Edinburgh,” ông ta gầm lên, “nhưng như vậy không có nghĩa là chúng ra không có thì giờ cho những người khổ cực hơn mình. Xin được mạn phép nghĩ rằng chúng ta là những người hào hiệp.” Ông ta nhận thấy Siobhan đang kiểm tra những hư hại trên chiếc xe của cô. “Có vài kẻ hoang dại trong chúng ta, nhưng đương nhiên là cộng đồng nào mà chẳng có.” Mỉm cười, Tench lại lần nữa dang rộng hai cánh tay, lần này giống như thể một người thuyết trình hoa mỹ.

“Xin chào đón quý vị đến với Niddrie!” ông ta nói với đám đông khán giả. “Xin chào đón tất cả mọi người!”

Lúc này chỉ có một mình Rebus còn ở lại trong dãy Phòng Điều tra Hình sự. Phải mất tận nửa giờ ông mới tìm được những giấy tờ liên quan tới việc điều tra vụ án mạng của Colliar: tất cả có bốn thùng lớn và một loạt cặp đựng hồ sơ; mấy cái đĩa mềm và một đĩa CD. Ông để mấy thứ đĩa mềm và CD lại trên giá trong kho lưu trữ, và bắt đầu bày đống giấy tờ ra trước mặt. Ông phải dùng tới tận sáu cái bàn làm việc, gạt hết cả các khay đựng tài liệu và bàn phím máy tính sang một bên. Bằng cách đi đi lại lại khắp phòng, ông có thể di chuyển qua các bước khác nhau của cuộc điều tra: từ hình ảnh hiện trường đến những cuộc thẩm vấn ban đầu; từ lý lịch của nạn nhân đến những lần thẩm vấn sau này; hồ sơ nhà tù; mối liên hệ với tay trùm Cafferty, biên bản giám định tử thi và xét nghiệm độc chất… Điện thoại trong buồng ngăn nhỏ của thanh tra từ nãy đến giờ đã đổ chuông mấy lần nhưng Rebus cố tình không nghe máy. Ông không phải là trưởng phòng thanh tra ở đây, người đó là Derek Starr. Và cái kẻ chuyên xun xoe nịnh bợ ấy giờ đang ngồi an nhàn đâu đó trong thị trấn, hôm nay là thứ Sáu cuối tuần mà lại. Rebus nắm rõ lịch trình của Starr bởi sáng thứ Hai nào chính hắn cũng kể đến cả mấy chuyện cỏn con lặt vặt với tất cả mọi người trong phòng: nào là hắn đã làm vài ly ở câu lạc bộ Hallion, sau đó hắn có thể sẽ về nhà tắm một cái và thay đồ rồi vào thị trấn; hoặc sẽ quay lại Hallion nếu chỗ ấy có gì hay hớm, nhưng sau đó kiểu gì hắn cũng đến phố George - câu lạc bộ Opal, bar Candy hay nhà hàng Living Room. Rồi sẽ làm trận cuối ở bar Indigo Yard[*] nếu trước đó vận may không mỉm cười với hắn. Có một quán jazz mới mở gần phố Queen, thuộc sở hữu của Jools Holland[*]. Starr cũng đã đăng ký làm thẻ hội viên ở đó.

Rebus vẫn phớt lờ khi chuông điện thoại kêu lần nữa. Người ta sẽ gọi trực tiếp vào di động của Starr nếu có chuyện gì cấp bách. Còn nếu cuộc gọi chuyển máy từ quầy thông tin thì… xem nào, họ đã biết Rebus đang ở trên này rồi còn gì. Ông sẽ chờ đến khi người ta chuyển cuộc gọi qua nhánh phụ tới điện thoại bàn của mình thay vì tới chỗ của Starr. Cũng có thể họ đang cố tình chơi khăm Rebus bằng cách khiến ông phải nhấc máy rồi sẽ giả vờ tạ lỗi và phân bua rằng họ đang tìm cách liên lạc với thanh tra Starr. Rebus hiểu rất rõ vị trí của mình trong chuỗi thức ăn ở cái hệ sinh thái này: đâu đó ở tầng đáy giữa các sinh vật phù du, cái giá phải trả cho bao lần trái lệnh cấp trên và lối hành xử liều lĩnh. Bất kể là toàn quá trình cũng đã có nhiều thành tựu: bởi trong chừng quan điểm xã hội ngày nay thì tựu trung lại tất cả vẫn chỉ là anh đạt kết quả như thế nào; hiệu quả và trách nhiệm, dư luận, những quy chuẩn và quy định nghiêm ngặt.

Rebus dịch gọn: tự biết che đậy.

Ông dừng lại trước một cái cặp hồ sơ đựng những tấm ảnh. Có một vài tấm ảnh đã được ông lấy ra trước đó và đang nằm lộn xộn trên khắp mặt bàn. Giờ thì Rebus đang lục nốt những tấm còn lại. Tư liệu đại chúng về Colliar: những bài viết cắt ra từ báo, ảnh chụp lấy ngay của gã do gia đình và bạn bè cung cấp, ảnh lưu trong hồ sơ chụp khi gã bị bắt giữ và khi bị xử tại tòa. Thậm chí ai đó còn chụp ảnh gã lúc vẫn còn “bóc lịch” trong tư thế ngả người trên nệm, hai tay vắt sau gáy nhởn nhơ coi chương trình truyền hình. Bức ảnh sau đó được đăng chễm chệ trên trang nhất của mấy tờ báo lá cải với cái tít: Liệu có còn viễn cảnh nào tươi sáng hơn dành cho con quỷ hiếp dâm?

Không còn viễn cảnh nào nữa.

Trên mặt bàn kế tiếp: tập hồ sơ chi tiết về gia đình của nạn nhân vụ hiếp dâm. Tên được bảo mật trước các phương tiện truyền thông đại chúng. Cô gái là Victoria Jensen. chỉ mới mười tám tuổi khi bị tấn công. Với những người thân yêu nhất cô bé là Vicky. Bị bám theo sau khi ra khỏi hộp đêm… bị bám theo khi cô đang đi cùng với hai người bạn ra bến xe buýt. Xe buýt đêm: Colliar may mắn tìm được cho mình một chỗ cách vị trí của ba người bọn họ chỉ vài hàng ghế. Rồi Vicky xuống xe một mình. Cô chỉ còn cách nhà chưa đầy năm trăm mét nữa thì hắn tấn công, bàn tay bịt chặt miệng cô, rồi lôi cô vào một ngõ nhỏ…

Hình ảnh thu được từ hệ thống kiểm soát an ninh CCTV cho thấy hắn đã rời hộp đêm ngay sau cô gái. Hệ thống còn thu lại được cả cảnh hắn lên xe buýt và chọn chỗ ngồi. Mẫu ADN được tìm thấy từ vụ hãm hiếp đã đóng một dấu niêm phong vào cuộc đời hắn. Một vài tên trong đám cùng băng đảng với hắn đã tham dự phiên xét xử và hăm dọa gia đình nạn nhân. Vậy mà cũng chẳng bị buộc tội gì.

Cha của Vicky là bác sĩ thú y; còn vợ ông làm việc cho công ty bảo hiểm Standard Lite. Đích thân Rebus đã tới ngôi nhà của họ ở Leith để báo tin về cái chết của Colliar.

“Cảm ơn vì đã cho chúng tôi biết,” cha cô gái nói. “Tôi sẽ sớm chuyển tin này cho Vicky.”

“Tôi e rằng ông chưa hiểu hết ý tôi, thưa ông.” Rebus đáp lời. “Có vài câu hỏi tôi cần trao đổi với ông…”

Có phải ông giết hắn?

Hay thuê người giết hắn?

Ông có biết người nào có thể bị ép làm chuyện này không?

Các bác sĩ thú y kiếm được thuốc dễ dàng. Có thể không phải là heroin, nhưng các loại thuốc khác có thể đổi lấy heroin. Bọn buôn lậu vẫn bán ketamine cho những tay chơi trong câu lạc bộ - chính Starr đã vạch rõ điểm ấy. Mà các bác sĩ thú y vẫn sử dụng ketamine để chữa bệnh cho ngựa.. Vicky bị hãm hiếp trong một con hẻm nhỏ, Colliar cũng bị giết trong một con hẻm tương tự. Những lời ám chỉ này đã khiến Thomas Jensen cảm thấy bị xúc phạm ghê gớm.

“Ý ông là ông thực sự chưa bao giờ từng nghĩ tới việc giết Colliar sao? Chưa một lần nào lên kế hoạch để trả thù tên côn đồ ấy?”

Tất nhiên là ông ta đã tưởng đến: hình ảnh Colliar thối thây trong chốn ngục tù hay bị vứt vào chảo dầu sôi sùng sục dưới địa ngục. “Nhưng mấy chuyện đó thì làm sao mà xảy ra được, phải không ngài thanh tra? Không phải trong cái thế giới này…”

Bạn bè của Vicky cũng được thẩm vấn và không một ai trong số họ có ý định thú tội.

Rebus chuyển sang bàn tiếp theo. Dường như tên trùm Morris Gerald Cafferty trừng mắt nhìn giả ông từ các bức ảnh và biên bản thẩm vấn. Rebus đã buộc phải bảo vệ lập luận của mình trước khi Macrae để ông bén mảng tới gần những thứ này. Cảm tính mà nói điểm chung giữa hai người bọn họ rất sâu xa. Một số người nghĩ họ là kẻ thù; số khác lại cho rằng họ na ná nhau… và người này đã trở nên quá quen thuộc với người kia. Starr từng bày tỏ mối quan ngại trước mặt cả Rebus lẫn tổng thanh tra Macrae. Và đến khi nghe Macrae kết luận “John à, anh đừng quá coi trọng mục tiêu cá nhân,” Rebus đã không thể kiềm chế được cơn nóng giận, ngay lập tức lao vào túm lấy cổ áo tay đồng nghiệp đểu cáng.

Cafferty quả là một tên anh chị sừng sỏ: bàn tay của hắn không bỏ qua phần bánh hái ra tiền nào trong thế giới ngầm. Nhà tắm hơi và dịch vụ bảo kê; rồi đâm thuê chém mướn và dằn mặt hăm dọa. Tất nhiên không thể thiếu ma túy, thứ giúp hắn tiếp cận heroin. Và nếu không phải là đích thân Cafferty thì chắc chắn là bọn đàn em làm bảo kê ở các câu lạc bộ như Colliar sẽ dính dáng đến. Không phải không phổ biến chuyện các hộp đêm bị đóng cửa khi hóa ra những tay gọi là bảo kê kiêm gác cổng kia lại kiểm soát luồng ma túy tuồn vào trong các cơ sở kia. Bất cứ ai trong đám này cũng có khả năng đưa ra quyết định là phải trừ khử “Con Quỷ Dâm Đãng” kia. Cũng có thể chỉ là hiềm khích cá nhân: như lời qua tiếng lại miệt thị hay tỏ thái độ trêu đùa một cô bạn gái của bọn chúng. Hàng tá động cơ giết người khác nhau đã được soi xét cực kỳ tỉ mỉ và điều tra trên diện rộng. Người ngoài nhìn vào thì thấy đúng là một cuộc điều tra y-như-sách-dạy. Không ai có thể phủ nhận. Ngoại trừ… Rebus dám nói tâm huyết của đội điều tra không đặt ở vụ án này. Vài câu hỏi thẩm vấn đã bị bỏ qua đây đó; vài đại lộ bị bỏ lại không lục soát. Và nhiều biên bản bị ghi chép một cách cẩu thả. Đó là những chi tiết mà chỉ những ai sát sao với vụ án mới để ý tới. Nỗ lực truy tìm thủ phạm nửa vời như vậy cũng đủ để thấy nhóm điều tra thực sự nghĩ gì về “nạn nhân” của họ.

Tuy nhiên, công tác khám nghiệm tử thi lại được thực hiện hết sức kỹ lưỡng. Giáo sư Gates đã từng nói: ông không phân biệt ai đang nằm trên bàn mổ của mình. Họ đều là con người, và hiển nhiên là đứa con thân yêu của cha mẹ họ.

“Không ai sinh ra đã là người xấu, John à,” giáo sư lẩm bẩm, vừa nghiêng người trên con dao mổ.

“Thì cũng không ai buộc họ trở thành kẻ xấu cả,” Rebus vặn lại.

“À,” giáo sư Gates nhượng bộ. “Một vấn đề hóc búa mà biết bao bộ óc siêu việt hơn chúng ta đã nghiền ngẫm hàng thế kỷ qua. Sao chúng ta cứ mãi gây chuyện xấu như thế này cho nhau?”

Lúc ấy Rebus chưa trả lời. Nhưng có gì đó khác mà vị giáo sư đã chỉ ra khiến Rebus chấn động và ông bước tới bàn làm việc của Siobhan, nhặt một trong những tấm hình khám nghiệm tử thi của Colliar lên. John à, chết rồi thì tất cả chúng ta đều trở thành vô tội… Quả đúng là khuôn mặt Colliar trông rất đỗi thanh thản, cứ như thể chưa từng có điều gì vướng bận…

Tiếng chuông điện thoại trong văn phòng Starr lại vang lên. Rebus để mặc nó đổ chuông, và nhấc máy nhánh ở bàn làm việc của Siobhan thay vào đó. Có một mảnh giấy ghi chú được dính vào mặt bên ổ cứng máy tính của cô: những hàng tên và số điện thoại. Ông biết sẽ không ích gì nếu gọi tới phòng thí nghiệm nên gọi thẳng vào số di động.

Ray Duff bắt máy ngay lập tức.

“Ray à? Là thanh tra Rebus đây.”

“Ngài thanh tra gọi để rủ tôi cùng đi la cà rượu chè vào đêm thứ Sáu đấy hả?”

Rebus không nói gì, và được đáp lại bằng một tiếng thở dài ở đầu máy bên kia. “Sao tôi không thấy bất ngờ cơ chứ?”

“Nhưng anh khiến tôi bất ngờ đấy, Ray à, bỏ bê nhiệm vụ của anh như thế…”

“Tôi không ngủ ở phòng thí nghiệm, anh biết đấy thôi.”

“Phải, ngoại trừ hai ta đều biết đó chỉ là nói dối.”

“Thôi được, tôi làm việc những đêm có việc…”

“Đó chính là điều mà tôi thích ở anh, Ray ạ. Anh thấy đấy, cả hai ta đều có chung niềm say mê dành cho công việc.”

“Niềm đam mê của tôi là thò mặt ra trong trò thi đố đêm cuối tuần ở quán rượu thị trấn, anh biết mà?”

“Tôi không có tư cách đánh giá anh, Ray. Tôi chỉ đang tự hỏi không biết tình hình chứng cứ mới vụ Colliar này tiến triển tới đâu rồi.”

Có tiếng cười khúc khích mệt mỏi ở đầu dây bên kia. “Anh không bao giờ từ bỏ, nhỉ?”

“Đây không phải là cho bản thân tôi, Ray. Tôi chỉ đang giúp Siobhan. Sẽ là một bước tiến lớn trong sự nghiệp nếu cô ấy giải quyết được vụ này. Cô ấy chính là người tìm ra mảnh áo đó.”

“Chứng cứ vừa tới ba giờ trước.”

“Từng nghe câu cờ đến tay ai người nấy phất không?”

“Nhưng John à, bia trước mặt tôi đang mát lạnh.”

“Điều này hết sức có ý nghĩa với Siobhan. Cô ấy đang chờ anh giật giải đấy.”

“Giật giải gì cơ?”

“Cơ hội cho anh khoe cô ấy chiếc xe độc đáo của anh. Một ngày về vùng nông thôn, chỉ có mỗi hai người với nhau trên những con đường lộng gió. Ai mà biết được, có khi còn thêm một phòng khách sạn cuối ngày nếu anh khéo làm cô ấy vui lòng.” Rebus bất chợt ngừng lại. “Tiếng nhạc gì thế?”

“Một trong những câu đố ấy mà.”

“Nghe như ban Steely Dan. Bài ‘Điệu vũ quay xa xưa’.”

“Mà tên gọi của ban nhạc này bắt nguồn từ đâu?”

“Từ một thứ đồ chơi tình dục trong tiểu thuyết của William Burroughs. Giờ hãy nói với tôi rằng anh sẽ tới phòng thí nghiệm ngay sau khi…”

Khá hài lòng với kết quả của cuộc nói chuyện, Rebus tự thưởng cho mình một cốc cà phê và ít phút thư giãn đôi chân. Tòa nhà tĩnh lặng. Một trung sĩ bàn giấy vừa thay ca cho một cảnh sát viên cấp dưới. Rebus không biết mặt người này nhưng vẫn gật đầu chào.

“Tôi đã cố gọi Phòng Điều tra Hình sự nhưng không được,” viên sĩ quan trẻ nói. Anh ta miết ngón tay chỉnh lại cổ áo. Cổ anh ta hơi rỗ vì trứng cá hoặc một chứng mề đay gì đó.

“Chắc là tôi đấy,” Rebus trả lời. “Việc gì khẩn cấp vậy?”

“Thưa ngài, có chút rắc rối ở lâu đài[*].”

“Biểu tình bắt đầu sớm ư?”

Viên cảnh sát lắc đầu. “Có người báo đã nghe thấy tiếng thét và trông thấy một thân thể rơi xuống công viên Gardens. Có vẻ như ai đó ngã từ bờ thành.”

“Lâu đài đâu mở cửa vào giờ này buổi đêm,” Rebus khẳng định, lông mày ông nhướn lên.

“Tiệc tối cho một số đại biểu cốt cán…”

“Thế rốt cuộc ai làm um lên?”

Viên cảnh sát chỉ nhún vai. “Tôi có nên báo lại với họ là không ai trong sở ta đang rảnh?”

“Đừng ngớ ngẩn thế, con trai,” Rebus tuyên bố, vừa đi thẳng về phòng vơ vội chiếc áo khoác.

Vừa là một địa điểm thu hút khách du lịch chủ chốt, Lâu đài Edinburgh vừa đảm nhiệm vai trò của một doanh trại quân đội, điều này được trung tá David Steelforth nhấn mạnh với Rebus khi chặn ông ngay bên trong khung lưới sắt chắn cổng.

“Vậy là ngài đã được thông báo về vụ việc,” Rebus đáp lại. Người của Cơ quan Đặc vụ ăn vận trang trọng: nơ bướm cùng bộ vét đen dự tiệc tối, khăn xếp li quấn quanh thắt lưng và giày da hàng hiệu.

“Chuyện là, như thế có nghĩa mọi việc hoàn toàn dưới sự bảo vệ của các lực lượng vũ trang…”

“Tôi không chắc sự ‘bảo vệ’ mà ngài muốn nói là gì, thưa trung tá.”

“Có nghĩa,” Steelforth rít lên, mất hết kiên nhẫn, “lực lượng Quân cảnh sẽ điều tra nguyên nhân cơn cớ mọi chuyện đã xảy ra ở đây.”

“Tiệc tối tuyệt vời đây chứ?” Rebus vẫn tiếp tục thả bộ. Con đường dốc ngược lên đồi, những cơn gió mạnh ào ào thốc vào hai người đàn ông.

“Thanh tra Rebus này, đang có rất nhiều nhân vật quan trọng ở đây.”

Như ám hiệu từ trước, một chiếc xe hơi xuất hiện từ chỗ tựa con đường hầm phía trước. Chiếc xe nhằm hướng cổng, khiến cho Rebus và Steelforth phải né sang một bên. Rebus thoáng thấy một khuôn mặt ở hàng ghế sau: một tia sáng lóe từ cặp kính mạ kim loại, khuôn mặt dài nhợt nhạt đầy lo âu. Cũng đâu phải lần đầu ngài Bộ trưởng Bộ Ngoại giao có cái vẻ bồn chồn lo lắng ấy, Rebus tán chuyện với Steelforth. Người của Cơ quan Đặc vụ nhăn mặt, chán ngán trước câu nhận xét.

“Hy vọng rằng tôi sẽ không phải thẩm vấn ông ta,” Rebus nói.

“Thanh tra, anh nghe này…”

Nhưng Rebus đã chuẩn bị rời đi. “Vấn đề là thế này, thưa trung tá,” Rebus nói với qua vai. “Nạn nhân có thể đã ngã - hoặc nhảy xuống, hoặc có thể vì bất cứ một nguyên nhân cơn cớ nào khác - và tôi cũng không bàn cãi việc nạn nhân đang đứng trên đất quân đội khi anh ta bị thế… nhưng anh ta đã rơi cách công viên Gardens trên phố Princes vài trăm bộ về phía nam.” Rebus nở một nụ cười. “Và thế nên anh ta là của tôi.”

Rebus vẫn bước về phía trước, vừa đi ông vừa cố gắng nhớ lại lần cuối cùng ông bước chân vào bên trong những bức tường lâu đài. Tất nhiên có một vài lần ông đưa con gái mình tới đây, nhưng đã hai mươi năm có lẻ về trước. Lâu đài này thống trị nền trời Edinburgh. Người ta có thể trông thấy nó từ tận vành đai Bruntfield và Inverleith. Trên đường từ sân bay vào thành phố, lâu đài trông hệt như hang ổ Transylvania hắc ám, khiến cho du khách cứ ngỡ mình bị mù màu. Nhìn từ phía lũy thành Johnson Terrace, đường Lothian hay phố Princes những sườn núi lửa dốc thẳng đứng vững chắc không gì lay chuyển nổi - và chúng đúng là bất khả xâm phạm qua bao năm tháng. Còn nếu xuất phát từ khu Lawnmarket, người ta leo một con dốc thoai thoải dẫn tới lối vào hầu như không tiết lộ tí gì về vẻ nguy nga đồ sộ bên trong.

Rebus gần như lúng túng trên đường lái xe từ sở quảng trường Gaytield tới lâu đài. Đội cảnh sát mặc cảnh phục không cho ông đi qua cầu Waverley. Tiếng rít ken két và loảng xoảng của kim loại làm barrier được kéo vào vị trí cho buổi diễu hành ngày hôm sau. Làm như không nhìn thấy cử chỉ ra hiệu quay xe tìm đường khác, Rebus vẫn bấm còi inh ỏi. Khi một cảnh sát tiến tới gần, ông mới hạ thấp cửa xe và chìa giấy phép thông hành ra.

“Đường này phong tỏa rồi,” viên cảnh sát nói. Giọng Anh, có lẽ là vùng Lancashire.

“Tôi thuộc Phòng Điều tra Hình sự,” Rebus nói với anh ta. “Sau tôi có thể còn có một xe cấp cứu, một chuyên viên giám định pháp y và một xe tải của Đội Giám định Hiện trường. Anh cũng định nói với họ như vậy?”

“Có chuyện gì?”

“Ai đó vừa mới rơi xuống công viên Gardens.” Rebus hất cằm về phía lâu đài.

“Bọn biểu tình chết tiệt… hồi sớm một tên bị mắc kẹt trên núi đá. Phải huy động tới thang cứu hỏa để đưa hắn xuống.”

“Ừm, tôi cũng thích chuyện trò dông dài lắm nhưng mà…”

Viên cảnh sát cau mặt, nhưng vẫn kéo barrier sang một bên.

Thế nhưng ngay lúc này đây một cái barrier lại tự đến án ngữ ngay trước mặt Rebus: chính là trung tá David Steelforth.

“Thanh tra ạ, đây là một cuộc chơi nguy hiểm. Tốt hơn nên để cho các chuyên gia bên Cục Tình báo chúng tôi.”

Đôi mắt Rebus nheo lại. “Ông đang bảo tôi đần độn?”

Một tiếng cười bật ra khô khốc. “Không hề.”

“Tốt.” Rebus đi qua mặt ông ta. Ông đã nhìn thấy nơi ông nên đến. Đám lính gác đang ngó nghến qua bờ tường có lỗ châu mai. Gần đó có một nhóm những người đàn ông đứng tuổi với dáng vẻ đạo mạo trong trang phục tiệc tối đang quanh quất gần đó hút xì gà.

“Đây là nơi anh ta ngã xuống?” Rebus hỏi nhóm lính gác. Ông đã mở sẵn thẻ căn cước, nhưng rồi lại quyết định không để họ biết ông là cảnh sát mặc thường phục.

“Chắc chắn phải ở quanh chỗ đó,” có tiếng ai đó trả lời.

“Có ai trông thấy không?”

Nhóm lính lắc đầu. “Trước đấy có một vụ rắc rối,” vẫn tiếng người lính lúc nãy nói. “Một thằng dở bị mắc kẹt trên dãy núi đá. Chúng tôi được cảnh báo là sẽ có thêm nhiều kẻ có thể cố bắt chước.”

“Rồi sao?”

“Rồi binh nhì Andrew trông thấy có thứ gì đó ở phía bên kia.”

“Tôi đã nói là tôi không chắc,” Andrew phân bua.

“Vậy là tất cả các anh đều chạy sang phía bên kia lâu đài?” Rebus làm bộ hít một hơi thật sâu. “Hành động đó trước đây gọi là ‘rời bỏ vị trí chiến đấu’ đấy.”

“Thanh tra Rebus không có quyền xử phạt ở đây đâu,” Steelforth nói với đám binh lính.

“Và tội đó còn có thể bị xem là phản quốc,” Rebus cảnh cáo.

“Liệu chúng ta có biết được ai đã vắng mặt không?” một người trong số những người đàn ông đứng tuổi cất tiếng hỏi.

Rebus nghe thấy tiếng một chiếc xe hơi khác đang tiến về phía khung lưới sắt. Ánh sáng từ đèn pha của chiếc xe hắt những hình thù quái dị lên bức tường phía trước. “Khó mà nói được khi tất cả đều trốn việc như thế,” Rebus nói khẽ.

“Không có ai là kẻ ‘trốn việc’ cả,” Steelforth bật lại.

“Chỉ là hàng đống việc cần được ưu tiên khác, phải không?” Rebus vặn lại.

“Thanh tra này, anh phải hiểu là có những người bận khủng khiếp. Những nghị quyết đang được thông qua có thể sẽ thay đổi cả thế giới đấy.”

“Cũng chẳng thay đổi được chuyện đã xảy ra cho kẻ xấu số ngã xuống đằng kia.” Rebus hất cằm về phía tường bao, rồi quay người lại đối diện với Steelforth. “Vậy thưa trung tá, chuyện gì đang diễn ra ở đây tối nay?”

“Thảo luận nghị quyết trong bữa tối. Đang tiến tới việc phê chuẩn.”

“Quả là tin tốt cho bàn dân thiên hạ. Còn những vị khách?”

“Các đại diện G8 - các ngoại trưởng; nhân viên an ninh và nhân viên công vụ cấp cao nữa.”

“Chắc là còn chưa tính bánh pizza và một, hai thùng bia.”

“Rất nhiều vấn đề được giải quyết tại những cuộc gặp chung như thế này.”

Rebus ngó nhìn về phía gờ tường thành. Chưa bao giờ ông thấy hứng thú với độ cao và lần này cũng không ngoại lệ. “Chẳng nhìn được cái khỉ gì hết,” ông nói.

“Chúng tôi đã nghe thấy tiếng anh ta,” một người trong đám lính nói.

“Chính xác là các anh nghe thấy gì?” Rebus hỏi.

“Tiếng thét khi anh ta rơi xuống.” Cậu lính đưa mắt nhìn đồng đội tìm kiếm sự ủng hộ. Một người gật đầu.

“Có vẻ như la hét suốt quá trình rơi xuống,” tay lính nói thêm, vừa khẽ rùng mình.

“Có thể tiếng thét đã loại trừ khả năng tự sát không?” Rebus suy luận. “Ngài nghĩ sao, thưa trung tá?”

“Tôi nghĩ anh chẳng còn gì để tìm hiểu ở đây nữa, thanh tra ạ. Tôi cũng thấy quả là kỳ quặc bởi cứ hễ ở đâu có tin chẳng lành thì ở đó ló ra mặt anh.”

“Thật khôi hài, tôi cũng vừa có suy nghĩ tương tự thế,” Rebus nói, ánh mắt xói thẳng vào mắt Steelforth, “về ngài…”

Nhóm tìm kiếm bao gồm các nhân viên an ninh mặc áo khoác vàng từ phiên trực tại hàng rào chướng ngại vật. Được cấp đuốc soi, họ không mất nhiều thời gian tìm kiếm. Nhân viên y tế công bố người đàn ông đã tử vong và bất cứ ai cũng có thể là thủ phạm gây án. Cổ anh ta bị gập ở tư thế bất thường; một bên cẳng chân bị gập làm đôi do tác động của cú ngã; máu vẫn đang rỉ ra từ hộp sọ. Một chiếc giày bị tuột khi anh ta rơi xuống còn áo sơ mi thì rách tung, có lẽ do móc phải những mỏm đá nhô ra trước. Chuyên viên Giám định Hiện trường duy nhất được Sở Cảnh sát điều đến đang chụp hình thi thể.

“Anh có muốn làm ván đánh cược nho nhỏ về nguyên nhân cái chết không?” người chuyên viên hỏi Rebus.

“Không đời nào tôi lại đi đánh cược với anh, Tam à.” Người chuyên viên Giám định Hiện trường tên Tam chưa lần nào chịu thua dễ đến cả năm mươi, sáu mươi lần cá cược như thế này.

“Người này đã nhảy xuống hay anh ta bị đẩy ngã, đó là điều anh đang băn khoăn.”

“Anh đúng là biết đọc suy nghĩ của người khác. Anh có biết xem chỉ tay luôn không?”

“Không, nhưng tôi chụp bàn tay họ.” Và để chứng minh luận điểm của mình, anh ta lấy cận cảnh hơn một trong hai bàn tay nạn nhân. “Những vết cắt và xước này rất hữu dụng đấy John. Anh biết tại sao không?”

“Gây ấn tượng đi nào.”

“Nếu người này bị xô ngã, chắc chắn anh ta đã phải quờ quạng tìm điểm bám và có lẽ là đã chụp vào những mặt đá.”

“Nói tôi những chuyện tôi không biết ấy.”

Người chuyên viên bấm nút chụp ảnh lần nữa. “Tên người đàn ông này là Ben Webster.” Anh ta quay lại nhằm phán đoán phản ứng của Rebus và lấy làm hài lòng với kết quả. “Tôi nhận ra khuôn mặt anh ta - ít nhất thì cũng phần còn lại của khuôn mặt ấy.”

“Anh quen người này ư?”

“Tôi biết anh ta là ai. Một nghị sĩ Quốc hội từ Dundee lên.”

“Quốc hội Scotland?”

Tam lắc đầu. “Cái ở Luân Đôn cơ. Anh ta làm gì đó liên quan tới Phát triển Quốc tế - chí ít là cho đến lần cuối mà tôi gặp anh ta.”

“Tam à…” giọng nói của Rebus nghe cáu kỉnh. “Thế quái nào mà anh biết tất cả những chuyện này?”

“Phải theo sát chính trị chứ, John. Chính cái đó giữ cho bánh xe cuộc sống tiếp tục quay mà. Thêm nữa, anh bạn trẻ của chúng ta còn trùng tên với giọng ca tếch-nô mà tôi yêu thích.”

Rebus đã đang lảo đảo quay trở xuống con dốc um tùm cỏ. Cái xác lúc này đã yên vị trên một thềm đá chừng năm mét bên trên con đường nhỏ uốn khúc quanh chân đống đá núi lửa phun trào thời xa xưa. Steelforth cũng đang trên con đường, vừa rút máy điện thoại nhận một cuộc gọi. Ông ta sập tắt máy khi Rebus tiến lại gần.

“Nhớ lại xem,” Rebus nhắc vị trung tá, “chúng ta đã trông thấy ngài Ngoại trưởng rời đi trong xe có tài xế riêng ra sao? Khác thường ở chỗ ông ta rời đi mà không có tùy tùng nào bên cạnh”

“Ben Webster,” Steelforth thông báo. “Là lâu đài gọi đến; có vẻ như anh ta là người duy nhất hiện đang vắng mặt.”

“Phát triển Quốc tế.”

“Ô, thanh tra của chúng ta đã được thông tin vô cùng đầy đủ.” Steelforth làm bộ đưa mắt nhìn Rebus một lượt từ trên xuống dưới. “Chẳng lẽ tôi thực sự nhìn nhầm anh sao. Nhưng Phát triển Quốc tế là một phòng biệt lập với Bộ Ngoại giao. Tay Webster này là Thư ký riêng của Quốc hội đấy.”

“Nghĩa là sao?”

“Cánh tay phải của Ngài Bộ trưởng chứ sao nữa.”

“Xin thứ lỗi cho vốn kiến thức nông cạn.”

“?