← Quay lại trang sách

PHẦN THỨ NHẤT (4) Vết Máu Dẫn Đường

Thứ Sáu ngày 1 tháng Bảy, 2005

Siobhan tới được công viên Meadows thì hàng người diễu hành chờ đợi cũng đã kéo dài ra hết cả con đường đổ xuống khu bệnh xá cũ và vắt ngang qua cả sân vận động tới chỗ từng hàng xe buýt đang đỗ san sát nhau. Có tiếng ai đó oang oang trên loa báo rằng sẽ mất đến hai giờ nữa những người ở phía cuối hàng mới có thể bắt đầu nhúc nhích.

“Lũ lợn,” ai đó hậm hực thắc mắc. “Mỗi đợt chỉ cho có bốn, năm mươi người vào.”

Siobhan định lên tiếng ủng hộ chiến lược an ninh, nhưng chợt ý thức mình sẽ bị lật tẩy. Cô di chuyển dọc hàng người kiên nhẫn, băn khoăn không biết sẽ gặp cha mẹ bằng cách nào. Ở đây phải có đến cả trăm nghìn người, thậm chí còn có thể gấp đôi. Cô chưa bao giờ trông thấy biển người như thế; chương trình liên hoan âm nhạc “T trong Công viên” cũng chỉ thu hút khoảng sáu mươi nghìn người là cùng. Những trận derby hai đội bóng địa phương đấu nhau, đẹp trời lắm thì cũng chỉ có thể hấp dẫn đến mười tám nghìn cổ động viên. Riêng ăn mừng đêm tất niên trên phố Princes và khu vực xung quanh là có thể được đến gần một trăm nghìn người.

Nhưng đây còn đông hơn thế.

Và tất cả đều đang mỉm cười.

Không thấy một bóng cảnh phục nào; cũng không nhiều thành viên ban tổ chức xuất hiện. Chỉ có các gia đình đổ về từ Morningside, Tollcross và Newington. Cô đã tình cờ chạm mặt cả nửa tá người quen và hàng xóm. Đoàn tuần hành được dẫn đầu bởi Ngài Thị trưởng Edinburgh. Mọi người còn nói là thủ tướng Gordon Brown cũng có mặt ở đó. Một lúc nữa thủ tướng sẽ có bài phát biểu trước công chúng, Đội Cảnh sát Bảo vệ đã đang triển khai các biện pháp an ninh cần thiết, tuy nhiên Ban lãnh đạo Chiến dịch Sorbus xếp ngài thủ tướng vào nhóm “nguy cơ thấp” bởi những tuyên bố tích cực của ông ta về viện trợ và thương mại bình đẳng. Siobhan đã được cho xem danh sách những người nổi tiếng sắp đổ bộ vào thành phố: tất nhiên là ca sĩ Geldof và Bono; có thể cả nam diễn viên Ewan McGregor (dù anh ta vừa mới xuất hiện trong một sự kiện ở Dunblane); nữ diễn viên gạo cội Julie Christie; siêu mẫu Claudia Schiffer; tài tử George Clooney; rồi nữ diễn viên Susan Sarandon…

Cô tiến về phía sân khấu trung tâm sau khi len lách qua được hết hàng người. Một ban nhạc đang chơi và có vài người đang nhảy nhót vẻ cực kỳ hứng khởi. Còn lại hầu hết chỉ ngồi trên bãi cỏ xem ban nhạc biểu diễn. Khu vực lều trại nho nhỏ ngay cạnh đó tổ chức các hoạt động vui chơi cho trẻ em, sơ cứu, kiến nghị lẫn trưng bày. Cũng có cả bán khăn quàng và rải tờ rơi. Một trong những tờ báo lá cải hình như đã đang phân phát các áp phích in khẩu hiệu Hãy Biến Đói Nghèo Thành Quá Khứ. Những người nhận áp phích đang xé bỏ nhan đề báo lá cải nằm ở trên đầu. Những quả bóng bơm đầy khí heli bay lên tít cao trên bầu trời. Ban kèn và bộ gõ tạm thời đang đi biểu diễn vòng quanh, theo sau là mấy ban nhạc trống thép châu Phi. Thêm nhiều người cao hứng đứng dậy nhảy múa, và thêm những nụ cười tươi. Thấy thế là cô biết, biết rằng mọi việc sẽ ổn thỏa. Sẽ không có cuộc bạo loạn nào xảy ra ngày hôm nay, không phải là trong cuộc tuần hành này.

Cô kiểm tra điện thoại di động. Không có tin nhắn nào. Cô đã cố gọi cho cha mẹ hai lần, nhưng họ không nghe máy. Bởi vậy cô đành đi lang thang một vòng nữa. Người ta mới cho dựng một sân khấu nhỏ hơn ở ngay trước chiếc xe buýt mở mui bấy giờ đang không tham quan thành phố. Tại đây cũng đang có một vài máy quay của bên truyền hình và một vài người đang trả lời phỏng vấn. Cô nhận ra diễn viên Peter Postlethwaite cùng tài tử Billy Boyd và thoáng thấy tay rocker Billy Bragg. Diễn viên mà cô trông mong được gặp nhất ở ngoài đời là Gael Garcia Bernal, phòng trường hợp ngoài đời anh ta không thực sự điển trai…

Đoàn người xếp hàng trước chiếc xe tải bán đồ ăn chay có vẻ đông hơn bên bán bánh kẹp. Siobhan cũng từng ăn chay một thời gian, nhưng đã phải bỏ cuộc vài năm trước tại vì Rebus cứ cố tình giơ qua giơ lại những cuộn thịt muối thơm lừng trước mũi cô. Cô đang nghĩ xem có nên nhắn tin rủ ông ta tới đây không. Ông liệu có đang làm việc gì khác không nhỉ? Không ngồi xùm xụp trong ghế bành đến phát chán thì cũng lại đến cắm rễ ở quán Oxford bar. Nhưng rốt cuộc cô gửi tin nhắn cho cha mẹ rồi lại bước về phía hàng người đang xếp hàng. Biểu ngữ giăng cao, tiếng huýt sáo cùng tiếng trống đập thùng thùng. Tất cả bầu không khí tràn đầy năng lượng đó…

Rebus chắc hẳn sẽ nói thật phí công phí sức. Ông sẽ nói những thỏa thuận chính trị đã được dàn xếp xong xuôi từ trước. Và ông hẳn không sai: chính mấy người trong sở chỉ huy Sorbus cũng đã kể với Siobhan như vậy. Gleneagles lúc này phục vụ cho những cuộc tán phét kín và chiến dịch hình ảnh công khai. “Những vấn đề thực sự đã được tranh luận bàn bạc từ lâu bởi các nhân vật kém tầm cỡ hơn chút đỉnh, trong đó tỉ như Bộ trưởng Bộ Tài chính Anh. Tất cả những vấn đề này đã được tiến hành êm ả và sẽ được phê chuẩn đủ tám chữ ký trong ngày cuối cùng của G8.”

“Và tổng cộng phải tiêu tốn bao nhiêu?” Siobhan băn khoăn.

“Một trăm năm mươi triệu bảng, hơn hoặc kém một chút.”

Câu trả lời khiến tổng thanh tra Macrae phải hít hà sâu một hơi đầy kinh ngạc. Siobhan thì đã mím chặt môi, không thốt nên lời.

“Tôi biết cô đang nghĩ gì,” người cung cấp thông tin cho Siobhan tiếp lời. “Cũng khoản tiền ấy có thể mua được rất nhiều vắc xin…”

Mọi ngả đường cắt ngang công viên Meadows giờ đây đều chật kín những người đến tham gia diễu hành chờ đợi bên trong các xe bốn chỗ. Một hàng mới đã kịp hình thành kéo dài về tận sân quần vợt và phố Bucceleuch. Trong khi chật vật chen qua đám đông, và vẫn chưa thấy bóng dáng cha mẹ đâu, Siobhan chợt liếc xéo thấy mấy bóng màu lờ mờ đằng xa. Những bóng áo khoác vàng sáng đang hối hả chạy về phía hẻm Meadow. Cô bèn bám theo họ, chạy vòng góc phố vào quảng trường Buccleuch.

Rồi cô đứng khựng lại.

Khoảng sáu mươi người biểu tình mặc đồ đen đang bị bao vây bởi số cảnh sát nhiều gấp đôi. Những kẻ phản kháng có còi hơi, phát ra thứ âm thanh inh tai nhức óc. Bọn họ đều đeo kính đen, khăn quàng đen quấn quanh mặt. Một số thì đội mũ trùm đen. Quần lính và ủng cũng màu đen, vài kẻ còn quàng khăn rằn ri khổ lớn. Bọn họ không mang áp phích và không ai mỉm cười. Duy những tấm khiên chống bạo loạn ngăn cách bọn họ và hàng cảnh sát. Ai đó còn xịt biểu tượng vô chính phủ lên ít nhất là một tấm khiên trong mờ. Đám biểu tình bạo động này đang dồn lên phía trước, yêu cầu phải được tiến vào công viên Meadows. Nhưng chiến lược của cảnh sát lại khác: ngăn chặn là ưu tiên số một. Một cuộc biểu tình bị ngăn chặn cũng chính là cuộc biểu tình đã được kiểm soát. Siobhan thấy vô cùng ấn tượng: những người đồng nghiệp của cô hẳn phải biết trước những kẻ biểu tình sắp tới. Họ đã khẩn trương vào vị trí, đã không để cho tình huống vượt quá nơi đây và ngay lúc này. Có vài người đứng xem khác đang bị giằng co giữa cảnh tượng này và dự định tham gia diễu hành. Vài người đã rút máy điện thoại ra quay. Siobhan nhìn quanh, để đảm bảo cảnh sát chống bạo loạn không định dồn thêm cả cô vào vòng vây của họ. Những giọng nói phát ra từ bên trong hàng rào cảnh sát nghe như tiếng nước ngoài, có thể là người Tây Ban Nha hoặc Ý. Cô cũng biết đến vài cái tên, như: hiệp hội chống tư bản chủ nghĩa Ya Basta; hay Khối Đen. Nhưng không có dấu hiệu kỳ dị nào như của nhóm Wombles hay Quân đoàn Hề Phiến loạn.

Cô đưa tay vào túi áo, lần tìm và giữ chặt tấm thẻ cấp phép. Cũng nên chuẩn bị sẵn sàng phải trình căn cước một khi tình hình nóng lên chứ. Chiếc trực thăng bay liệng trên đầu, và một nhân viên an ninh trong bộ quân phục đang dùng máy quay ghi hình toàn bộ diễn biến từ trên bậc thềm một trong những tòa nhà của trường đại học. Anh ta giơ máy quay quét khắp con phố, dừng lại ở chỗ Siobhan giây lát trước khi tiếp tục chuyển qua những người đang đứng xem khác. Nhưng bất thình lình cô nhận thấy có một máy quay khác, đang chĩa về phía anh ta. Santal đang đứng trong hàng rào cảnh sát, ghi lại tất cả mọi thứ bằng cái máy ảnh kỹ thuật số của cô ta. Cô ả cũng mặc giống những kẻ khác, một chiếc túi lớn khoác vai, và đang tập trung vào nhiệm vụ của mình hơn là tham gia cùng hát và hô khẩu hiệu. Hẳn là đám người biểu tình này muốn có bản ghi hình của riêng họ: để sau này sung sướng xem lại; cũng là để bọn họ có thể tìm hiểu chiến thuật của lực lượng cảnh sát rồi từ đó tìm cách ứng phó; và còn vì một hy vọng mong manh: là gây áp lực. Bọn họ có những luật sư đáng nể, am hiểu về truyền thông trong số bạn bè tích cực hoạt động xã hội. Những thước phim ở Genoa đã được truyền đi khắp thế giới. Vậy nên chẳng có lý do gì mà hình ảnh mới nhất về việc cảnh sát sử dụng vũ lực lại không hiệu quả cả.

Siobhan nhận ra rằng Santal đã trông thấy cô. Máy quay của ả đang chĩa về phía cô, và khuôn miệng ả bên dưới cái màn hình máy quay nhệch ra thành một biểu lộ cáu kỉnh. Siobhan hiểu đây không phải lúc tiến lại hỏi ả xem cha mẹ cô đang ở chỗ nào… Điện thoại cô bắt đầu rung lên, báo hiệu có cuộc gọi tới. Cô kiểm tra nhưng không nhận ra số gọi.

“Siobhan Clarke nghe đây,” cô đưa cái vật nhỏ mỏng dẹt lên tai và trả lời.

“Shiv à? Tôi, Ray Duff đây. Cứ cho là tôi đã quá xuất sắc và xứng đáng giành được ngày đi chơi ấy đi.”

“Ngày đi chơi nào?”

“Cuộc hẹn mà cô nợ tôi ấy…” Anh ta ngập ngừng. “Trừ phi đó không phải là vụ mà cô hứa với Rebus?”

Siobhan bật cười. “Cái đó cũng còn tùy. Anh đang ở phòng thí nghiệm à?”

“Đang vắt kiệt sức lực cho cô đây.”

“Vật chứng từ Clootie Well à?”

“Có thể còn một vài thứ rất đáng xem cho cô, nhưng tôi không dám chắc cô có thích hay không. Sớm nhất chừng bao lâu nữa cô tới được đây?”

“Nửa giờ.” Cô quay người tránh tiếng còi hơi đột ngột ré lên.

“Đoán được cô ở đâu cũng sẽ chẳng có giải rút,” Duff nhận xét. “Tôi thấy hết trên kênh tin tức đây rồi.”

“Về cuộc tuần hành hay cuộc biểu tình?”

“Tất nhiên là về cuộc biểu tình rồi. Tuần hành quy củ và tuân theo pháp luật thì có chuyện gì đáng bàn đâu, ngay cả khi số người tham gia có lên tới một phần tư triệu người đi nữa.”

“Một phần tư triệu người cơ à?”

“Ấy là người ta nói vậy. Gặp cô sau nửa giờ nữa nhé.”

“Tạm biệt, Ray.” Cô kết thúc cuộc điện thoại. Một con số như thế… hơn một nửa dân số Edinburgh mất rồi. Chẳng khác nào ba triệu người xuống đường ở Luân Đôn. Và sáu mươi kẻ mặc đồ đen kia sẽ án ngữ tất cả các kênh thông tin trong suốt một hoặc hai giờ tới.

Bởi vì sau đó thì mọi con mắt sẽ lại đổ dồn về buổi concert Live 8 ở Luân Đôn.

Không, không, không được, cô tự nhủ, mày thật quá hoài nghi, Siobhan à; mày đang suy nghĩ hệt như gã John Rebus quái quỷ đấy. Không ai có thể phớt lờ nguyên một dòng xích người vòng quanh thành phố, một rải ruy băng trắng khổng lồ, tất cả bầu không khí say mê và hy vọng ấy…

Trừ một người.

Không lẽ cô lại định loanh quanh ở chỗ tuần hành này, tự thêm bản thân mình cô vào con số thống kê ấy ư? Bây giờ đâu phải lúc. Cô có thể xin cha mẹ thứ lỗi sau. Vậy là cô bắt đầu rảo bước, rời khỏi công viên Meadows. Kế hoạch tốt nhất mà cô có: sở St Leonard, Sở Cảnh sát gần nhất. Xin đi nhờ xe tuần tra ở đó; hoặc mượn trộm một chiếc nếu cần. Xe riêng của cô vẫn đang yên vị trong xưởng sửa chữa mà Rebus đã giới thiệu. Người thợ cơ khí dặn cô gọi cho anh ta vào thứ Hai. Cô vẫn nhớ người chủ chiếc xe tải lốp 4x4 đã chật vật mất bao lâu mới kéo được chiếc xe hơi khốn khổ của cô ra khỏi thị trấn ra sao, chỉ e những kẻ phá rối sẽ lại tấn công nó. Cô đã tự nhủ suốt thời gian đó là chỉ thêm một câu chuyện kinh dị nữa thôi. Santal đã không để ý thấy Siobhan rời đi.

“… thậm chí còn chẳng thể gửi một lá thư,” Ray Duff phàn nàn. “Người ta đã khóa tất cả các hòm thư bưu điện phòng trường hợp kẻ nào đó định gài bom.”

“Mấy cửa hiệu mặt phố Princes còn được đóng gỗ ván bịt kín bưng cơ mà.” Siobhan bổ sung. “Thế nhưng tiệm Mùa hè Ann thì sợ gì chứ nhỉ?”

“Ly khai xứ Baxcơ thì sao?” Rebus phỏng đoán. “Chúng ta bắt đầu đi vào vấn đề chính được chưa?”

Duff khịt mũi. “Ông ta sợ bỏ lỡ mất cuộc tụ họp lớn đây mà.”

“Cuộc tụ họp nào?” Siobhan ngạc nhiên nhìn Rebus.

“Pink Floyd ấy mà,” Rebus trả lời. “Nhưng nếu là McCartney hay nhóm U2 thì tôi cũng chẳng hơi đâu mà tiếc.”

Ba người đang đứng trong một phòng thí nghiệm trực thuộc Tổ Pháp y Lothian và Vùng biên trên đường Howdenhall. Duff, anh chàng khoảng hơn ba mươi với mái tóc ngắn màu nâu với đường chân tóc trước trán rõ ràng sắp hói, đang lau lại mắt kính của mình bằng ve áo choàng trắng mặc trong phòng thí nghiệm. Rebus cho rằng loạt chương trình Giám định Hiện trường của đài truyền hình đã gây một ảnh hưởng kỳ dị lên tất cả những nhà nghiên cứu ở trung tâm Howdenhall. Mặc dù nghèo nàn nội dung, nhạc nền cũng chẳng hấp dẫn hay ấn tượng, nhưng hình như bọn họ đều tự coi mình là những diễn viên. Thêm vào đó, vài nhân vật của Cục Điều tra Hình sự bắt đầu tán thưởng, và còn yêu cầu họ trình diễn lại các kỹ thuật pháp y máy móc nhất được giới thiệu trên chương trình truyền hình. Duff rõ ràng đã cho rằng vai của anh ta hiển nhiên phải là một thiên tài lập dị. Hậu quả là Duff quyết định chia tay cặp kính áp tròng và quay về sử dụng mắt kính NHS có gọng kiểu Eric Morecambe để ăn nhập với đống bút sặc sỡ gài trên mép túi áo ngực. Nghĩ mới chỉ có như vậy là chưa đủ, anh ta còn cài thêm một hàng những chiếc kẹp hình chó bun trên ve áo. Cứ như lời nhận xét của Rebus khi vừa đặt chân đến trung tâm pháp y thì trông Duff hệt như vừa bước ra từ một video ca nhạc của ban Devo.

Và lúc này anh ta đang say sưa vân vê mấy chiếc kẹp ngồ ngộ ấy.

“Anh cứ từ từ mà phân tích,” Rebus động viên Duff. Họ đang đứng trước một bàn làm việc bày la liệt rất nhiều mảnh vải. Duff đặt những vuông vải có đánh số cạnh nhau, và những vuông vải nhỏ hơn - rõ ràng là bảng mã màu – cạnh các vết nhơ hoặc vết biến màu trên từng vật chứng. “Chúng ta xong sớm chừng nào thì cô chóng được quay về mà đánh bóng cái mui xe bọc crôm của mình chừng ấy.”

“À đấy,” Siobhan nói. “Cảm ơn anh vì đã giúp tôi liên lạc với Ray nhé.”

“Cô phải gặp phần thưởng trước cơ,” Rebus thì thầm. “Chúng ta đang nhìn gì, giáo sư?”

“Chủ yếu là bùn và phân chim.” Duff đứng hai tay chống hông. “Màu nâu nghĩa là bùn, màu xám nghĩa là phân chim.” Anh ta hất hàm về những vuông mã màu.

“Thế còn màu xanh và hồng thì…”

“Màu xanh là những thứ cần phân tích thêm.”

“Hãy nói với tôi màu hồng nghĩa là son môi đi,” Siobhan lẳng lặng nói.

“Thực ra thì là máu.” Duff vừa nói vừa vung hai tay lên cao.

“Thú vị đấy,” Rebus đáp, mắt vẫn nhìn Siobhan. “Có bao nhiêu chỗ?”

“Tới thời điểm này thì hai… Cứ đánh số một và hai nhé. Vết máu một tìm được trên một chiếc quần kẻ sọc màu nâu. Máu trên nền màu nâu khá khó nhận ra - vì giống vết gỉ sắt. Còn vết máu hai ở trên một chiếc áo sơ mi thể thao, màu vàng nhạt như hai người có thể nhìn thấy ở đây.”

“Cũng không hẳn,” Rebus nhận xét, rồi cúi người xuống để quan sát kỹ hơn. Chiếc áo dính đầy bùn đất. “Cái thứ trên ngực trái áo là gì vậy? Một loại huy hiệu nào đó chăng?”

“Đúng ra là huy hiệu Gara của Keogh. Máu bắn tung tóe trên lưng áo.”

“Bắn tung tóe ư?”

Duff gật đầu. “Hoàn toàn phù hợp với một cú đánh vào đầu. Vật gì đó, chẳng hạn như một chiếc búa, anh gây va chạm, rách da nạn nhân, thì khi anh rút búa ra, máu sẽ bay tóe ra tứ phía.”

“Gara của Keogh ư?” câu hỏi Siobhan nhằm vào Rebus, song ông chỉ nhún vai. Duff, tuy vậy, lại là hắng giọng.

“Không có gì trong danh bạ điện thoại Perthshire hết. Hay danh bạ của Edinburgh, cũng vậy cả.”

“Anh nhanh thật đấy Ray,” Siobhan nói, vẻ khen ngợi.

“Một vết nâu ở kia nữa kìa, Ray.” Rebus nói, vừa nháy mắt. “Thế còn vết máu thứ nhất?”

Duff gật nhẹ. “Vết này thì không tung tóe - mà đọng thành nhiều cục trên chân phải, trên khoảng đầu gối. Nếu đánh mạnh vào đầu một người nào đó, sẽ có những giọt máu như thế.”

“Anh đang nói chúng ta có ba nạn nhân và chỉ một thủ phạm ư?”

Duff nhún vai. “Chưa có cách nào để chứng minh, dĩ nhiên rồi. Nhưng anh cứ thử nghĩ xem: liệu có khả năng ba nạn nhân gặp ba kẻ tấn công khác nhau và kết quả cả ba đều kết thúc ở cùng một địa điểm mờ mịt như vậy hay không?”

“Anh có lý, Ray ạ.” Rebus thừa nhận.

“Và chúng ta có một kẻ giết người hàng loạt,” Siobhan nói nhưng không có tiếng trả lời. “Những mẫu máu khác nhau, phải không?” Siobhan quay sang nhìn Duff và thấy anh ta gật đầu. “Ta có biết họ chết theo thứ tự nào không?”

“Vụ Cua rơ CC là mới nhất. Tôi cho rằng vụ chiếc áo sơ mi thể thao là đầu tiên.”

“Không có manh mối nào khác từ quần kẻ sọc ư?”

Duff chậm rãi lắc đầu, rồi luồn tay vào túi áo choàng mặc trong phòng thí nghiệm và lấy ra một phong bì bằng nhựa dẻo trông rất sạch sẽ. “Tất nhiên là không, trừ phi tính cả thứ này.”

“Cái gì thế?” Siobhan hỏi.

“Thẻ tiền mặt,” Duff trả lời cô, tỏ vẻ thích chí. “Tên chủ thẻ là Trevor Guest. Thế nên đừng có để tôi nghe thấy cô nói tôi không xứng đáng được nhận phần thưởng nhỏ bé của mình…”

Trở ra không khí thoáng đãng, Rebus châm một điếu thuốc. Siobhan đang rảo bước về phía bãi đỗ xe, hai tay khoanh trước ngực.

“Một kẻ giết người,” cô lên tiếng.

“Đúng vậy.”

“Hai nạn nhân đã rõ danh tính, nạn nhân thứ ba là một thợ sửa chữa xe hơi…”

“Hoặc một nhân viên bán xe hơi,” Rebus trầm ngâm. “Hoặc chỉ là ai đó khoác chiếc áo quảng cáo cho xưởng sửa chữa đó.”

“Cảm ơn anh vì đã cự tuyệt nỗ lực thu hẹp phạm vi điều tra của tôi.”

Ông nhún vai. “Nếu chúng ta quàng chiếc khăn quàng của đội bóng Hibernian, liệu chúng ta có là những người hâm mộ cuồng nhiệt đội bóng ấy không?”

“Thôi được rồi, tôi hiểu.” Cô dừng bước trước lối rẽ. “Anh có cần quay lại phòng giám định không?”

Ông lắc đầu. “Một trong hai người chúng ta sẽ phải báo tin cho Macrae.”

Cô gật đầu. “Tôi sẽ làm việc ấy.”

“Hôm nay cũng chẳng còn gì nhiều để làm.”

“Vậy anh sẽ về nhà xem buổi concert Live 8 à?”

Ông lại nhún vai lần nữa. “Còn cô thì sẽ lại công viên Meadows chứ gì?” ông phỏng đoán.

Cô gật đầu, mặc dù tâm trí cô ở đâu đó khác. “Anh có nghĩ liệu có còn tuần nào tồi tệ hơn bây giờ để mấy việc này xảy ra không?”

“Đó chính là lý do vì sao chúng ta được trả lương hậu hĩnh mà,” Rebus nói với Siobhan rồi rít một hơi nicotine thật sâu.

Một gói bưu kiện to tướng đang chờ Rebus trước cửa căn hộ. Siobhan thì đã đang trên đường quay lại công viên Meadows. Rebus đã dặn cô khi nào xong việc hãy ghé qua chỗ ông làm vài ly. Ông nhận thấy phòng khách ngột ngạt, nên buộc phải mở toang cửa sổ. Ông có thể nghe rõ những âm thanh từ cuộc tuần hành: tiếng hò vang dội, những giọng nói oang oang được khuếch đại qua loa; tiếng trống và cả tiếng người huýt sáo. Live 8 cũng được phát trên truyền hình, nhưng ông không nhận ra một ban nhạc nào. Ông cho nhỏ tiếng vô tuyến rồi mở gói bưu kiện. Bên trong có một tờ giấy nhỏ với hàng chữ viết tay của Mairie - ANH KHÔNG XỨNG ĐÁNG ĐÂU - kèm theo rất nhiều trang dữ liệu được in ra từ máy tính. Những câu chuyện trên bản tin về Tập đoàn Pennen, từ thời điểm nó vừa tách khỏi Bộ Quốc phòng. Những đoạn trích lấy từ các trang kinh doanh, đề cập chi tiết các thông tin tăng trưởng lợi nhuận của hãng này. Lý lịch cá nhân đáng ngưỡng mộ của Richard Pennen, kèm theo là những bức ảnh của ông ta. Từng chút một đều cho thấy là một doanh nhân thành đạt: vẻ ngoài chải chuốt, trang phục kẻ sọc nhỏ, tóc làm cầu kỳ. Mái tóc màu muối tiêu mặc dù ông ta mới chỉ ngoại tứ tuần. Kính gọng thép sáng bóng, và khuôn hàm vuông vức bên dưới hàm răng hoàn hảo.

Richard Pennen từng là một nhân viên Bộ Quốc phòng, các chương trình về vi mạch và phần mềm gì đó. Ông ta nhấn mạnh rằng công ty của mình không hề buôn bán súng ống, mà chỉ những thiết bị nhằm cải thiện tối đa hiệu quả hoạt động của vũ khí mà thôi. “Mà chắc chắn phải tốt hơn giải pháp giảm sát thương, cho tất cả các bên có liên quan,” nguyên văn lời phát biểu của ông là như vậy. Rebus xem lướt qua loạt bài phỏng vấn và các thông tin lý lịch cơ bản khác. Không thấy mối liên hệ nào giữa ông ta và Ben Webster ngoại trừ là cả hai đều hoạt động liên quan đến lĩnh vực “thương mại”. Chẳng trách hãng này không sẵn lòng ưu đãi ngài nghị sĩ chế độ nghỉ tại khách sạn năm sao. Rebus xem tập giấy tiếp theo và ngay lập tức thầm cảm ơn Mairie. Cô đã kẹp thêm cho ông một tập toàn những thông tin về bản thân Ben Webster. Tuy cũng chẳng nhiều nhặn gì về sự nghiệp nghị sĩ. Nhưng năm năm trước, giới truyền thông bỗng nhiên dành nhiều quan tâm cho gia đình họ, đặc biệt là sau vụ tấn công kinh hoàng nhằm vào người mẹ của Webster. Bấy giờ vợ chồng bà đang đi nghỉ ở khu vực Biên giới, thuê một căn nhà tranh ở vùng nông thôn ngay ngoại ô Kelso. Một buổi chiều, người chồng vào thị trấn mua thêm đồ dùng và khi trở về bàng hoàng nhận ra ngôi nhà tranh đã bị đột nhập, còn vợ mình đã chết, bị siết cổ bằng sợi dây thừng lấy từ rèm cửa. Bà bị đánh đập, tuy vậy không bị tấn công tình dục. Số tiền trong túi xách cùng với điện thoại cầm tay của nạn nhân đều biến mất. Ngoài ra không có thứ gì khác bị lấy đi.

Chỉ là một ít tiền mặt và một chiếc điện thoại di động.

Và mạng sống của một người phụ nữ.

Công tác điều tra kéo dài trong nhiều tuần. Rebus quan sát những bức hình chụp căn nhà tranh dựng trên một khu vắng vẻ biệt lập, hình nạn nhân, hình người chồng suy sụp trong đau đớn và hai người con của bà ấy - Ben và Stacey. Ông rút từ trong túi ra tấm danh thiếp mà Stacey đã đưa ông và dùng ngón tay vân vê phần mép của mảnh bìa chữ nhật nhỏ bé ấy, vừa tiếp tục đọc. Ben là nghị sĩ quốc hội đại diện cho khu vực Bắc Dundee; còn Stacey là cảnh sát trực thuộc Sở Cảnh sát Thủ đô và vẫn thường được các đồng nghiệp nhận xét là một người “mẫn cán và đáng mến”. Ngôi nhà tranh mà ông bà Webster thuê nằm ở bìa rừng, giữa những ngọn đồi chạy dài tít tắp, xung quanh không thấy có người dân sinh sống. Hai vợ chồng họ thích được cùng nhau đi bộ và người ta thường xuyên thấy họ tại các quán bar cũng như nhà hàng trong địa phận Kelso. Nơi đây đã được họ chọn làm điểm dừng chân cho rất nhiều kỳ nghỉ trước đó. Các thành viên hội đồng của khu vực Biên giới đã phải nhanh chóng khẳng định rằng khu vực này vẫn “giữ được tình trạng không có tội phạm trên diện rộng và luôn là một thiên đường rất đỗi bình yên”. Vì không muốn vụ án mạng kia xua đuổi hết du khách trong vùng…

Người ta không tóm được kẻ thủ ác. Câu chuyện đau lòng ấy cứ trôi nổi trên các trang tin chính của các báo, rồi càng ngày càng lùi dần vào những trang sau, thi thoảng trở lại dưới dạng một hoặc hai đoạn trích dẫn khi Ben Webster được lên tiểu sử bầu bán. Có một bài phỏng vấn chuyên sâu được thực hiện vào thời gian anh ta trở thành thư ký riêng của quốc hội. Thế nhưng anh ta không muốn nhắc tới bi kịch của gia đình mình.

Tuy nhiên bi kịch ở đây lại là số nhiều. Người cha mau chóng ra đi sau vụ án mạng của người vợ thân yêu. Cái chết của ông ta là do các nguyên nhân tự nhiên. “Ông ấy đã mất hết ý chí sống rồi”, là lời một người hàng xóm của họ ở ngoại ô phà Broughty. “Và giờ đây ông ấy đã được yên bình bên tình yêu của đời mình.”

Rebus nhìn lại tấm hình chụp Stacey vào hôm lễ tang người mẹ. Cô ta rõ ràng đã xuất hiện trên truyền hình, yêu cầu được biết rõ về cái chết của mẹ mình. Cô ta mạnh mẽ hơn em trai, người đã quyết định không tham dự những cuộc họp báo cùng chị gái. Rebus thực sự mong cô ta vẫn rắn rỏi.

Tự vẫn dường như là cách lý giải hiển nhiên nhất, rốt cuộc thì nỗi sầu muộn cũng tóm lấy người con bị mất cả cha lẫn mẹ. Tuy vậy vẫn chưa giải thích được vì sao anh ta lại thét lên khi ngã xuống từ bờ tường của lâu đài. Và cả chi tiết về kẻ đột nhập mà đám lính canh đã cung cấp. Hơn nữa, tại sao lại là buổi tối định mệnh ấy? Tại sao lại là nơi ấy? Cái thị trấn mà toàn bộ mạng lưới truyền thông cả thế giới đang dồn hết về…

Một cái chết hết sức công khai…

Còn Steelforth… xem nào, Steelforth những mong vụ việc chìm đi. Không gì được phép làm chệch hướng mối quan tâm của dư luận dành cho G8. Cũng không được phép gây hoang mang lo lắng cho các đoàn đại biểu từ nhiều quốc gia. Rebus buộc lòng phải thừa nhận rằng nguyên do thôi thúc ông theo đuổi vụ này chỉ đơn giản là để đối đầu với tay Đặc vụ ấy. Ông đứng dậy rời bàn và bước vào bếp, tự pha cho mình thêm một ly cà phê rồi mang trở ra phòng khách. Ông đổi kênh vô tuyến nhưng chẳng tìm được tin gì mới về cuộc diễu hành. Dường như đám đông ở công viên Hyde đang rất phấn khích, dù đã có một thứ hàng rào gì đó chặn ngay phía trước sân khấu, nơi chỉ có lác đác vài người đang đứng. Có thể là nhân viên an ninh; hoặc cũng có thể là cánh phóng viên. Lần này danh ca Geldof không đòi hỏi thù lao; bởi Live 8 muốn tập trung vào trái tim và tâm hồn khán giả. Rebus tự hỏi không biết liệu rồi sẽ có được bao nhiêu người dự concert thực sự đồng cảm với lời kêu gọi mà sẵn lòng cuốc bộ trekking hơn sáu trăm cây số về phía bắc Scotland. Ông châm một điếu xì gà cho đúng điệu để nhâm nhi cùng tách cà phê, rồi ngồi xuống chiếc ghế bành và nhìn đăm đăm vào màn hình vô tuyến. Ông lại nghĩ về bãi Clootie Well, về cái nghi lễ vẫn tồn tại ở đó. Nếu như Ray Duff nhận định đúng, thì tính đến thời điểm này đã có ít nhất là ba nạn nhân, nhưng chỉ có một thủ phạm thành tích đáng nể. Liệu có thể kết là dân địa phương? Địa danh này có được nhiều người ở ngoài Auchterarder biết đến không? Liệu nó đã từng xuất hiện trong các sách báo du lịch hay những cẩm nang dành cho du khách chưa? Nếu kẻ sát nhân chọn Clootie Well chỉ vì nó ở ngay sát địa điểm tổ chức hội nghị thượng đỉnh G8, chắc hẳn hung thủ phải đoán ra là lực lượng cảnh sát tuần tra sẽ rà soát và thấy ngay những chứng cứ nhỏ bé nhưng táo tợn mà hắn bỏ lại chứ? Trong trường hợp đấy, liệu hành trình tội ác của hắn có dừng lại?

Ba nạn nhân… người ta không thể nào giấu truyền thông vụ này được. Cua rơ cc… Gara của Keogh… một tấm thẻ tiền mặt… Kẻ sát nhân đang cố tình khiến mọi việc trở nên dễ dàng hơn: hắn muốn họ biết rằng hắn đang nhởn nhơ ngoài kia. Báo chí toàn thế giới đang tụ hội về Scotland - điều chưa bao giờ xảy ra trước đây, cho hắn nguyên một vũ đài tầm cỡ quốc tế. Còn Macrae hẳn sẽ không bỏ qua cơ hội này. Ông ta sẽ xuất hiện trước dư luận, ưỡn ngực trả lời các câu hỏi của báo giới, với Derek Starr tháp tùng bên cạnh.

Siobhan nói cô sẽ gọi cho Macrae từ chỗ diễu hành, thông báo cho ông ta biết những kết luận của phòng thí nghiệm. Trong lúc ấy, Ray Duff sẽ tiến hành thêm các xét nghiệm khác, xác định mẫu ADN của các vết máu, cũng như thử tìm và nhận dạng được tóc, lông hay các mô cơ thể khác không. Rebus hình dung lại về Cyril Colliar. Khó lòng là mẫu nạn nhân điển hình. Thường thì những kẻ sát nhân hàng loạt sẽ nhắm vào những con mồi yếu ớt và cách biệt cộng đồng. Một vụ sai thời gian lẫn địa điểm chăng? Bị giết ở Edinburgh nhưng mảnh áo khoác của hắn lại xuất hiện tại bìa rừng Auchterarder, vào chính thời điểm chuẩn bị triển khai Chiến dịch Sorbus. Sorbus cũng có nghĩa một giống cây bụi… mảnh áo có chữ Cua rơ cc bị bỏ lại ở một khoảng rừng thưa… Rebus đoán chắc đám quỷ Sorbus sẽ cuỗm vụ án khỏi tay Siobhan và ông, nếu có dấu hiệu nào cho thấy nó có mối liên quan đến G8. Steelforth chắc chắn cũng sẽ không có được nó luôn. Kẻ sát nhân hẳn đang chế giễu họ…

Thách thức cảnh sát cơ mà.

Có tiếng gõ cửa khiến Rebus giật mình. Chắc là Siobhan. Ông dụi tắt điếu thuốc rồi đứng dậy và nhìn quanh căn phòng. Cũng không quá tệ: không có vỏ lon bia nào hay hộp đựng pizza ăn hết nhưng chưa vứt. Chai whisky cạnh ghế bành: ông cầm lấy nó đặt lên bệ lò sưởi. Đổi vô tuyến sang kênh khác rồi bước ra cửa. Ông mở rộng cửa và nhận ra khuôn mặt phía sau cánh cửa, cảm thấy ruột gan lộn tung.

“Lương tâm đột nhiên cắn rứt đến mức này cơ à?” ông hỏi, cố làm ra vẻ lạnh lùng.

“Lương tâm của tôi thanh khiết tựa những bông tuyết chết dẫm đang rơi ngoài kia, Rebus ạ. Chẳng lẽ anh không thấy vậy sao?”

Không phải Siobhan. Mà là Morris Gerald Cafferty. Diện một chiếc áo phông trắng có in khẩu hiệu Hãy Biến Đói Nghèo Thành Quá Khứ. Hai tay đút túi quần. Hắn từ từ rút ra và giơ lên, nhằm chứng tỏ cho Rebus thấy hắn không giấu gì. Đầu hắn to cỡ trái bóng bowling, sáng loáng và chẳng có một sợi tóc nào. Cặp mắt nhỏ tí và sâu hoắm. Đôi môi lúc nào cũng bóng nhẫy. Cổ rụt không thấy đâu. Sau giây lát quan sát kẻ đang đứng trước mặt, Rebus định đóng sập cánh cửa nhưng Cafferty đã kịp đưa tay chặn lại.

“Đó là cách mà anh đối xử với một người bạn cũ đấy à?”

“Cút xuống địa ngục đi!”

“Trông cứ như thể anh vừa tống tôi xuống nơi ấy vậy - chiếc áo tả tơi này anh thó của bù nhìn hả?”

“Thế ai giúp mày mặc đồ - Trinny và Susannah chắc?”

Cafferty khịt mũi. “Thực ra tôi cũng gặp họ trong chương trình truyền hình buổi sáng rồi… Thấy chưa, chẳng phải là tốt hơn rồi còn gì? Chúng ta đang có một cuộc trò chuyện dễ chịu đấy chứ.”

Rebus không cố đóng cửa nhà lại nữa. “Cafferty, mày đến đây làm cái quái gì vậy?”

Cafferty đang chà hai lòng bàn tay vào nhau và giả bộ thổi phù phù vào đống cáu ghét mà hắn tưởng tượng ra. “Anh ở đây bao lâu rồi, Rebus? Dễ cũng phải đến ba chục năm rồi ấy chứ.”

“Thì sao?”

“Đã bao giờ nghĩ đến việc đổi nhà chưa thế?”

“Lạy Chúa, giờ thì là chương trình Địa ốc, Địa ốc, Địa ốc[*] đấy…”

“Anh chưa từng cố gắng cải thiện cuộc sống của bản thân, đó chính là điều mà tôi không thể hiểu nổi.”

“Có lẽ tao nên viết một cuốn sách về cuộc đời mình nhỉ?”

Miệng Cafferty toét ra thành một nụ cười đắc chí. “Tôi đang nghĩ đến việc cho viết tiếp phần hai, tâm sự thêm một chút về những ‘bất đồng ý kiến’ giữa chúng ta.”

“Vì thế mà mày tới đây đấy à? Làm tươi mới lại ký ức phải không?”

Mặt Cafferty đột nhiên tối sầm lại. “Tôi đến gặp anh là vì anh chàng Cyril của tôi.”

“Về chuyện gì liên quan tới hắn?”

“Tôi được biết cuộc điều tra đã có tiến triển. Tôi muốn biết là đã được đến đâu rồi.”

“Ai nói cho mày biết?”

“Thế là đúng phải không?”

“Kể cả đúng, mày nghĩ tao sẽ nói chắc?”

Cafferty gầm gừ, rồi thình lình nhoài tay ra trước đẩy Rebus ngược vào phía hành lang trong nhà, khiến ông đập lưng vào tường. Cafferty lại nhào tới vồ lấy ông, hai hàm răng hắn nghiến kin kít, nhưng Rebus cũng đã sẵn sàng, và kịp túm được nguyên một túm áo phông của hắn. Hai người đàn ông vật lộn, giằng co lăn lộn, vần nhau xuống tít cuối hành lang, cho đến tận cửa phòng khách. Không ai nói một lời nào, chân tay và những ánh mắt dữ dội đang nói thay họ. Nhưng rồi Cafferty liếc mắt nhìn vào căn phòng và dường như đông cứng lại. Rebus tận dụng ngay để thoát khỏi gọng kìm của hắn.

“Lạy Chúa tôi…” Cafferty vẫn trợn trừng mắt nhìn hai chiếc hộp lớn trên ghế tràng kỷ - một phần trong đống hồ sơ vụ án mạng của Colliar mà Rebus đem từ sở Gaytield về nhà tối qua. Ngay trên nắp hộp là một trong những bức hình từ cuộc khám nghiệm tử thi, còn nhìn thấy rõ ràng bên dưới là tấm ảnh cũ hơn của chính Cafferty. “Những thứ này ở đây làm quái gì vậy?” Cafferty vừa thở hổn hển vừa hỏi.

“Không việc quái gì đến mày cả.”

“Đến giờ mà anh vẫn nghĩ thủ phạm là tôi sao…”

“Hướng điều tra đấy không khả quan như trước nữa rồi,” Rebus thừa nhận. Ông bước tới chỗ bệ lò sưởi, vớ lấy chai whisky. Rót đầy chiếc ly mà ông vừa nhặt lên từ dưới sàn. “Mọi thứ sẽ được công bố nhanh thôi,” ông nói, xong dừng để uống một ngụm rượu. “Bọn tao cho rằng Colliar không phải là nạn nhân duy nhất.”

Cafferty nheo mắt lại trong khi tiếp nhận thông tin vừa rồi. “Còn ai nữa?”

Rebus lắc đầu. “Giờ thì mày biến đi được rồi đấy.”

“Tôi có thể giúp,” Cafferty khẩn khoản. “Tôi biết rất nhiều nhân vật…”

“Ô vậy ư? Thế Trevor Guest nghe có quen không?”

Cafferty suy nghĩ trong chốc lát rồi buộc phải chấp nhận bó tay.

“Thế còn một cái Gara gọi là của Keogh thì sao?”

Cafferty cứng người lại. “Rebus này, tôi có thể tìm ra thông tin. Tôi có đầu mối liên lạc ở những nơi anh nghe thấy cũng phải rùng mình cơ đấy.”

“Mọi thứ thuộc về mày đều khiến tao phải rùng mình, Cafferty ạ: Tao cứ gọi là kinh tởm những việc làm ô uế của mày. Sao mày lại kích động vì Colliar đến thế?”

Cafferty hướng ánh nhìn lơ đãng lạc về phía chai whisky. “Anh còn cái ly nào không?” hắn ta hỏi.

Rebus vào bếp để lấy một chiếc ly cho hắn. Khi quay lại phòng khách, ông bắt gặp Cafferty đang đọc lời ghi chú của Mairie.

“Vậy là cô Mairie đang giúp anh một tay,” Cafferty bật ra một điệu cười lạnh lùng. “Tôi nhận ra chữ viết tay của cô ấy.”

Rebus không nói gì, chỉ lẳng lặng rót một ít rượu vào ly.

“Tôi khoái hương mạch nha hơn,” Cafferty hít hửi hơi rượu rồi giở giọng phàn nàn. “Vì sao anh lại quan tâm tới Tập đoàn Pennen?”

Rebus lờ câu hỏi này đi. “Mày sẽ nói cho tao về Cyril Colliar cơ mà.” “Cứ đứng nguyên tại chỗ,” Rebus nói bằng giọng ra lệnh khi thấy Cafferty chuẩn bị ngồi xuống. “Mày sẽ không ở đây lâu đâu.”

Cafferty làm một hơi hết chỗ rượu rồi đặt ly xuống mặt bàn. “Thực ra tôi cũng không hứng thú gì với Cyril cả,” hắn thừa nhận. “Nhưng một khi những vụ như thế này xảy ra… ừm, thì những tin đồn sẽ được phát tán. Mấy lời đồn đại kiểu như có kẻ nào đó ngoài kia đang ôm lòng hận thù. Không bao giờ tốt cho việc làm ăn. Như anh biết đấy, Rebus, trước đây tôi từng có nhiều kẻ thù…”

“Buồn cười là bây giờ người ta không thấy chúng đâu nữa.”

“Ngoài kia có hàng đống chó rừng thèm muốn một phần lợi lộc… lợi lộc của tôi.” Hắn nói đoạn vạch ngón tay lên ngực.

“Cafferty à, mày đang bắt đầu già đi rồi đấy.”

“Anh cũng vậy thôi. Nhưng không hề có khái niệm nghỉ hưu trong cái lĩnh vực mà tôi hoạt động.”

“Và đàn chó rừng cũng ngày càng mạnh hơn và đói khát hơn, hả?” Rebus phỏng đoán. “Vậy nên mày cần phải liên tục chứng tỏ bản thân.”

“Tôi chưa bao giờ chùn bước, Rebus ạ. Và sẽ không bao giờ.”

“Sẽ công bố sớm thôi, Cafferty. Nếu mày và các nạn nhân khác không liên quan gì đến nhau thì đâu có lý do nào coi đó là một vụ rửa hận truyền kiếp chứ?”

“Nhưng trong lúc ấy…”

“Trong lúc ấy làm sao?”

Cafferty nháy mắt ra hiệu. “Gara của Keogh và Trevor Guest.”

“Ôi Cafferty, cứ để việc ấy cho bọn tao.”

“Ai mà biết được, Rebus, tôi sẽ xem liệu có thể tìm được gì về cả Tập đoàn Pennen nữa.” Cafferty dợm bước ra khỏi căn phòng. “Cảm ơn về ly rượu cũng như bài tập thể dục nho nhỏ. Chắc là tôi sẽ phải tham gia vào phần cuối của buổi diễu hành. Đói nghèo luôn là mối quan tâm lớn của tôi mà.” Khi đến lối vào, hắn ta nấn ná một chút để quan sát xung quanh. “Dù vậy, tôi chưa từng thấy căn nhà nào tồi tàn như thế này,” hắn ta nói thêm rồi bước về phía cầu thang.