PHẦN THỨ Hai (8) Khiêu Vũ Với QuỷChủ nhật ngày 3 tháng Bảy
Tiếng chìa khóa xoay trong ổ đánh thức Rebus. Cánh cửa cót két hé mở. Đầu tiên Rebus thấy một tay cảnh sát trẻ tuổi, mồm miệng đang há hốc vì kinh ngạc. Đứng bên trái anh ta là tổng thanh tra James Macrae, đầu tóc bù xù với vẻ giận dữ phừng phừng hiện rõ trên khuôn mặt. Rebus liếc nhìn đồng hồ: còn chưa đến bốn giờ, vậy là mới chỉ rạng sáng thứ Hai.
“Có dao không?” Rebus hỏi, mồm miệng khô ngắt khi cất tiếng. Ông chìa cho họ xem hai cổ tay của mình. Lúc này chúng đã sưng tướng lên, lòng bàn tay và những đốt ngón tay gần như trắng bệch. Tay cảnh sát trẻ rút từ trong túi áo ra một con dao nhíp.
“Sao mà anh lại ở tận trong này?” anh ta hỏi bằng giọng run run.
“Mười giờ tối qua, ai có nhiệm vụ canh đồn?”
“Chúng tôi nhận được lệnh tập hợp,” tay cảnh sát nói, “chúng tôi đã khóa kỹ trước khi rời đi.”
Rebus không thấy có lý do gì để nghi ngờ câu chuyện của anh ta. “Lệnh tập hợp diễn ra thế nào?”
“Hóa ra là báo động giả. Tôi thực sự rất xin lỗi… Sao anh không kêu lên hoặc làm gì đó?”
“Tôi đoán không có biên bản lưu gì, phải không?” Chiếc còng tay rơi xuống đất ngay khi Rebus vừa dứt lời. Ông bắt đầu xoa mạnh cho các ngón tay hồi lại.
“Chẳng có gì cả. Vả lại chúng tôi cũng không kiểm tra các xà lim trống không bao giờ.”
“Sao anh biết các phòng giam vẫn còn trống?”
“Chúng tôi có chủ ý để trống như vậy phòng trường hợp cần giam giữ mấy tay bạo loạn.”
Macrae đang xem xét bàn tay bên trái của Rebus. “Có cần phải đi khám không?”
“Tôi sẽ ổn thôi”, Rebus nhăn nhó. “Sao sếp tìm ra tôi?”
“Tin nhắn. Tôi để điện thoại trong phòng đọc sách để sạc. Tiếng chuông báo tin nhắn khiến vợ tôi thức giấc.”
“Tôi xem một chút được chứ?”
Macrae đưa chiếc điện thoại cho Rebus. Phần trên màn hình hiện số của người gửi, ngay bên dưới là dòng tin nhắn viết hoa - REBUS TRONG XÀ LIM ĐỒN DRYLAW. Rebus ngay tức thì bấm nút Gọi Lại, nhưng tất cả những gì ông nhận được chỉ là tiếng trả lời tự động cho biết hiện tại số máy này không hoạt động. Ông trả lại chiếc điện thoại cho Macrae.
“Trên màn hình cho thấy tin nhắn được gửi tới vào nửa đêm.”
Macrae bỏ lỡ cái nhìn chằm chằm của Rebus. “Cũng phải mất một lúc chúng tôi mới nghe thấy tiếng chuông báo,” ông ta khẽ phân trần. Nhưng rồi nhớ lại địa vị của mình, bèn đứng thẳng người lên. “Nói cho tôi chuyện đã xảy ra ở đây?”
“Chỉ là mấy anh bạn được cười sướng thôi,” Rebus ứng biến. Ông vẫn tiếp tục xoay cổ tay trái, cố gắng không để lộ nó đang nhức nhối đến nhường nào.
“Danh tính?”
“Không danh tính, cũng sẽ không có trừng phạt gì, thưa sếp.”
“Vậy nếu tôi muốn hồi âm cái tin nhắn nho nhỏ của mấy người đó…”
“Số máy đã bị hủy, thưa sếp.”
Macrae chăm chú quan sát Rebus. “Đêm qua anh có uống vài ly, phải không?”
“Một chút thôi.” Ông trả lời rồi hướng sự chú ý trở lại nhân viên cảnh sát. “Không ai vô tình để lại một chiếc điện thoại trên bàn trực sao?”
Anh chàng cảnh sát trẻ nhún vai thay cho câu trả lời. Rebus nghiêng người sát vào anh ta. “Nếu chuyện thế này bị lộ ra… ừm, người ta sẽ cười tôi nhưng cậu mới chính là mục tiêu những chế giễu ấy nhắm đến. Không kiểm tra phòng giam, để đồn bị xâm phạm, cửa trước không khóa nữa…”
“Cửa trước có được khóa đấy chứ,” anh ta cự nự.
“Cũng đâu hay ho gì cho cậu, phải không nào?”
Macrae vỗ nhẹ lên vai chàng cảnh sát. “Vậy thì cứ giữ chuyện này cho riêng chúng ta thôi, đồng ý chứ? Còn thanh tra Rebus, chúng ta cũng đi thôi, tôi sẽ đưa anh về nhà trước khi các rào chắn lại bị dựng lên.”
Ra đến bên ngoài, Macrae ngập ngừng trong giây lát trước khi mở khóa chiếc Rover của ông. “Tôi hiểu vì sao anh không muốn làm rùm beng vụ này, nhưng anh hãy cứ tin - nếu tôi mà tóm được thủ phạm, bọn chúng sẽ phải trả giá rất đắt.”
“Vâng, thưa sếp,” Rebus đồng tình. “Rất tiếc vì tôi lại là nguyên cớ.”
“Không phải lỗi của anh, John. Giờ thì vào xe thôi.”
Họ lái xe xuyên qua thành phố hướng về phía nam trong im lặng, bình minh đang dần hé rạng đằng đông. Vài chiếc xe tải chở hàng hoặc mấy người khách bộ hành dậy sớm, nhưng nào biết được ngày hôm nay sẽ mang tới điều gì. Thứ Hai tuần này được gọi là “Ngày hội của Niềm vui sướng Vẹn toàn”. Nhưng lực lượng cảnh sát biết rõ đấy là một cách nói hoa mỹ ám chỉ rắc rối. Người ta dự tính đây sẽ là thời điểm mà các băng nhóm Quân đoàn Hề Phiến loạn, Wombles và Khối Đen thực hiện bước tiếp theo trong âm mưu bạo động. Chúng sẽ cố đánh sập thành phố. Macrae chuyển đài sang kênh địa phương vừa kịp để nghe tin buổi sáng - trong lúc khóa bơm xăng tại cây xăng trên đường Queensferry.
“Hai ngày cuối tuần mới chỉ là khởi động thôi,” Macrae nhận xét khi dừng xe tại phố Arden. “Bởi thế tôi hy vọng rằng anh không thấy quá mệt mỏi.”
“Rất dễ chịu và thoải mái, thưa sếp,” Rebus đáp lời rồi mở cửa xe. “Cảm ơn sếp đã cho tôi quá giang.” Ông vỗ lên nóc xe ra hiệu và đứng nhìn chiếc xe phóng đi, rồi trèo hai lượt cầu thang, vừa đưa tay vào túi tìm chùm chìa khóa để mở cửa nhà.
Không thấy chìa khóa nào cả.
Tất nhiên là không có rồi: bởi chùm chìa khóa đang cắm lủng lẳng trong ổ trên cửa ra vào nhà ông. Rebus bật ra một câu chửi thề rồi mở cửa, rút chìa khóa ra và bóp chặt chúng thành một nắm trong lòng bàn tay bên phải. Rón rén bước vào hành lang trong căn hộ. Không có bất cứ tiếng động hay ánh đèn nào. Bước nhẹ nhàng qua phòng bếp và khung cửa phòng ngủ. Rồi chui vào phòng khách. Hồ sơ vụ án Colliar không còn ở đó nữa, hẳn là vậy rồi: ông đã mang chúng tới chỗ Siobhan. Nhưng số giấy tờ mà Mairie Henderson bỏ công sức tìm cho ông - những tài liệu về hãng Pennen Industries và nghị sĩ Ben Webster - giờ đang vương vãi khắp phòng. Ông cầm điện thoại di động từ bàn uống nước lên, không khỏi ngạc nhiên vì bọn chúng đã “tốt bụng” mang trả lại. Ông tự hỏi không biết chúng đã kiểm tra các cuộc gọi đến và gọi đi cũng như các tin nhắn trong điện thoại kỹ thế nào rồi. Dẫu sao ông cũng chẳng thấy phiền: cuối mỗi ngày ông đều xóa hết dữ liệu liên lạc. Nhưng cũng đâu có nghĩa chúng không gắn một con chip nghe trộm vào đâu đó… Ngoài ra chúng còn có thẩm quyền yêu cầu công ty viễn thông cung cấp các danh sách liên lạc qua điện thoại của ông nữa. Trực thuộc Cơ quan Đặc vụ nghĩa là ta có thể làm gần như mọi thứ.
Ông đi vào phòng tắm và vặn vòi nước. Luôn phải mất một lúc để nước trong vòi chuyển thành nước nóng. Ông định dành ra khoảng mười lăm hay hai mươi phút thư giãn dưới vòi hoa sen. Ông đã kiểm tra phòng bếp và cả hai phòng ngủ: có vẻ không thứ gì bị dịch chuyển, nhưng như thế cũng chẳng nghĩa lý gì. Ông lấy đầy nước vào ấm rồi đặt lên bếp đun. Có khi nào căn hộ đã bị đặt máy nghe lén? Chẳng cách nào ông biết được; trong thời đại công nghệ như bây giờ đâu phải cứ cậy nắp điện thoại lên là thấy ra ngay. Đống hồ sơ về tập đoàn Pennen bị vứt lung tung, nhưng lại không mang đi. Vì sao vậy? Có lẽ vì chúng biết ông kiếm lại được chỗ tài liệu ấy dễ như bỡn. Xét cho cùng đều là thông tin đại chúng phổ biến cả rồi, và sẽ nằm gọn trong ổ cứng máy tính chỉ sau một hoặc hai cú nháy chuột.
Chúng để tập hồ sơ lại vì nó chẳng hề có ích.
Bởi vì Rebus chưa thể tiến lại gần cái thứ mà Steelforth đang ra sức bảo vệ.
Chúng cố tình cắm chùm chìa khóa trên cửa ra vào, và đặt chiếc điện thoại ở nơi dễ thấy nhất nhằm khiến cho sự sỉ nhục càng thêm cay đắng. Rebus thử cử động cánh tay trái lần nữa, không khỏi băn khoăn làm thế nào biết được mình có bị chứng huyết khối tắc mạch hay không. Ông mang tách trà sang phòng tắm và khóa vòi nước lại, tiếp đó ông cởi quần áo rồi trèo vào bồn tắm. Ông cố rũ sạch khỏi tâm trí bảy mươi hai giờ vừa qua. Thay vào đó, bắt đầu liệt kê những ca khúc trong Tuyển tập đĩa nhạc hoang đảo của mình. Song chẳng tài nào quyết định được sẽ chọn bài hát nào trong đĩa Argus. Cuộc tranh luận giữa Rebus với bản thân ông vẫn tiếp tục diễn ra đến tận khi ông bước ra khỏi bồn tắm và lấy khăn lau khô người. Ông thích chí nhận ra mình đang lẩm nhẩm ca khúc “Hãy quẳng kiếm xuống.”
“Nhưng đừng quẳng nhầm vào cuộc đời mình,” ông tuyên bố trước gương.
Ông nhất quyết phải chợp mắt cho tử tế. Năm tiếng đồng hồ liên tục phải cuộn mình trên phiến đá chẳng thấm vào đâu. Nhưng trước tiên ông cần sạc điện thoại đã. Ông cắm chiếc di động vào dây sạc và quyết định bật máy xem có tin nhắn nào không. Có một tin nhắn - cũng là từ kẻ nặc danh đã liên lạc với Macrae.
TẠM NGỪNG CHIẾN.
Tin nhắn được gửi tới chừng nửa giờ trước. Điều này có hai ý nghĩa. Chúng biết rằng ông đã về nhà. Và cái trò số điện thoại này “ngoài vùng phủ sóng” thể nào cũng được lặp lại. Rebus có thể nghĩ ra hàng tá thứ để hồi âm nhưng ông lại quyết định tắt điện thoại đi. Một tách trà nữa rồi ông sẽ lên giường đi ngủ.
Hỗn loạn trên khắp mọi nẻo đường Edinburgh.
Chưa khi nào Siobhan thấy thành phố này căng thẳng đến vậy. Trong suốt trận derby nảy lửa giữa hai đội bóng cùng thành phố, Người Ai-len và Những trái tim, cũng không; trong cuộc diễu hành của đảng Cộng hòa và lễ duyệt binh Orange thậm chí là càng không. Bầu không khí trở nên vô cùng kích động, cảm giác như thể một dòng điện vừa mới xẹt qua. Và không chỉ mỗi thành phố Edinburgh: Trại Hòa bình còn được dựng ở Stirling nữa. Đâu đấy bạo lực quy mô nhỏ kiểu chớp nhoáng đã bùng phát. Còn hai ngày nữa G8 mới khai mạc nhưng đám người biểu tình thừa biết một số phái đoàn đã tới nơi rồi. Nhiều người Mỹ lưu trú tại khách sạn Dunblane Hydro, cách Gleneagles một chặng đường ngắn. Trong khi đó, các nhà báo Nhật Bản ở xa hơn nhiều, trong những khách sạn tại Glasgow. Các quan chức Nhật Bản thì lấy phần đa các phòng trong khách sạn Edinburgh Sheraton, nằm ngay đối diện với khu trung tâm tài chính của thành phố. Bản năng mách bảo Siobhan hãy sử dụng bãi đỗ ô tô của khách sạn này, nhưng một sợi xích sắt to đã vắt ngang cổng vào từ lúc nào. Người bảo vệ mặc đồng phục tiến lại gần khi cô hạ cửa kính xe hơi xuống. Cô chìa cho anh ta xem thẻ cảnh sát.
“Rấc tiếc, thưa cô,” anh ta nói lời xin lỗi bằng chất giọng Luân Đôn lịch sự. “Không ai được đỗ bên trong. Đó là lệnh từ cấp trên. Tốt hơn hết là cô nên vòng trở lại.” Anh ta vừa nói vừa chỉ tay về phía đường Western Approach. “Có vài kẻ ngớ ngẩn trên các tuyến tàu đến đây… chúng tôi đang cố hết sức để dồn bọn họ tập trung vào phố Canning. Một đám hề, theo thông tin ghi nhận được.”
Siobhan lái xe như được chỉ dẫn và cuối cùng cũng tìm được chỗ trống trong vạch vàng trước nhà hát Lyceum. Cô sang đường, nhưng thay vì tiến thẳng tới trụ sở công ty bảo hiểm Standard Lite, lại quyết định đi quá lên một chút, xuống một trong những con ngõ nhỏ ngoằn ngoéo uốn lượn khắp khu vực này. Ngay khi rẽ một góc dẫn vào phố Canning, cô đã phải dừng khựng ngay lại bởi một hàng rào cảnh sát, ở phía bên kia hàng rào là đám đông những người biểu tình vận đồ đen lẫn với vài nhân vật trông như bước ra từ rạp xiếc. Một đám hề: quả không sai. Đây là lần đầu tiên Siobhan tận mắt chứng kiến Quân đoàn Hề Phiến loạn. Chúng đội những búi tóc giả lòe loẹt màu đỏ và tím, mặt mũi thì sơn trắng bóc. Nhiều tên khua khoắng chổi lông, trong khi những kẻ khác vẫy hoa cẩm chướng. Kẻ nào đó đã xịt hình mặt cười lên một tấm khiên chống bạo loạn của cảnh sát. Lực lượng cảnh sát cũng mặc trang phục đen, đeo đệm lót bảo vệ gối và khuỷu tay, cùng với áo chống đạn và mũ sắt trùm kín mặt. Không hiểu bằng cách nào một tên biểu tình đã trèo được lên bờ tường gần đó và đang ngoáy mông trần trước mặt những cảnh sát bên dưới. Khắp chung quanh là các cửa sổ, đám nhân viên văn phòng đua nhau ngó ra xem. Vô số những tiếng la ó nhưng vẫn chưa thấy cơn thịnh nộ thực sự nào. Vì càng lúc càng có nhiều nhân viên văn phòng ló mặt ra, Siobhan bèn lùi ra tận cầu đường bộ bắc ngang qua đường Westem Approach. Lại một lần nữa, đám biểu tình chiếm ưu thế về quân số. Một người trong bọn họ ngồi xe lăn, lá cờ in hình sư tử đang chồm lên cắm phía sau xe lăn, phấp phới trong gió. Giao thông dẫn vào khu này đã tê liệt. Cảnh sát không ngừng tuýt còi, nhưng những chú ngựa cảnh sát lại chẳng hề nao núng. Một hàng cảnh sát chuẩn bị diễu hành bên dưới cầu đường bộ phải giơ khiên lên trên đầu để bảo vệ bản thân.
Thấy tình hình được kiểm soát tốt và có vẻ sẽ không biến động, Siobhan bèn tiếp bước tới đích cuối cùng.
Cửa xoay dẫn vào quầy tiếp tân của công ty bảo hiểm Standard Lite đã bị khóa. Một nhân viên bảo vệ từ trong ngó ra, ông ta nhìn Siobhan chòng chọc trước khi để cô vào.
“Tôi có thể xem thẻ ra vào của cô được chứ?”
“Tôi không làm việc ở đây.” Siobhan trả lời rồi đưa thẻ cảnh sát của cô cho ông ta.
Người bảo vệ cầm lấy tấm thẻ để xem kỹ. Rồi trả nó lại cho cô và hất cằm ra hiệu về phía quầy tiếp tân.
“Có vấn đề gì à?” cô hỏi.
“Vài kẻ khủng bố đã cố đột nhập. Một tên còn leo vào từ phía tây của tòa nhà. Hình như hắn vẫn đang bị kẹt ở mấy tầng trên ấy.”
“Thật là nực cười.”
“Hắn bị thế cũng xứng đáng mà.” Ông ta vừa nói vừa ra hiệu về phía quầy tiếp tân một lần nữa. “Cô Gina ở đó sẽ chỉ dẫn cho cô.”
Quả thực Gina đã hướng dẫn cô rất tận tình. Đầu tiên là thẻ dành cho khách - “cô hãy cố gắng để nó trong tầm nhìn suốt thời gian ở đây nhé” - tiếp đó là một cuộc điện thoại gọi lên văn phòng. Phòng chờ của công ty trông thật sang trọng, với ghế tràng kỷ kiểu cách và rất nhiều tạp chí, máy pha cà phê tự động và cả một chiếc vô tuyến màn hình phẳng đang chiếu chương trình thiết kế phát vào giữa sáng. Một người phụ nữ xuất hiện và sải chân bước về phía Siobhan.
“Thanh tra Siobhan Clarke phải không? Tôi sẽ đưa cô lên tầng.”
“Bà Jensen?”
Thế nhưng người phụ nữ lắc đầu thay cho câu trả lời. “Xin lỗi đã để cô phải đợi. Cô biết đấy, lúc nào chúng tôi cũng ngổn ngang công việc…”
“Không sao mà. Tôi cũng đang cần xem nên mua loại đèn trần nào.”
Người phụ nữ nở một nụ cười, dù không thực sự hiểu, rồi bà ta dẫn Siobhan vào thang máy. Trong lúc đứng chờ, bà ta chăm chú ngắm nhìn trang phục của mình. “Hôm nay tất cả chúng tôi đều mặc quần áo bình thường,” người phụ nữ giải thích, “còn mọi khi ai cũng mặc áo bờ lu và quần chùng.”
“Như vậy cũng hay.”
“Thật lạ khi được trông thấy vài đồng nghiệp nam vận quần jean và áo phông. Không tài nào nhận ra được vài người trong số họ.” Bà ta ngừng lời trong giây lát. “Cô tới đây là vì cuộc bạo động ở ngoài kia?”
“Không.”
“Xem ra chỉ còn mỗi bà Jensen là còn mù tịt…”
“Còn phụ thuộc liệu tôi sẽ khai sáng mọi việc như thế nào, phải không?” Siobhan đáp và mỉm cười, ngay lúc đó cửa thang máy mở ra.
Tấm biển tên trên cửa văn phòng của Dolly Jensen ghi Dorothy Jensen, nhưng lại không cho biết chức vụ của bà ta.
Siobhan đoán chừng bà ta chắc cững phải tương đối quyền chức. Trợ lý của bà Jensen gõ cửa phòng sếp rồi lui về ngồi ở bàn làm việc của mình. Khu vực làm việc được thiết kế với rất ít vách ngăn, hầu như tất cả nhân viên ở đây đều rời mắt khỏi màn hình vi tính để quan sát vị khách mới tới. Có vài người đang đứng bên cửa sổ, tay cầm ly cà phê lơ đãng quan sát thế giới bên ngoài.
“Mời vào,” có tiếng người cất lên. Sioban mở cửa bước vào rồi đóng cánh cửa lại sau lưng. Bà Dorothy Jensen vừa bắt tay Siobhan vừa mời cô ngồi xuống ghế.
“Bà biết vì sao tôi đến đây chứ?” Siobhan hỏi.
Bà Jensen tựa lưng vào ghế. “Tom kể cho tôi mọi chuyện rồi.”
“Kể từ lúc ấy bà đã rất bận rộn, phải không?”
Bà Jensen đưa mắt kiểm tra bàn làm việc. Bà cũng trạc tuổi ông chồng. Khuôn mặt hơi nam tính với những lọn tóc dày đen nhánh - do đã có sợi bạc nên phải nhuộm, Siobhan đoán chắc - rủ xuống trên đôi vai rộng. Quanh cổ là một chuỗi hạt ngọc trai đơn giản.
“Ý tôi không phải ở đây, bà Jensen,” Siobhan giải thích, để mặc vẻ khó chịu của mình lộ ra. “Tôi muốn nói ở nhà ấy, bà đã xóa sạch mọi dấu vết về trang web của bà.”
“Thế là phạm tội?”
“Hành động đó được coi là ‘cản trở điều tra’. Tôi đã chứng kiến nhiều người phải ra tòa vì việc đó rồi. Có những lần chúng tôi phải đẩy án ngăn cản người thi hành công vụ lên âm mưu phạm tội đấy, nếu thực sự muốn…”
Bà Jensen nắm lấy chiếc bút trên mặt bàn, hết vân vê nắp bút lại tháo ra đóng vào. Siobhan ngầm thỏa mãn vì cô đã đâm thủng được hàng rào phòng thủ của người đàn bà ngồi đối diện.
“Bà Jensen này, tôi cần mọi thứ mà bà đang giữ trong tay - bất cứ tài liệu, địa chỉ, hòm thư điện tử hay bất kỳ cái tên nào. Chúng tôi phải điều tra để sàng lọc tất cả những người đó - kể cả bà và chồng bà - nếu muốn tóm được kẻ sát nhân.” Cô ngừng lời. “Tôi biết bà đang nghĩ gì - ông nhà cũng đã bộc bạch với chúng tôi - và tôi cũng rất cảm kích trước nguyện vọng muốn giúp đỡ con gái và đóng góp cho xã hội ấy. Nhưng bà cần hiểu… dù cho kẻ đứng sau chuyện này là ai đi nữa, hắn sẽ không chịu dừng lại. Rất có thể hắn đã tải xuống được toàn bộ danh sách đăng trên trang web của bà, và điều đó có nghĩa những gã đàn ông kia sẽ trở thành nạn nhân của hắn - tức là không khác mấy so với Vicky.”
Vừa nghe thấy tên cô con gái, bà Jensen liền trợn mắt nhìn trừng trừng vào mắt Siobhan. Nhưng chẳng mấy chúng đã rưng rưng nước. Bà ta buông rơi chiếc bút và mở một ngăn kéo, lấy ra chiếc khăn mùi soa và hỉ mũi.
“Tôi đã cố, cô biết đấy… cố tha thứ. Xét cho cùng thì lòng khoan dung sẽ cho chúng ta cảm giác thanh thản, đúng không?” Bà ta bật ra một tiếng cười đượm vẻ lo lắng. “Những tên này, chúng vào tù là để chịu sự trừng phạt, nhưng người ta cũng mong chúng thay đổi nữa. Những kẻ nhất quyết không chịu thay đổi… chúng thì được ích lợi gì đây? Chúng sẽ trở về xã hội với ta và lặp lại tội ác hết lần này qua lần khác.”
Siobhan đã quá quen thuộc với chủ đề này, và cũng rất nhiều lần cô thấy băn khoăn trước hai luồng quan điểm trái ngược. Nhưng cô giữ im lặng.
“Hắn ta chẳng có vẻ gì là ăn năn cả, chẳng thấy tội lỗi mà cũng chẳng hề thương cảm… Đó là cái loại sinh vật gì vậy? Có còn là con người nữa không? Trước tòa, luật sư biện hộ cứ xoáy vào cái gia đình tan nát của hắn, vào ma túy hắn dùng. Họ gọi đó là ‘một đời sống hỗn độn’. Nhưng chính hắn đã chọn phá hoại cuộc đời Vicky, dục vọng ghê tởm của chính hắn. Tôi nói cho cô hay, chẳng có gì là hỗn độn cả.” Giọng Jensen ngày càng run rẩy vì xúc động. Bà hít một hơi thật sâu, chỉnh lại tư thế nhằm kìm nén nỗi phẫn uất. “Tôi làm việc trong lĩnh vực bảo hiểm. Chúng tôi xử lý lựa chọn và rủi ro. Tôi thực sự hiểu chút ít những gì tôi đang nói.”
“Bà Jensen, bà có còn giữ tài liệu nào không?” Siobhan khẽ hỏi.
“Có một ít,” bà Jensen thừa nhận. “Không nhiều lắm.”
“Thế còn thư điện tử? Chắc hẳn bà phải trao đổi thư từ với những người sử dụng trang web chứ?”
Bà Jensen chậm rãi gật đầu. “Có, tôi có liên lạc với gia đình các nạn nhân khác. Họ cũng bị tình nghi ư?”
“Sớm nhất là bao giờ bà có thể chuyển mọi thông tin ấy cho tôi?”
“Tôi có cần bàn bạc với luật sư của mình không?”
“Cũng được. Trong lúc đó, tôi sẽ cử người tới nhà bà. Anh ấy hiểu biết về máy tính. Để anh ấy tới nhà ông bà thì chúng tôi không cần đem ổ cứng máy tính của bà đi nữa.”
“Được thôi.”
“Tên anh ấy là Bain.” Người hùng Eric Bain của cô nàng bạn gái phổi bò…
Siobhan khẽ xoay mình trong ghế và hắng giọng. “Anh ấy cũng là hạ sĩ như tôi. Tối nay mấy giờ thì thuận tiện nhất cho ông bà?”
“Trông anh uể oải quá,” Mairie Henderson nhận xét khi Rebus xoay xở nhét mình vào ghế hành khách trên chiếc xe thể thao của cô.
“Đêm mất ngủ,” ông đáp. Đấy là ông không muốn nói cú điện thoại bất ngờ lúc mười giờ sáng của cô đã đánh thức ông dậy. “Cái thứ này có ngả thêm ra đằng sau được nữa không?”
Mairie cúi xuống giật mạnh chiếc đòn bẩy, ghế của Rebus lập tức trượt bay ra sau. Rebus xoay người kiểm tra xem phía sau ông còn bao nhiêu khoảng trống.
“Tôi được nghe tất tật các chuyện cười Douglas Bader rồi đấy nhé,” cô cảnh cáo Rebus. “Và cả chuyện ‘chân nam đá chân chiêu’ nữa.”
“Vậy tôi phải lấy làm hổ thẹn rồi,” Rebus nói, vừa thắt chặt dây an toàn. “Nhân tiện, cảm ơn vì đã mời tôi đi cùng.”
“Nếu muốn, anh cứ trả tiền đồ uống là được.”
“Đồ uống gì vậy?”
“Những món làm cớ cho chúng ta có mặt ở đó…” Mairie đang lái xe về phía đầu phố Ardren. Chỉ cần rẽ trái, rẽ phải rồi lại rẽ trái lần nữa là sẽ ra đến đường Grange và chỉ cách khách sạn Prestonfield chừng năm phút đi xe.
Khách sạn Prestonfield là một trong những địa điểm được bảo mật tối ưu của thành phố. Bao quanh bởi loạt nhà gỗ một tầng từ những năm 1930 cùng với tầm nhìn hướng ra dãy chung cư thuộc khu Craigmillar và Niddrie, đó có vẻ là một địa điểm không hứa hẹn gì lắm để làm một tòa nhà lớn mang phong cách biệt thự cổ điển. Khu đất rộng dài xung quanh khách sạn - bao gồm một sân gôn liền kề - khiến nó trở nên cực kỳ biệt lập. Theo như Rebus nhớ thì lần duy nhất mà khách sạn này xuất hiện trên bản tin là khi một nghị sĩ trong Quốc hội sau khi tiệc tùng đã dại dột thử đốt tấm rèm cửa.
“Tôi đã định hỏi từ lúc trên điện thoại…” Rebus nói với Mairie.
“Chuyện gì?”
“Làm sao cô biết được chuyện này?”
“Các đầu mối liên lạc, John à. Không có đầu mối liên lạc chẳng phóng viên nào ra khỏi nhà cả.”
“Tôi sẽ cho cô hay một thứ mà cô đã quên ở nhà… này, phanh cái bẫy chết người này đi chứ!”
“Xe đánh bóng mặt đường của tôi đấy,” Mairie đáp lời. “La cà lãng phí thời gian thật chẳng hay chút nào.” Nhưng rồi cô ta cũng nới lỏng chân ga một chút.
“Cảm ơn,” Rebus nói. “Thế vậy là nhân sự kiện gì?”
“Cà phê buổi sáng, chơi vài đường bóng, rồi ăn trưa.”
“Chính xác là ở đâu?”
Mairie nhún vai ra điều không chắc chắn. “Một phòng họp nào đó, tôi nghĩ vậy. Có thể bữa trưa đích thực sẽ là tại nhà hàng.” Cô bật đèn hiệu xin rẽ trái vào đường xe của khách sạn.
“Thế còn chúng ta…?”
“Tranh thủ tìm kiếm vài phút giây yên bình và tĩnh lặng giữa những chuyện điên rồ này. Cộng thêm trà cho hai người nữa.”
Mấy nhân viên đã đang chờ sẵn ở cửa trước khách sạn. Mairie trình bày tình hình. Có một phòng dọc bên trái hành lang đáp ứng được yêu cầu của hai vị khách, và một phòng khác ở bên phải, ngay quá căn phòng đang đóng kín cửa.
“Có gì đang diễn ra trong đó à?” Mairie trỏ tay hỏi.
“Họp bàn công chuyện”, một nhân viên tiết lộ.
“Ừm, chỉ cần họ không làm om sòm lên thì chúng tôi sẽ thấy ổn thôi.” Nói đoạn cô mở cửa bước vào căn phòng ngay sát nách. Rebus nghe có tiếng chim công kêu quang quác ngoài bãi cỏ.
“Hai ông bà dùng chút trà nóng chứ?” anh chàng trẻ tuổi hỏi.
“Cho tôi cà phê,” Rebus bảo anh ta.
“Trà - loại bạc hà cay nếu các anh có; không thì trà hoa cúc nhé.” Nhân viên bảo vệ vừa rời đi, Mairie liền áp tai vào vách tường ngăn giữa hai phòng.
“Tôi tưởng thời đại này người ta nghe lén bằng thiết bị điện tử cơ mà,” Rebus châm biếm.
“Nếu anh dám chịu chơi,” Mairie thì thào. Nhưng rồi cô ta cũng bỏ tai ra khỏi bức tường. “Toàn những tiếng lầm rầm.”
“Tưởng cô chuẩn bị cho trang nhất.”
Mairie phớt lờ Rebus, đẩy một chiếc ghế lại chỗ khung cửa, đảm bảo ai ra vào căn phòng họp cô đều nhìn thấy.
“Tôi đoán sẽ là bữa trưa nhanh gọn lúc mười hai giờ. Như thế khách khứa sẽ có ấn tượng tốt về dịch vụ của khách sạn.” Cô ta vừa nói vừa nhìn đồng hồ.
“Tôi từng đưa một phụ nữ tới đây ăn tối,” Rebus trầm ngâm. “Sau đó uống cà phê trong thư viện. Nó ỏ tầng trên ấy. Tường phòng ở đấy màu đỏ sậm. Tôi nhớ có ai đó đã kể là chúng được làm bằng da đấy.”
“Giấy dán tường bằng da ư? Thật là khôi hài,” Mairie mỉm cười.
“À mà tôi còn chưa cảm ơn cô vì đã báo ngay cho Cafferty những tin tức về Cyril Colliar đấy…” Mắt ông nhìn xoáy vào mắt cô, khiến cho cô phóng viên đỏ bừng cả mặt lẫn cổ vì xấu hổ.
“Không dám,” cô ta nói.
“Thật hân hạnh được biết tôi tìm gặp cô để chia sẻ những thông tin tuyệt mật, còn cô lại tâu thẳng với kẻ bất lương bậc nhất của thành phố.”
“Chỉ một lần đó thôi, John.”
“Một lần cũng là quá thường xuyên.”
“Việc Colliar bị sát hại giày vò hắn ta dữ lắm.”
“Đúng như tôi muốn.”
Mairie nở một nụ cười mệt mỏi. “Chỉ một lần đó thôi,” cô nhắc lại. “Và xin anh hãy ghi nhớ cái ân huệ to lớn mà tôi đang làm vì anh đây này.”
Rebus chọn cách im lặng và bước ra hành lang thay vì trả lời. Quầy lễ tân ở tít tận đầu kia, quá cả khu nhà hàng. Khách sạn này đã thay đổi chút ít kể từ cái lần Rebus tiêu đến nửa tháng tiền lương cho bữa tối ấy. Những bức rèm nặng nề hơn, đồ nội thất đẹp lạ, trang trí tua rua cầu kỳ ở khắp mọi nơi. Một người đàn ông với làn da ngăm ngăm vận bộ đồ lụa màu xanh cúi đầu khi bước qua Rebus.
“Chào buổi sáng,” Rebus nói.
“Chúc ông buổi sáng tốt lành,” anh ta quả quyết dừng bước và lên tiếng. “Cuộc họp kết thúc rồi phải không?”
“Tôi không biết.”
Người đàn ông lại cúi đầu. “Xin được thứ lỗi. Tôi cứ nghĩ có thể…” Anh ta không nói hết câu mà lại bước ngay về phía phòng họp, gõ cửa một lần rồi biến vào trong. Mairie vừa ló ra ngoài xem xét.
“Kiểu gõ cửa chẳng phức tạp gì,” Rebus cho cô bạn hay.
“Bọn họ không phải hội Tam Điểm đâu.”
Rebus không rõ cho lắm về tổ chức này. G8 xét cho cùng không là hội kín thì là cái gì?
Cửa phòng lại mở ra, và hai người đàn ông từ bên trong bước ra. Họ tiến ra phía lối xe vào khách sạn rồi dừng lại ở đó để châm thuốc.
“Tạm nghỉ để ăn trưa?” Rebus phỏng đoán. Ông theo Mairie trở ra hành lang ở phía trước căn phòng nhỏ của họ, quan sát những người đang bước ra từ căn phòng bên cạnh. Bọn họ có khoảng hai mươi người. Vài người trông giống dân châu Phi, số khác có vẻ là người châu Á và Trung Đông. Vài người mặc những bộ quần áo mà Rebus đoán là quốc phục của họ.
“Chắc là người Kenya, người Sierra Leone, người Nigeria…” Mairie nói thầm.
“Có nghĩa là cô cũng chẳng biết chuyện quái gì đang diễn ra?” Rebus thì thầm hỏi.
“Địa lý có bao giờ là thế mạnh của tôi đâu…” Bỗng cô ta im bặt và giật lấy cánh tay Rebus. Một người đàn ông cao lớn bệ vệ đang hòa mình vào đám đông, vừa bắt tay vừa niềm nở hỏi thăm những người khác. Rebus nhận ra người này nhờ tấm hình trong tập tài liệu mà Mairie chuyển cho ông hôm trước. Khuôn mặt thon dài của ông ta nhăn nheo rám nắng, mái tóc ông ta điểm nâu. Bộ lễ phục kẻ sọc nhỏ với chiếc sơ mi cổ cồn trắng hơi nhàu. Ông ta chia đều nụ cười cho tất cả, dường như với ai cũng có mối quan hệ thân tình. Mairie lùi ra sau vài bước vào trong phòng, trong khi Rebus vẫn đứng nguyên ở hành lang. Richard Pennen quả thật ăn hình. Bằng xương bằng thịt, khuôn mặt ông ta hơi xương xẩu hơn, đôi mắt hùm hụp u ám. Dù vậy trông ông ta vẫn cực kỳ khỏe khoắn, cứ như thể ông ta vừa mới dành trọn hai ngày cuối tuần trên một bãi biển vùng nhiệt đới vậy. Các trợ lý lúc nào cũng kè kè bên ông ta, thì thào vào tai ông ta những thông tin cần thiết, để đảm bảo cuộc khúc này của ngày hôm nay, như mọi khúc trước và sau đó, sẽ diễn ra tốt đẹp ăn khớp.
Một nhân viên phục vụ đột nhiên che khuất tầm nhìn của Rebus. Anh ta bưng khay trà và cà phê. Khi tránh người cho anh phục vụ đi, Rebus nhận ra ông đã lọt vào tầm mắt Richard Pennen.
“Đến lượt anh rồi đấy,” Mairie nói. Rebus liền trở vào phòng trả tiền đồ uống.
“Thanh tra Rebus phải không?” Richard Pennen cất tiếng hỏi với giọng trầm ấm. Ông ta đứng cách Rebus chỉ vài bước chân, mấy tay trợ lý vẫn ốp sát sườn.
“Mairie Henderson, thưa ngài Pennen. Thảm kịch kinh hoàng ở lâu đài đêm qua…”
“Rất kinh hoàng,” Pennen đồng tình.
“Chắc hẳn ngài cũng có mặt.”
“Đúng vậy.”
“Thưa ngài, cô này là nhà báo,” một trong số những trợ lý nói.
“Tôi không đoán ra đấy,” Pennen đáp và nở nụ cười.
“Tôi chỉ đang băn khoăn,” Mairie tiếp tục đào xới thông tin, “vì sao ngài lại chi trả tiền phòng khách sạn cho nghị sĩ Webster?”
“Tôi không chi trả - mà là công ty của tôi.”
“Ngài sẽ được lợi gì khi đưa ra quyết định miễn nợ?”
Thế nhưng Pennen lại đang hướng toàn bộ chú ý vào Rebus. “Có người cho biết rất có thể tôi sẽ gặp anh.”
“Trung tá Steelforth đứng cùng phe với ông chẳng hay quá…”
Pennen đưa mắt nhìn Rebus từ đầu tới chân. “Ông ta miêu tả anh không được công bằng cho lắm, thanh tra ạ.”
“Cũng tốt, mất công mô tả.” Rebus đã muốn nói thêm: vì sớm muộn gì tôi cũng sẽ cho hắn khốn đốn.
“Chắc hẳn anh ý thức được những rắc rối mà mình sẽ gặp phải nếu tôi trình báo với bên cảnh sát về cuộc xâm phạm này chứ?”
“Chúng tôi chỉ đang thưởng thức vài chén trà thôi, thưa ngài,” Rebus nói. “Theo tôi nhận thấy thì chính ngài mới đang xâm phạm đấy.”
Pennen lại mỉm cười. “Được lắm.” Ông ta quay sang Mairie. “Cô Henderson, Ben Webster là một nghị sĩ kiêm thư ký riêng của quốc hội tốt, và vô cùng thận trọng. Cô biết đấy, bất cứ thứ tặng phẩm nào từ công ty của tôi cũng được ghi rõ trong danh sách các quyền lợi dành cho thành viên.”
“Thế chưa trả lời được câu hỏi của tôi.”
Pennen khẽ nghiến quai hàm. Ông ta hít một hơi thật sâu. “Tập đoàn Công nghiệp Pennen chủ yếu hoạt động ở nước ngoài - cứ tham khảo ý kiến của người phụ trách mảng kinh tế ở tòa soạn của cô. Cô sẽ biết được chúng tôi là nhà xuất khẩu chủ chốt thế nào.”
“Xuất khẩu vũ khí,” Mairie tuyên bố.
“Xuất khẩu công nghệ,” Pennen chỉnh lại. “Hơn nữa, chúng tôi hỗ trợ tài chính cho một vài nước nghèo nhất thế giới. Đó là lý do tại sao Ben Webster lại liên quan tới chúng tôi.” Nói rồi ông ta lại quay cái nhìn về Rebus. “Chẳng giấu gì thanh tra, trung tá David Steelforth chỉ đang thực hiện nhiệm vụ của mình thôi. Nhiều hợp đồng có thể được ký kết trong mấy ngày sắp tới… những dự án khổng lồ đã được bật đèn xanh. Hợp đồng ký xong, kết quả sẽ là tạo ra công ăn việc làm. Đây không đơn thuần chỉ là những chuyện hay hay ho ho mà giới truyền thông khai thác đâu. Còn bây giờ, xin được thứ lỗi…” Pennen quay người bước đi, trong khi Rebus khoái chí nhận thấy có thứ gì đang dính trên gót một chiếc giày da đen bóng. Dù không hoàn toàn chắc chắn nhưng Rebus vẫn cứ nghiễm nhiên cho rằng cái thứ ấy chính là phân mấy con chim công.
Mairie ngồi phịch xuống tràng kỷ khiến chiếc ghế kêu lên răng rắc như thể chưa bao giờ bị đối xử tàn tệ đến thế.
“Chán thật,” cô than vãn, vừa rót trà vào tách. Rebus nhận ra mùi bạc hà cay cay thơm nồng. Ông tự rót cho mình chút cà phê từ chiếc bình giữ nhiệt nhỏ.
“Nhắc mới nhớ,” ông nói, “toàn bộ những chuyện này tiêu tốn hết bao nhiêu tiền?”
“Toàn bộ G8?” Mairie chờ đến khi Rebus gật đầu mới thở hắt ra cố lục lọi trí nhớ. “Một trăm năm mươi thì phải?”
“Triệu?”
“Ừ, triệu.”
“Thảo nào tất cả các doanh nhân như Pennen phải ra sức tranh thủ.”
“Chắc còn hơn thế một chút nữa cơ…” Mairie khẽ cười. “Nhưng anh đoán đúng khía cạnh nào đấy đấy: thỏa thuận xong hết cả rồi.”
“Thế thì tổ chức hội nghị ở Gleneagles có nghĩa lý gì cơ chứ, rốt cuộc cũng chỉ là vài bữa tiệc và những cái bắt tay thân mật trước máy ghi hình mà thôi.”
“Để đẩy mạnh vị thế của Scotland trên bản đồ thế giới chăng?” Mairie phỏng đoán.
“Ừ nhỉ, phải rồi.” Rebus làm như vừa nhận ra cái mục đích cao cả ấy. Ông uống nốt chỗ cà phê. “Hay là chúng ta ở lại đây ăn trưa, để xem liệu ta còn có thể khiến Pennen tức điên hơn ban nãy hay không.”
“Có chắc anh đủ sức trả tiền không đấy?”
Rebus đưa mắt nhìn quanh. “Cô vừa nhắc tôi nhớ anh chàng phục vụ chuyên xu nịnh kia chẳng hề quay lại với chỗ tiền lẻ còn thừa của tôi.”
“Tiền lẻ ư?” Mairie cười váng lên. Rebus thừa hiểu ẩn ý của cô và quyết định cần phải rót nốt chỗ cà phê trong bình tới giọt cuối cùng.
Theo các tin tức trên truyền hình, khu trung tâm Edinburgh đã thành chiến địa.
Hai rưỡi trưa ngày thứ Hai. Mọi khi vào giờ này, hàng đoàn người đi mua sắm trên phố Princes, khệ nệ những món đồ mua được; còn mọi người trong công viên Gardens ngay cạnh đó sẽ nhẩn nha dạo chơi hoặc nghỉ ngơi thư thái trên những băng ghế dài tưởng niệm các danh nhân quá cố.
Nhưng ngày hôm nay thì không.
Vô tuyến cập nhật nhiều bản tin về cuộc bạo động tại căn cứ Hải quân Faslane - đại bản doanh của cả bốn chiếc tàu ngầm loại Trident vĩ đại của Anh quốc. Nơi này đang bị khoảng hai nghìn kẻ biểu tình vây hãm. Lần đầu tiên trong lịch sử cảnh sát đồn Fife được trao quyền kiểm soát cầu Forth Road. Xe hơi chạy về hướng bắc đều bị chặn lại để kiểm tra. Biển người biểu tình ngồi kín các nẻo đường dẫn vào thủ đô khiến cho giao thông bị tê liệt. Vài cuộc hỗn chiến do đám đông phản kháng khơi mào đã nổ ra gần Trại Hòa bình tại Stirling.
Và một vụ bạo động đã bắt đầu bùng phát trên phố Princes. Lực lượng cảnh sát sử dụng dùi cui đang dốc sức thể hiện uy lực. Họ mang những chiếc khiên hình tròn mà Siobhan chưa từng thấy bao giờ. Khu vực quanh phố Canning vẫn đang rắc rối. Đoàn người tuần hành khiến cho giao thông trên cửa ngõ phía tây (Western Approach) tiếp tục bị đình trệ. Ti vi lại cắt sang cảnh trên phố Princes. Dường như những kẻ biểu tình thua về số lượng không chỉ lực lượng cảnh sát mà còn cả rừng máy quay. Cả hai bên đều đang gây sức ép.
“Bọn chúng đang cố tình khiêu chiến đấy,” Eric Bain nhận xét. Anh ta đến đồn Gayfield để báo cho Siobhan biết cho đến hôm nay anh ta chưa tìm được mấy tí dữ liệu.
“Cứ chờ đến khi anh gặp bà Jensen cũng được,” Siobhan bảo, và chỉ nhận được cái nhún vai thay vì trả lời.
Lúc này không còn ai khác ngoài cô và anh chàng chuyên viên công nghệ thông tin trong Phòng Điều tra Hình sự. “Cô thấy chúng đang làm gì chứ?” Bain vừa chỉ tay vào màn hình vừa hỏi. “Một kẻ bạo loạn ra đòn, rồi rút lui ngay tức khắc. Tay cảnh sát gần đó nhất giơ dùi cui lên đỡ đòn, cánh báo chí truyền hình sẽ chộp ngay được cảnh anh ta tấn công một người đáng thương đứng ở hàng trên cùng. Trong khi ấy, kẻ gây rối thực sự lại đang lẩn trốn ở đâu đó phía sau và chực diễn trò đó lần nữa.”
Siobhan gật đầu. “Như thế khiến chúng ta trông có vẻ hơi nặng tay.”
“Chính là điều mà bọn phản loạn muốn.” Anh ta khoanh tay lại và tỏ vẻ khó chịu. “Chúng đã học được vài mánh lới từ lần ở Genoa…”
“Nhưng ta cũng vậy mà,” Siobhan nói. “Như chiến thuật ngăn chặn chẳng hạn. Đám người ở phố Canning đã bị quây đến giờ là được bốn tiếng rồi đấy.”
Quay lại trường quay, một trong những người dẫn chương trình đang có cuộc trao đổi trực tiếp với nhà hoạt động xã hội Midge Ure. Ông ta cất lời kêu gọi những người biểu tình hãy dừng lại và trở về nhà.
“Đáng tiếc là chẳng ai buồn lắng nghe ông ta cả,” Bain nhận định.
“Anh sẽ nói chuyện với bà Jensen chứ?” Siobhan gợi ý.
“Vâng, thưa sếp. Tôi nên ép bà ta tới mức nào?”
“Tôi đã cảnh cáo rằng ta có thể kiện bà ta ra tòa với tội danh cản trở điều tra rồi. Anh hãy nhắc lại cho bà ta nhớ.” Siobhan viết địa chỉ gia đình Jensen lên trang giấy trong cuốn sổ tay rồi xé nó ra đưa cho Bain. Anh ta nhận lấy tờ giấy rồi lại hướng sự tập trung trở lại màn hình vô tuyến. Thêm nhiều hình ảnh trực tiếp khác từ phố Princes. Vài người biểu tình đã trèo lên Đài tưởng niệm Scott từ lúc nào. Những kẻ khác đang cố trườn qua hàng rào để chui vào công viên Gardens. Những cú đá túi bụi vào khiên bảo vệ. Những mảng đất cỏ bay vèo về phía cảnh sát. Tiếp theo sẽ là ghế băng và thùng rác.
“Tình hình ngày càng tệ,” Bain lẩm bẩm. Màn hình bỗng lóe sáng. Địa điểm mới: phố Torphichen, khu vực đồn cảnh sát West End trong nội thành. Gậy gộc và chai lọ đua nhau bay vèo vèo. “Thật may là chúng ta không bị kẹt ở đó,” Bain thở phào.
“Không, chúng ta kẹt ở đây rồi.”
Bain quay sang nhìn Siobhan. “Chẳng lẽ cô lại muốn có mặt ở đó?”
Cô nhún vai, đôi mắt vẫn chăm chú huống vào màn hình. Đột nhiên ai đó gọi di động tới đường dây của chương trình, là một người đi mua sắm đang bị kẹt cùng nhiều người khác tại chi nhánh của chuỗi cửa hàng Tổ Ấm Kiểu Anh trên phố Princes.
“Chúng tôi chỉ là người ngoài cuộc thôi,” người phụ nữ gào lên. “Chúng tôi chỉ mong được thoát ra khỏi nơi này, nhưng cảnh sát đang đối xử với chúng tôi chẳng khác nào những kẻ biểu tình… ở đây có cả những người mẹ bế theo con nhỏ… cả người già nữa…”
“Bà muốn nói cảnh sát đang phản ứng thái quá ư?” ký giả nào đó phụ trách chương trình hỏi lại. Nghe vậy Siobhan liền với lấy chiếc điều khiển vô tuyến để chuyển kênh: chương trình Columbo, rồi chương trình Điều tra: Một vụ án mạng ở kênh khác… Trên kênh 4 lại đang chiếu phim.
“Đó là phim Bị bắt cóc đấy,” Bain nói với giọng hào hứng. “Tuyệt vời.”
“Xin lỗi phải làm anh thất vọng nhé,” Siobhan nói rồi chuyển sang kênh tin tức khác: cùng cuộc bạo động, khác các góc quay, vẫn kẻ biểu tình mà cô đã thấy ở phố Canning đang chễm chệ trên bờ tường. Giờ hắn đang ngồi xuống đung đưa hai chân, chỉ có đôi mắt hắn lộ ra qua lỗ thủng trên chiếc mũ trùm kín đầu. Hắn đang cầm điện thoại áp sát lên tai.
“Tên kia làm tôi nhớ ra chuyện này,” Bain nói, “hôm trước Rebus qua ống nghe có hỏi tôi làm thế nào mà một thuê bao đã khóa vẫn hoạt động được.”
Siobhan quay sang nhìn Bain. “Anh ấy có nói vì sao lại hỏi thế không?” Bain lắc đầu. “Vậy anh nói sao?”
“Chủ thuê bao có thể tháo thẻ SIM ra, hoặc cài đặt chế độ chỉ nhận điện thoại từ những số máy nhất định.” Anh ta ngừng lời và nhún vai. “Có vô vàn các cách mà.”
Siobhan gật đầu rồi lại dõi ánh mắt lên màn hình vô tuyến. Bain đưa bàn tay ra xoa xoa sau gáy.
“Vậy cô nghĩ thế nào về Molly?” anh ta hỏi.
“Anh quả là người đàn ông may mắn đấy, Eric ạ.”
Anh ta sung sướng toét miệng cười. “Tôi cũng nghĩ thế.”
“Nhưng tôi muốn biết,” Siobhan hỏi, thấy ghét chính cô vì không thể kìm nén bản thân mình, “lúc nào cô nàng ấy cũng nồng nhiệt quá mức như thế à?”
Nụ cười hớn hở của Bain lập tức tắt ngóm.
“Xin lỗi nhé, Eric, tôi không có ý đó.”
“Molly nói cô ấy quý cô,” anh ta kể. “Cô ấy chẳng có tật xấu nào cả.”
“Cô ấy rất tuyệt,” Siobhan đồng tình. Nhưng ngay cả với chính cô, lời khen xã giao này nghe cũng thật sáo rỗng. “Thế nào mà hai người lại quen nhau?”
Toàn thân Bain dường như đông cứng lại trong khoảnh khắc. “Ở hộp đêm,” anh ta trả lời khi bình tĩnh hơn.
“Tôi chưa bao giờ nghĩ rằng anh thích nhảy nhót cả, Eric à.” Siobhan vừa nói vừa liếc mắt nhìn anh chàng.
“Molly là một vũ công rất cừ đấy.”
“Cô ấy có thân hình chuẩn vũ công…” Siobhan như kẻ lang thang trên sa mạc đột nhiên phát hiện ra một ốc đảo xanh tươi khi nghe tiếng chuông điện thoại trong túi cô phát ra. Lúc này trong cô chỉ có một niềm mong mỏi duy nhất là cú điện thoạt sẽ cho cô cái cớ để mau chóng thoát khỏi nơi này ngay tức khắc… Là số máy của cha mẹ cô.
“A lô?”
Ban đầu Siobhan cứ ngỡ tiếng ồn mà cô nghe được là tiếng nhiễu trên đường truyền điện thoại, nhưng rồi cô nhận ra: tiếng người la ó, kêu thét và cả tiếng huýt gió. Om sòm hệt như lúc cô nghe trên bản tin về phố Princes ban nãy.
“Mẹ à?” cô hỏi. “Cha à?”
Và rồi giọng của cha cô ở đầu máy bên kia cất lên. “Siobhan? Con có nghe thấy cha nói không?”
“Cha à? Cha mẹ đang làm gì ở đấy thế?”
“Mẹ con…”
“Sao cơ? Cha à, cha đưa máy cho mẹ nói chuyện đi.”
“Mẹ con đã…”
“Có chuyện gì…?”
“Mẹ con đang bị chảy máu… phải gọi xe cấp cứu…”
“Cha à, điện thoại sắp sửa mất sóng. Chính xác thì cha mẹ đang ở đâu?”
“Quầy tạp hóa… Công viên Gardens.”
Tín hiệu tắt ngóm. Cô nhìn đăm đăm vào màn hình nhỏ hình chữ nhật của chiếc điện thoại. Mất liên lạc rồi.
“Mất liên lạc rồi,” cô thốt ra thành tiếng.
“Chuyện gì vậy?” Bain hỏi.
“Cha mẹ tôi… họ đang có mặt ở đó.” Cô hất cằm về phía màn hình vô tuyến. “Anh cho tôi quá giang được không?”
“Tới đâu cơ?”
“Tới đó.” Cô đưa ngón tay chỉ vào màn hình.
“Tới đó á?”
“Tới đó.”