PHẦN THỨ Hai (14) Khiêu Vũ Với QuỷChủ nhật ngày 3 tháng Bảy
Cái mảnh đất được gọi là Khu cắm trại Đường chân trời ở ven trị trấn Stirling, nằm kẹp giữa một bên là sân bóng đá và bên kia là khu công thương nghiệp gợi cho Siobhan nhớ đến những chiếc lều tạm mà cô vẫn nhìn thấy xung quanh căn cứ không quân Greenham Common vào những năm 1980 - hồi Siobhan hãy còn là một cô bé thiếu niên vẫy xe đi nhờ đến khu căn cứ ấy để tham gia phản đối hoạt động chế tạo tên lửa hạt nhân. Nhưng ở đây không chỉ có lều tạm, mà còn có nhiều chiếc lều rất cầu kỳ và cả những cấu trúc bằng gỗ liễu gai, giống kiểu lều tuyết của người Scotland. Vải bạt giăng giữa các thân cây, với những áng cầu vồng và biểu tượng hòa bình được sơn bên ngoài. Khói bốc lên từ những đống lửa trại, và trong không khí còn phảng phất cả mùi gai dầu hăng hắc. Hình như những tấm thu năng lượng mặt trời và một tua bin nhỏ chạy bằng sức gió đang phát điện thắp sáng hàng loạt dây bóng đèn sặc sỡ sắc màu. Một chiếc xe lưu động nằm im đằng xa đang diễn ra hoạt động tư vấn về luật pháp và cung cấp bao cao su miễn phí, đồng thời phân phát tờ rơi với nội dung xoay quanh tất cả mọi thứ trên đời, từ đại dịch HIV/ ADIS cho đến tình hình công nợ của các nước lạc hậu thuộc thế giới thứ ba.
Dọc đường từ Edinburgh tới đây cô phải dừng xe lại tổng cộng năm trạm kiểm soát riêng rẽ. Thậm chí một nhân viên an ninh còn nhất quyết yêu cầu cô cho kiểm tra thùng xe bất chấp việc cô đã xuất trình thẻ cảnh sát cho anh ta xem.
“Đám người này tranh thủ cảm tình của đủ mọi hạng người ủng hộ chúng,” anh ta giải thích cho tinh thần làm việc nghiêm túc của mình.
“Họ sắp có thêm một người ủng hộ nữa rồi đấy,” Siobhan cằn nhằn đáp.
Dường như cư dân của khu trại đã tự động chia thành các nhóm riêng, những người chống đói nghèo tách biệt hẳn với những kẻ bảo thủ theo chủ trương vô chính phủ. Lằn ranh giữa hai nhóm người được thiết lập bởi những lá cờ đỏ phất phơ trước gió. Những người ăn mặc theo lối hippie thời trước thì làm thành một nhóm khác, một gian lều lớn làm nơi tập trung của họ. Món đậu hầm đang ở trên bếp lửa bập bùng, trong khi một tấm biển tạm thời quảng cáo cho đợt trị liệu tâm thần theo phương pháp Reiki và Chính thể luận kéo dài từ năm đến tám giờ, với “giá ưu đãi cho những người thất nghiệp và các bạn học sinh, sinh viên”.
Siobhan hỏi thăm một người trong số những bảo vệ ở cổng ra vào về Santal. Nhưng chỉ nhận được từ ông ta cái lắc đầu.
“Không có đăng ký tên, cũng không phạt phiếc gì cả.” Rồi ông ta nhìn cô một lượt từ đầu đến chân. “Cô muốn nghe cảnh cáo không?”
“Sao cơ?”
“Trông cô giống như cớm chìm ấy.”
Siobhan nhìn thẳng vào mắt người bảo vệ. “Tại bộ quần áo công nhân phải không?”
Ông ta lại lắc đầu. “Tóc tai sạch sẽ quá.”
Thế là cô đưa tay lên làm rối mái tóc, nhưng có vẻ vẫn chưa đủ thuyết phục được người bảo vệ. “Còn ai nằm vùng trong đấy nữa không?”
“Chắc chắn là có rồi,” ông ta vừa nói vừa mỉm cười. “Nhưng làm sao mà tôi phát hiện được những người cải trang tài tình chứ, phải không nào?”
Xe của cô gửi ở trung tâm thành phố, vì nếu trường hợp xấu nhất xảy ra cô thà ngủ trong xe còn hơn phải ngủ ngoài trời sao. Khu cắm trại này rộng lớn hơn khu trại ở Edinburgh rất nhiều, lều trại cũng chen nhau san sát hơn. Màn đêm đang dần buông, cô phải hết sức cẩn thận tránh những cọc lều và đống dây nhợ xung quanh. Nãy giờ đã hai lần cô đi ngang qua anh chàng râu ria xồm xoàm đang cố thu hút sự chú ý của mọi người bằng “phương thức thư giãn với thảo mộc”. Ánh mắt hai người gặp nhau khi Siobhan đi qua trước mặt anh ta lần thứ ba.
“Cô đang tìm ai à?” anh ta hỏi.
“Một người bạn tên Santal.”
Anh ta lắc đầu. “Tên không phổ thông lắm nhỉ.” Cô bèn mô tả sơ qua diện mạo. Anh ta lại lắc đầu. “Cô cứ ngồi đây mà đợi, biết đâu tự dưng bạn cô lại xuất hiện.” Anh ta chìa ra điếu thuốc lá quấn sẵn. “Xin mời, nhà tự làm đấy.”
“Chỉ dành cho khách hàng mới thôi à?” cô đoán.
“Ngay cả lực lượng giữ gìn an ninh trật tự cũng cần được dãn gân dãn cốt khi ngày tàn chứ.”
Cô trợn tròn mắt nhìn anh ta trong giây lát. “Ấn tượng đấy. Có phải tại mái tóc không?”
“Tại cái ba lô,” anh ta nhận xét. “Mọi người ai cũng đeo ba lô lấm lem bùn đất. Còn thứ đó…” anh ta ám chỉ món đồ đã tố cáo thân phận của Siobhan, “khiến cô trông cứ như đang trên đường tới phòng tập thể dục ấy.”
“Cảm ơn về lời khuyên. Không sợ tôi sẽ bịt miệng anh sao?”
Anh ta nhún vai. “Cứ thử xem, nếu cô muốn bạo động.”
Cô cười xòa. “Chắc để khi khác.”
“Không hiểu ‘người bạn’ của cô có thuộc đoàn quân tiên phong không nhỉ?”
“Còn tùy vào ý của anh là thế nào.”
Anh ta đã ngừng lời để châm thuốc, rít mạnh một hơi rồi vừa thở ra vừa nói. “Vì thể nào đường sá cũng bị phong tỏa ngay từ sáng tinh mơ, cảnh sát các cô muốn ngăn bọn tôi tiến về phía khách sạn mà.” Anh ta nhướn mày ngụ ý mời cô rít thuốc nhưng cô lắc đầu từ chối.
“Không thử sao biết được,” anh ta châm chọc.
“Tin hay không tùy anh, nhưng tôi cũng từng là thiếu niên rồi… Vậy là đội quân tiên phong khởi hành từ ban nãy à?”
“Cùng với bản đồ của Cục Bản đồ trong tay. Dãy đồi Ochil là thứ duy nhất ngăn cách bọn tôi với chiến thắng.”
“Tính băng qua đồi trong đêm tối ư? Chẳng phải như thế hơi mạo hiểm sao?”
Anh ta nhún vai, rồi rít một hơi thuốc nữa. Bỗng nhiên có một người phụ nữ trẻ lảng vảng tới gần. “Phục vụ cô gì đây?” anh ta hỏi. Cuộc giao dịch diễn ra chóng vánh trong vòng nửa phút: một nhúm thuốc lá nhỏ xíu bọc bằng vải thun đổi lấy ba tờ giấy bạc, mỗi tờ trị giá mười bảng Anh.
“Cảm ơn,” người phụ nữ nói. Rồi quay sang Siobhan: “Chúc cán bộ buổi tối tốt lành.” Đến tận khi rời đi cô ta vẫn cười khinh khích vì khoái chí. Anh chàng chào hàng liếc mắt nhìn bộ quần áo công nhân trên người Siobhan.
“Đến là chịu thua,” Siobhan thừa nhận.
“Cho nên cứ nghe lời tôi đi: hãy ngồi đây nghỉ một lúc. Có khi cô lại tìm thấy thứ mà cô chẳng biết là cô đang tìm ấy chứ.” Anh ta vừa vuốt vuốt chòm râu vừa nói.
“Rất là… sâu sắc,” Siobhan nói với anh ta, giọng điệu của cô cho hay cô đang nghĩ hoàn toàn ngược lại.
“Rồi cô sẽ thấy,” anh ta hậm hực rồi bước qua Siobhan, biến mất vào đám đông. Còn lại một mình, cô đành quay về chỗ vành đai của khu trại và quyết định gọi cho Rebus. Ông không bắt máy, vì thế cô đành nhắn một cái tin cho ông.
“Này, tôi đây. Tôi đang ở Stirling, vẫn chưa thấy Santal. Mai sẽ gặp nhau nhưng nếu anh cần tôi thì cứ gọi nhé, đừng ngại.”
Một đoàn người dáng điệu mệt lử nhưng đầy phấn khích nối đuôi nhau tiến vào khu cắm trại. Siobhan gập ngay điện thoại cầm tay lại và bước tới đủ gần để nghe trong lúc bọn họ hồ hởi gặp mặt đồng đội trong khu trại.
“Ra đa tầm nhiệt… cả chó nữa…”
“Trời ơi, được trang bị đến tận răng…”
“Giọng Mỹ… chắc chắn là lính thủy đánh bộ… không đeo phù hiệu gì hết…”
“Máy bay trực thăng… đèn rọi…”
“Gí chúng tôi gần chết…”
“Đuổi theo bọn tôi đến tận nửa đường trở về doanh trại…”
Thế rồi bắt đầu nhao nhao hỏi han. Bọn chúng theo sát đến đâu? Có sơ hở nào trong khâu an ninh không? Bọn chúng có theo đến tận vành đai không? Còn ai ở ngoài đó không?
“Bọn tôi phải phân tán ra…”
“Tôi đoán đấy là súng bán tự động…”
“Không hề hoảng loạn…”
“Chia làm mười nhóm, mỗi nhóm ba người… như thế dễ tẩu tán hơn…”
“Toàn là vũ khí tối tân…”
Một tràng câu hỏi khác được bắn ra. Siobhan tranh thủ đếm số đầu người và dừng lại ở con số mười lăm. Như vậy hãy còn mười lăm kẻ khác đang mò mẫm đâu đó trên dãy đồi Ochil. Lợi dụng không khí ồn ào huyên náo, cô đánh liều cất tiếng hỏi.
“Santal đâu rồi?”
Một cái đầu lắc lắc. “Chẳng thấy cô ấy sau khi tách nhau ra.”
Một kẻ khác trải rộng tấm bản đồ để đánh dấu xem cả bọn đã đặt chân tới được những đâu. Anh ta đeo đèn pin trên trán và đang lần theo lộ trình bằng ngón tay dính đầy bùn đất. Siobhan chen vào gần hơn.
“Chỗ này hoàn toàn bị cấm đấy…”
“Chắc phải là một điểm trọng yếu…”
“Chúng ta chỉ được lợi thế về mặt quân số thôi…”
“Ngay sáng mai quân số của ta sẽ lên tới mười nghìn người cơ mà.”
“Xì gà thảo mộc dành cho tất cả những người lính quả cảm của chúng ta!” Cả đám cười váng lên khi nhận những điếu thuốc từ người chào hàng - căng thẳng mệt nhọc bỗng chốc tan biến. Siobhan lui về phía sau của đám đông. Đột nhiên một bàn tay từ đâu thò ra túm lấy cánh tay cô. Đó chính là người phụ nữ mua thuốc lá của anh chàng ban nãy.
“Đồ lợn khôn hồn thì bay đi,” cô ta rít lên.
Siobhan trợn mắt nhìn cô ta. “Không thì sao?”
Người phụ nữ trẻ tuổi nở nụ cười đầy ác ý. “Không thì tôi rít lên bây giờ.”
Siobhan chẳng nói chẳng rằng: cô xốc chiếc ba lô trên vai rồi rúi lui. Người phụ nữ trẻ giơ tay phẩy phẩy ra điều đuổi. Người bảo vệ khi nãy vẫn đang trực ở cổng.
“Cải trang thành công chứ?” ông ta hỏi với nụ cười đượm vẻ ngơ ngẩn.
Trên đường về trung tâm thành phố lấy xe hơi, Siobhan đã hình dung đến lúc cô sẽ trở lại nơi này.
Rebus cũng thử cư xử như một người đàn ông hào hoa phong nhã: quay về sở quảng trường Gayfield trong tay mang theo mấy hộp mì ăn liền cùng với món gà nướng bọc giấy bạc.
“Anh đang làm hư tôi đấy,” Ellen Wylie trêu đùa khi Rebus bắc ấm đun nước.
“Ưu tiên cô chọn trước - thịt gà với nấm rơm hay bò nấu cà ri?”
“Thịt gà.” Cô đáp, rồi ngó ông mở nắp hộp mì làm bằng nhựa dẻo. “Thế mọi việc thế nào rồi?”
“Tôi có gặp được Hackman.”
“Thế nào?”
“Cậu ta muốn tôi đưa đi một vòng quanh mấy chốn ăn chơi sa đọa.”
“Khiếp quá!”
“Tôi bảo không theo được vụ đó, thành thử cậu ta toàn tiết lộ những điều chúng ta đã biết rồi.”
“Hoặc là đã đoán được rồi?” Cô bước tới đứng cùng Rebus bên chiếc ấm đun nước. Nhấc một bịch gà nướng lên kiểm tra hạn sử dụng: trên lớp giấy bạc bọc ngoài ghi rõ rành rành ngày mùng 5 tháng 7. “Hàng giảm nửa giá,” cô nhận xét.
“Biết ngay sẽ khiến cô ấn tượng mà. Nhưng hãy còn nữa đấy.” Ông lấy trong túi áo ra thanh sô cô la hiệu Sao Hỏa rồi đưa cho cô. “Có tin gì về Edward Isley không?”
“Lại phải chờ hồ sơ gửi tới,” cô nói, “nhưng tay thanh tra trao đổi với tôi có vẻ khá lắm. Anh ta ghi nhớ gần như tất cả các tình tiết của vụ án.”
“Để tôi đoán nhé: lại điệp khúc ‘hắn chẳng thiếu gì kẻ thù… ai đó đang căm hận hắn tột cùng… hiện tại chưa kết luận được gì… chưa có tiến triển gì’, phải không?”
“Ừ thì cũng chỉ thế thôi,” cô thừa nhận. “Tôi có cảm tưởng rằng họ còn bỏ không động tới nhiều đầu mối.”
“Không có liên hệ nào giữa Eddie Trác Táng với ông tướng Guest à?”
Cô lắc đầu. “Nhà lao khác nhau, không có dấu hiệu đã từng kết giao. Isley chưa từng đặt chân đến Newcastle còn Guest thì chẳng bao giờ lởn vởn quanh thị xã Carlisle hay trên xa lộ M6.”
“Và có lẽ Cyril Colliar cũng không quen cả hai tên.”
“Điều này đưa ta trở lại với đầu mối trang thông tin trực tuyến Canh chừng Ác thú.” Wylie vừa nói vừa nhìn Rebus rót nước sôi vào chỗ mì ăn liền. Ông đưa cô chiếc thìa và hai người bắt đầu khuấy hộp mì của mình.
“Cô nói chuyện với ai ở đồn Torphichen chưa?” ông hỏi.
“Đã báo với họ rằng anh đang thiếu nhân sự.”
“Thế nào Ngài Bí Tỉ chẳng bóng gió rằng chúng ta đang này nọ với nhau.”
“Anh có vẻ đi guốc trong bụng hạ sĩ Reynolds gớm nhỉ,” cô mỉm cười. “À mà bên Inverness gửi ảnh rồi đấy.”
“Nhanh thật.” Ông bước đến xem cô đăng nhập vào máy tính. Những bức ảnh hiện ra ở định dạng nhỏ xíu nhưng Wylie đã nhanh chóng phóng to chúng lên.
“Trông giống hệt ở Auchterarder,” Rebus nhận xét.
“Người chụp có mấy tấm cận cảnh đấy,” Wylie nói rồi đưa ảnh ra màn hình. Những miếng vải rách rưới tả tơi, không có vẻ gì là mới được bỏ lại gần đây. “Anh nghĩ sao?” cô hỏi.
“Tôi thấy chẳng có ích gì cho ta cả, cô công nhận không?”
“Ừ,” cô đồng tình. Bỗng một chiếc điện thoại đổ chuông. Cô nhấc máy lên nghe.
“Cho anh ta lên,” cô trả lời rồi đặt ống nghe xuống. “Người nào đó tên là Mungo,” cô thông báo. “Anh ta nói đã hẹn trước.”
“Được mời đến thì đúng hơn,” Rebus nói, vừa hít thử món mì hộp ông vừa mở. “Liệu anh ta có thích gà nướng không nhỉ?”
Hóa ra Mungo có thích món gà nướng, nên đã tiêu diệt hết hai miếng lớn trong lúc Rebus và Wylie xem xét những tấm ảnh.
“Cậu làm việc nhanh nhẹn thật đấy,” Rebus nhận xét với ngụ ý cảm ơn.
“Ta đang xem gì đây?” Ellen Wylie hỏi.
“Tối thứ Sáu,” Rebus giải thích. “Một bữa tiệc ở lâu đài.”
“Hôm Ben Webster tự tử?”
Rebus gật đầu. “Anh ta kia kìa,” ông nói và gõ lên một trong những khuôn mặt. Quả thực Mungo không phải loại nói suông: không chỉ số ảnh anh chụp nhanh đoàn xe hộ tống và các vị khách bên trong, mà cả bản sao những bức chân dung theo nghi thức. Đâu đâu cũng thấy những vị khách đỏm dáng tươi cười bắt tay nhau. Rebus chỉ nhận ra vài người: Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng rồi Ben Webster…
“Sao anh kiếm được chỗ ảnh này?” Rebus cất tiếng hỏi.
“Người ta công bố cho truyền thông mà - thì kiểu một dịp quảng bá hình ảnh cho các chính trị gia chứ còn gì nữa.”
“Có xác định được tên từng người trong ảnh không?”
“Đấy là phần việc của trợ lý,” nhà nhiếp ảnh đáp lời rồi nuốt ực miếng gà nướng cuối cùng. “Nhưng tôi cũng đã tìm hiểu những gì có thể rồi đây.” Anh với tay lấy chiếc túi và lôi ra một xấp giấy tờ.
“Cảm ơn,” Rebus nói. “Nhưng chắc là tôi xem rồi…”
“Tôi thì chưa,” Wylie cự nụ và nhận lấy xấp giấy từ Mungo còn Rebus vẫn chăm chú xem những tấm ảnh chụp tại buổi tiệc.
“Tôi không để ý là Corbyn cũng có mặt đấy,” ông trầm ngâm.
“Ai vậy?” Mungo hỏi.
“Ngài cảnh sát trưởng đáng mến của chúng ta.”
Mungo nhìn vào khuôn mặt mà Rebus đang chỉ. “Ở lại không lâu,” anh nói rồi tìm trong chỗ ảnh được in ra. “Anh ta lại rời đi đây này. Khi ấy tôi cũng đang chuẩn bị sang chỗ khác…”
“Vậy là khoảng bao lâu sau khi bắt đầu?”
“Chẳng đến nửa giờ. Tôi chầu chực sẵn bên ngoài để chụp những người đến muộn mà.”
Richard Pennen không xuất hiện trên bất kỳ tấm chân dung nào nhưng Mungo đã may mắn chộp lại được chiếc xe chở ông ta đang trên đường tiến vào lâu đài, khiến cho Pennen giật mình đến nỗi há hốc mồm miệng.
“Ở đây viết rằng,” Ellen Wylie đọc to lên, “Ben Webster đã góp sức đàm phán cho một thỏa ước ngừng bắn ở nước Cộng hòa Sierra Leone. Ngoài ra cũng đã từng công du tới Iraq, Afghanistan và Đông Timo.”
“Chắc cũng ghi được kha khá điểm trên thẻ khách hàng thường xuyên của hãng hàng không Air Miles,” Mungo bình phẩm.
“Và có vẻ ưa thích phiêu lưu,” cô bổ sung rồi lật sang trang bên. “Tôi không biết chị gái anh ta cũng là cảnh sát cơ đấy.”
Rebus gật đầu. “Mấy hôm trước tôi vừa gặp cô chị.” Ông tư lự trong giây lát. “Đám tang được tổ chức vào ngày mai, tôi nhớ là thế. Lẽ ra tôi phải gọi cho cô ấy…” Rồi ông tiếp tục xem xét những bức chân dung chụp theo nghi thức. Tất cả đều được sắp đặt nên cũng chẳng có gì nhiều nhặn cho ông thu lượm: không tấm nào chụp được hình ảnh các vị lãnh đạo đầu-chụm-đầu trò chuyện riêng trong góc; cũng không có những sơ hở mà những người đàn ông quyền lực đầy mình này không muốn để lộ ra. Y như lời nhận xét của Mungo: một chiêu bài quảng bá. Rebus nhấc điện thoại và gọi vào số di động của Mairie.
“Lát cô tạt qua sở Gayfield không?” ông hỏi. Ông nghe có tiếng cô gõ bàn phím lạch cạch.
“Tôi phải tút tát bài này xong đã.”
“Nửa tiếng nữa?”
“Để tôi xem thế nào.”
“Một thanh sô cô la Sao Hỏa ngon tuyệt đang mong được gặp cô lắm.” Nét mặt Wylie lập tức có vẻ không hài lòng. Rebus kết thúc cuộc gọi, nhìn Wylie xé giấy gói thanh kẹo rồi cắn ngay một miếng.
“Thế là tiêu tan đồ hối lộ của tôi rồi,” ông bảo Wylie.
“Tôi sẽ để số ảnh này lại cho anh,” Mungo nói, vừa phủi chỗ bột mì dính trên mấy đầu ngón tay. “Từ giờ chúng là của anh - nhưng đừng công bố gì nhé.”
“Sẽ chỉ có chúng tôi biết thôi”, Rebus bằng lòng. Ông trải ra những tấm ảnh của rất nhiều vị khách ngồi ghế sau khác nhau. Phần lớn đều không được rõ nét, hậu quả tất yếu của việc tài xế không chịu đi chậm lại cho những tay phóng viên ảnh chụp đàng hoàng. Tuy nhiên một vài nhân vật quyền cao chức trọng người nước ngoài vẫn nở nụ cười trên môi tỏ vẻ hài lòng vì được nhận ra.
“Còn thứ này nữa, anh chuyển giùm cho Siobhan được không?” Mungo nói thêm rồi đưa cho Rebus một chiếc phong bì cỡ lớn. Rebus gật đầu đồng ý và ướm hỏi về nội dung bên trong. “Cuộc biểu tình trên phố Princes. Cô ấy quan tâm đến người phụ nữ đứng ở rìa đám đông. Tôi đã phóng to ảnh lên một chút.”
Rebus liền mở chiếc phong bì. Người phụ nữ trẻ tóc thắt bím đang giữ máy quay ngay trước mặt. Santal, phải đó là tên cô ta không nhỉ? Cái tên có nghĩa là gỗ đàn hương. Rebus tự hỏi liệu Siobhan đã thử tra cái tên này trong danh sách của Chiến dịch Sorbus chưa. Cả nét mặt chăm chú lẫn đôi môi mím chặt lại thành một đường thẳng của cô ta đều biểu lộ sự tập trung cao độ vào việc ghi hình. Tận tâm; có thể là chuyên nghiệp. Trong những tấm ảnh khác, cô ta giữ máy quay xa người, vừa liên tục quay trái quay phải. Như thể đang canh chừng gì đó. Hoàn toàn không để ý tới hàng cảnh sát chống bạo loạn đang dàn trận phía trước. Không ngại những vật thể gây sát thương đang bay vèo vèo. Không bị kích động mà cũng chẳng hề sợ hãi.
Cứ thế tập trung làm việc của mình.
“Tôi sẽ đưa tận tay cô ấy,” Rebus bảo Mungo khi anh chàng đang đóng miệng túi của mình lại. “Và cảm ơn về những thứ này nhé, coi như tôi nợ anh.”
Mungo gật gù. “Đây có phải lời ám chỉ rằng lần sau anh sẽ là người đầu tiên có mặt ở hiện trường không nhỉ?”
“Hiếm khi nào xảy ra lắm, con trai ạ,” Rebus cảnh báo. “Nhưng tôi sẽ ghi nhớ công sức lần này của anh.”
Mungo bắt tay nồng nhiệt cả hai cảnh sát. Wylie đứng nhìn anh ta bước ra. “Anh sẽ ghi nhớ công sức của anh ta ư?” Wylie nhắc lại lời Rebus.
“Ellen à, xuẩn một nỗi là với cái tuổi như của tôi bây giờ thì trí nhớ không còn được như trước nữa đâu.” Ông với tay lấy hộp mì nhưng nó đã nguội tanh từ lúc nào.
Như đã hẹn, Mairie Henderson xuất hiện sau nửa giờ đồng hồ. Gương mặt cô trở nên hết sức cáu kỉnh khi phát hiện ra vỏ thanh kẹo sô cô la hiệu Sao Hỏa đã đang nằm chỏng chơ trên mặt bàn.
“Đừng trách tôi,” Rebus xin lỗi, và giơ hai tay lên.
“Tôi đoán thế nào anh cũng muốn xem cái này,” cô vừa nói vừa mở ra bản in trang nhất của báo sáng hôm sau. “Ta may đấy; vì chẳng có chuyện gì quan trọng cả.”
CẢNH SÁT TIẾN HÀNH ĐIỀU TRA BÍ ẨN VỤ ÁN MẠNG GẦN NƠI TỔ CHỨC HỘI NGHỊ G8. Kèm theo là ảnh chụp bãi Clootie Well cùng với khách sạn Gleneagles. Rebus chẳng buồn đọc bài viết bên dưới tiêu đề.
“Anh vừa nói với Mungo những gì?” Wylie mỉa mai.
Rebus phớt lờ cô, ông vẫn tập trung xem ảnh chụp các nhân vật tai to mặt lớn. “Cô không phiền nếu phải khai sáng cho tôi chứ?” ông hỏi Mairie. Cô hít một hơi thật sâu rồi bắt đầu đọc tên tuổi từng vị chức sắc trong ảnh. Toàn là bộ trưởng trong nội các chính phủ hoặc công sứ các quốc gia trên toàn thế giới như Nam Phi, Trung Quốc và Mêxicô. Phần lớn đều liên quan đến lĩnh vực thương mại hoặc kinh tế, và chỗ nào không chắc chắn lắm, Mairie liền gọi ngay cho chuyên gia tòa soạn nhờ lấy thông tin chính xác.
“Vậy ta có thể giả sử rằng họ đang thảo luận về vấn đề thương mại hoặc cứu trợ?” Rebus hỏi. “Nếu đúng như thế thì Richard Pennen có mặt ở bữa tiệc để làm gì? Và cả ngài Bộ trưởng Bộ Quốc phòng của chúng ta, cũng xuất hiện ở đó để đóng vai trò gì không biết?”
“Có ai cấm họ không được kinh doanh vũ khí đâu,” Mairie nhắc.
“Thế còn tay cảnh sát trưởng?”
Cô nhún vai. “Có lẽ ban tổ chức mời đến theo nguyên tắc xã giao thôi. Người đàn ông này…” cô chỉ vào một trong số những bức chân dung. “Ngài Cải Biến Gen đấy. Tôi vừa mới thấy ông ta tranh luận gay gắt với các nhà môi trường học trên truyền hình.”
“Chúng ta đang bán công nghệ di truyền cho Mêxicô à?” Rebus thắc mắc. Mairie nhún vai.
“Anh thực sự cho rằng họ đang che đậy điều gì sao?”
“Vì sao họ phải làm vậy chứ?” Rebus hỏi, như thể bất ngờ trước câu hỏi của nữ phóng viên.
“Bởi vì họ có khả năng làm vậy?” Ellen Wylie gợi ý.
“Những người này khôn ngoan hơn thế. Pennen không phải là nhà buôn duy nhất trong vở kịch đâu.” Mairie nhận xét rồi chỉ tay vào hai khuôn mặt khác trong ảnh. “Trùm ngân hàng và hàng không nữa đây.”
“Bọn họ đã rất vội vàng đưa những nhân vật quan trọng rời khỏi lâu đài ngay sau khi thi thể của Webster được phát hiện,” Rebus nói.
“Tôi nghĩ đó chỉ là thủ tục bình thường thôi,” Mairie đáp lời.
Rebus ngồi sụp xuống chiếc ghế gần ông nhất. “Pennen không hề muốn ta nhúng tay vào vụ việc, còn Steelforth chẳng đã cố cho tôi một cái bạt tai cảnh cáo hay sao. Phải nghĩ thế nào đây?”
“Nếu anh cố giao dịch đổi chác với chính quyền… thì quảng cáo rao hàng nào cũng xấu xa cả thôi.”
“Tôi có cảm tình với ngài nghị sĩ này,” Wylie phát biểu khi đọc đến đoạn cuối những trang tài liệu về Webster. “Tôi thực lòng lấy làm buồn về cái chết của anh ta.” Cô đưa mắt nhìn Rebus. “Anh sẽ đến dự đám tang chứ?”
“Tôi đang suy nghĩ.”
“Liệu có khi nào chúng ta đánh giá sai về Pennen và Cơ quan Đặc vụ không?” Mairie phỏng đoán.
“Nếu vậy tôi sẽ đến chào hỏi,” Rebus trả lời với giọng phản đối, “và báo với chị anh ta rằng cuộc điều tra sẽ chẳng đi tới đâu cả.” Ông cầm một chồng mấy bức ảnh chụp cận cảnh vườn hoa phố Princes lên. Mairie cũng đang xem chúng.
“Theo cách mà tôi nghe thấy,” cô nói, “thì có vẻ hai người thổi phồng sự việc hơi quá rồi đấy.”
“Bọn tôi buộc phải cứng rắn”, Wylie đáp trả, dường như hơi chạm tự ái.
“Chỉ vài chục người đầu đang bốc hỏa chống lại hàng trăm cảnh sát chuyên chống bạo loạn.”
“Vậy chứ ai là người đảm bảo an ninh trật tự cho cái xã hội này?” nghe chừng Wylie đã sẵn sàng cho cuộc tranh luận.
“Các cô và đống dùi cui của các cô chứ còn ai nữa,” Mairie phản pháo. “Nếu không có gì để tường thuật thì bọn tôi đã không tường thuật.”
“Nhưng thế là bóp méo sự thật…” Wylie bỗng nhận ra Rebus giữ im lặng từ nãy giờ. Ông đang nhìn chằm chằm vào một tấm ảnh, đôi mắt nheo lại. “John này?” cô nói. Gọi tên không thấy phản ứng gì, cô bèn dùng khuỷu tay thúc vào người ông. “Không phiền nếu hỗ trợ tôi tí chút chứ?”
“Tôi dám chắc cô có thể tự mình chiến đấu mà, Ellen.”
“Sao vậy?” Mairie hỏi, vừa ngó qua vai ông nhìn bức ảnh. “Trông anh cứ như đang gặp ma ấy.”
“Theo khía cạnh nào đó thì cũng đúng,” Rebus đáp lời. Ông nhấc điện thoại lên, nhưng rồi nghĩ ngợi một lát, và lại đặt nó xuống cái giá để ống nghe. “Suy cho cùng,” ông nói, “thì ngày mai là một ngày khác.”
“Không chỉ ‘khác’ thôi đâu, John ạ,” Mairie nhắc, “ngày mai là ngày mà hội nghị rốt cuộc cũng khai mạc đấy.”
“Còn ở đây thì chỉ mong sao Luân Đôn không giành được quyền đăng cai Thế vận hội kỳ tới,” Wylie thêm vào. “Từ giờ ta sẽ phải nghe về chuyện đấy cho đến ngày tận thế mất.”
Rebus đã đứng dậy nhưng có vẻ hãy còn sao nhãng. “Đến giờ uống bia rồi,” ông hô hào. “Và hôm nay tôi làm chủ chi.”
“Cứ tưởng chẳng bao giờ được anh mời,” Mairie thở dài đánh thượt. Wylie đi lấy áo khoác và túi xách. Rebus bước lên trước dẫn đường.
“Anh không bỏ dở thế chứ?” Mairie bóng gió, hất cằm chỉ bức ảnh ông vẫn đang cầm trong tay. Rebus liếc xuống nhìn rồi đút tấm ảnh vào túi áo. Ông vỗ nhẹ lên túi trước khi đặt bàn tay lên vai Mairie.
“Tôi hơi thấp, nhưng đành chịu thôi. Có cơ may thay thế…”
Tối đó, Mairie Henderson trở về ngôi nhà trên đường Murrayfield. Cô đứng tên sở hữu hai tầng trên cùng tòa cao ốc đứng tách biệt xây theo lối kiến trúc thời Victoria, và đang cùng với Allan, bạn trai của cô, trả dần khoản vay mua nhà. Vấn đề ở chỗ, Allan là một nhà quay phim, nên thi thoảng lắm cô mới thấy được chút hiện diện quý giá của anh trong ngôi nhà. Tuần này hóa ra chỉ toàn mấy vụ án mạng. Vừa đặt chân vào nhà, cô bước thẳng vào một trong những phòng ngủ trống giờ đã biến thành phòng làm việc của cô, rồi cởi áo khoác vắt lên lưng ghế. Chiếc bàn cà phê nhỏ mà giờ không còn đủ chỗ để đặt dẫu một chiếc cốc nhỏ, lúc này ngổn ngang hàng chồng báo. Những tập hồ sơ choán hết nguyên một bức tường, còn mấy giải thưởng nghề báo cao quý của cô được bố trí ở chiếc kệ ngay phía trên máy tính. Cô ngồi vào bàn và tự hỏi vì sao lại cảm thấy thoải mái đến vậy ngay trong căn phòng chật hẹp và ngột ngạt này. Phòng bếp thoáng đãng hơn nhiều nhưng cô lại dành rất ít thời gian ở đó. Phòng khách từ lâu đã trở thành rạp chiếu bóng tại gia của Allan với máy chiếu và dàn âm thanh vào loại tối tân. Còn căn phòng - phòng làm việc này - là của cô, của riêng mình cô mà thôi. Cô nhìn lên giá để những băng ghi âm - những cuộc phỏng vấn cô đã thực hiện - mỗi băng đều chứa đựng câu chuyện tóm lược về một đời người. Phải mất tới bốn mươi giờ đồng hồ phỏng vấn cô mới nắm được câu chuyện của Cafferty, phần bài viết thì ngốn đến hàng nghìn trang giấy. Cuốn sách tổng hợp từ những lần trao đổi ấy được biên soạn vô cùng tỉ mỉ và cô biết rằng cô hoàn toàn xứng đáng được nhận huân chương cho bao công sức đã bỏ ra. Thế nhưng lại chẳng có cái huân chương nào xuất hiện. Thực tế bán được cả xe tải sách cũng chẳng thay đổi gì khoản nhuận bút sách trọn gói. Bởi chính Cafferty mới là người xuất hiện trên chương trình trò chuyện với người nổi tiếng, chính Cafferty là người ký tặng sách ở các hiệu sách, là người có mặt trong các ngày hội, là người được mời tới những buổi tiệc tùng liên miên của những người nổi tiếng ở Luân Đôn. Khi cuốn sách được tái bản tới lần thứ ba, người ta thậm chí còn tự ý thiết kế lại bìa sách với việc phóng to tên của hắn lên và co nhỏ tên cô lại.
Thật là tráo trở.
Và khi gặp lại Cafferty trong mấy ngày qua, hắn chẳng làm gì khác ngoài cố tình châm chọc cô với ý tưởng về phần tiếp theo của cuốn hồi ký đồng thời nói bóng gió về việc lần này sẽ thuê người khác chắp bút - bởi hắn quá hiểu cô sẽ không đời nào để mình bị đánh lừa như vậy nữa. Tục ngữ cổ có câu gì nhỉ? Bị lừa một lần là dại, bị lừa hai lần là ngu.
Tên khốn.
Cô nghĩ bụng rồi bật máy tính kiểm tra hòm thư điện tử, trong đầu vẫn nghĩ về khoảng thời gian ngắn ngủi vừa ngồi uống cùng Rebus. Cô vẫn cảm thấy bực mình với ông. Bực mình vì ông không đồng ý để cô phỏng vấn cho cuốn sách của Cafferty. Không có ông, một mình Cafferty tha hồ khua môi múa mép về không biết bao nhiêu là sự kiện và cả những vụ rắc rối. Cho nên, đúng thế, cô hãy còn thấy khó chịu với Rebus lắm.
Cơn bực mình vẫn chưa nguôi bởi cô biết rằng Rebus thật đúng đắn vì đã từ chối lời mời phỏng vấn của cô.
Những đồng nghiệp ở tòa soạn đều chắc mẩm cô kiếm được một món hời từ cuốn hồi ký của Cafferty. Thậm chí vài người còn từ chối tiếp chuyện và cũng không buồn trả lời điện thoại của cô. Chắc hẳn một phần vì lòng ghen tị, nhưng cũng còn vì họ cảm thấy chẳng cho cô được gì nữa. Công việc dần xuống dốc. Cô thấy mình toàn đưa tin chẳng đâu vào đâu hoặc là viết những tin ngắn về mấy tay ủy viên hội đồng thành phố và nhân viên tình nguyện - những câu chuyện về khía cạnh tâm lý chẳng thu hút được công chứng. Các biên tập viên còn làm ra vẻ ngạc nhiên khi cô nói rằng cô cần việc…
Cứ tưởng chị vớ bở từ vụ Cafferty rồi chứ…
Tất nhiên cô chẳng thể nào kể với họ sự thật, thành thử cô phải bịa rằng cô muốn viết để giữ vững phong độ.
Vớ bở…
Một vài cuốn hồi ký của Cafferty còn sót lại đang chất thành đống dưới gầm chiếc bàn uống cà phê. Cô đã thôi không gửi sách cho gia đình và bạn bè. Cô thôi sau khi tận mắt chứng kiến khán giả tin sái cổ chuyện đùa của Cafferty trên một chương trình truyền hình ban ngày, Mairie cảm thấy ghê tởm hơn bao giờ hết. Thế nhưng khi nghĩ tới tên trùm Cafferty, cô không thể không hình dung cả Richard Pennen - tay bắt mặt mừng ở tòa nhà Prestonfield, lúc nào cũng được bợ đỡ bởi những kẻ chỉ biết vâng lời, và được đánh cho sáng bóng không một vết nhơ. Rebus cũng có ý đúng về buổi tiệc ở Lâu đài Edinburgh. Vấn đề không phải ở chỗ một trùm buôn bán vũ khí làm thế nào để leo lên vị trí hàng đầu, mà ở chỗ không một ai lưu ý tới điều đó cả. Pennen chả đã nói bất cứ thứ gì mà ông ta cung cấp cho Ben Webster đều được công bố trong quy định về quyền lợi của các nghị sĩ rồi đấy thôi. Mairie đã kiểm tra và thấy rằng có vẻ như tay nghị sĩ này chưa làm điều gì gian dối. Việc khiến cô băn khoăn chính là Pennen đã biết trước rằng cô sẽ tìm hiểu. Ông ta muốn cô tham gia điều tra vụ Webster này. Nhưng vì sao? Vì ông ta biết trước rằng cô sẽ chẳng tìm được gì? Hay bởi ông ta muốn làm lu mờ thanh danh của người đã chết?
Tôi có cảm tình với ngài nghị sĩ này, Ellen Wylie đã nhận xét như vậy. Cũng đúng, bởi sau ít phút trò chuyện với tay trong của mình ở cung điện Westminster, chính bản thân Mairie cũng thấy có thiện cảm. Và điều này chỉ khiến lòng tin của cô đối với Pennen thêm suy giảm. Cô lấy một cốc nước thẳng từ vòi trong bếp rồi quay lại bàn làm việc.
Cô quyết định sẽ bắt đầu lại từ đầu.
Cô gõ tên Richard Pennen vào công cụ tìm kiếm đầu tiên trong số rất nhiều những công cụ tra cứu.