PHẦN THỨ BA (19) Không Có Lửa-Làm Sao Có KhóiThứ Tư ngày 6 tháng Bảy
Tiếng chuông cửa đánh thức ông dậy.
Ông loạng choạng bước ra hành lang và bấm nút trả lời trên điện thoại nội bộ Intercom.
“Gì đấy?” ông hỏi, giọng hãy còn chưa tỉnh táo.
“Tôi tưởng tôi đến đây làm việc chứ nhỉ.” Rất khẽ và hơi méo tiếng nhưng vẫn dễ dàng nhận ra: là giọng của Siobhan.
“Mấy giờ rồi?” Rebus ho.
“Tám.”
“Tám giờ cơ á?”
“Giờ bắt đầu một ngày làm việc rồi đấy.”
“Chúng ta đang bị đình chỉ mà, cô nhớ không?”
“Anh vẫn đang mặc đồ ngủ à?”
“Không, tôi có mặc đâu.”
“Nghĩa là tôi phải chờ ngoài này?”
“Tôi sẽ để cửa mở.” Ông nhấn nút mở khóa cửa, thu gom vội quần áo vứt trên chiếc ghế đặt cạnh giường rồi chui ngay vào phòng tắm. Ở trong đó, ông vẫn nghe được tiếng Siobhan gõ cửa căn hộ, rồi đẩy cửa bước vào.
“Chỉ hai phút thôi!” ông vừa gọi với ra vừa bước vào bồn tắm và vặn nước chảy xối xả.
Khi Rebus hoàn tất mọi thủ tục buổi sáng và đi ra thì Siobhan cũng đã yên vị ở bàn ăn, cô đang ngồi phân loại chỗ hồ sơ đã được sao chép đêm qua.
“Không nên quá thoải mái là vậy đấy,” ông nói. Ông đã đang thắt dở cà vạt. Sực nhớ hôm nay không phải đến sở, Rebus liền giật tung chiếc cà vạt rồi quẳng lên tràng kỷ. “Chúng ta cần được tiếp thêm năng lượng,” ông bảo Siobhan.
“À mà tôi bị vướng chút việc.”
“Việc gì?”
“Vài tiếng để ăn trưa - tôi muốn đưa cha mẹ ra ngoài dùng bữa.”
Ông gật đầu đồng ý. “Mẹ cô thế nào rồi?”
“Bà ấy có vẻ ổn. Hai cụ đã quyết định không đến Gleneagles nữa mặc dù buổi thảo luận về chủ đề biến đổi khí hậu sẽ diễn ra vào hôm nay.”
“Ngày mai họ sẽ về nhà à?”
“Có lẽ vậy.”
“Buổi biểu diễn tối qua thế nào?” Siobhan không trả lời ngay. “Tôi xem được đoạn cuối trên vô tuyến - tôi cứ tưởng sẽ thấy cô say sưa nhảy nhót trong đám khán giả ở hàng trên cùng cơ đấy.”
“Lúc đấy tôi về rồi.”
“Thật à?”
Cô nhún vai. “Nào, anh muốn tiếp thêm năng lượng ra sao?”
“Bằng bữa sáng chẳng hạn.”
“Tôi ăn rồi.”
“Thế thì cô có thể ngồi xem tôi xử lý món thịt xông khói cuộn. Rồi cà phê trên đường Marchmont đây thôi. Và trong lúc tôi đánh chén ngon lành, cô có thể gọi điện xếp lịch hội họp với ủy viên hội đồng thành phố Tench đấy.”
“Ông ta cũng đến buổi diễn tối qua.”
Rebus đưa mắt nhìn Siobhan. “Đi loanh quanh tranh thủ cảm tình, phải không?”
Cô bước đến bên dàn âm thanh hi-fi. Rebus có rất nhiều đĩa than trên giá, Siobhan cầm một chiếc lên ngắm nghía.
“Đĩa ấy được sản xuất trước cả khi cô chào đời đấy,” Rebus tự hào khoe. Leonard Cohen, Những ca khúc về tình yêu và lòng căm hờn.
“Nghe này,” Siobhan bảo, rồi bắt đầu đọc mặt sau vỏ đĩa nhạc. “Họ đã giam cầm người đàn ông có ước vọng trị vì thế giới. Lũ xuẩn ngốc ấy, họ đã giam cầm nhầm người rồi. Nghĩa là gì?”
“Trường hợp bị nhận dạng nhầm chăng?” Rebus đề xuất một ý kiến.
“Tôi lại nghĩ là về hoài bão của con người,” cô phản bác. “Gareth Tench kể rằng ông ta đã bắt gặp anh…”
“Đúng vậy.”
“Đi cùng với Cafferty.”
Rebus gật đầu. “Ger Bự cho tôi biết là tay ủy viên hội đồng này đang lên kế hoạch tống cổ trùm xã hội đen của chúng ta về vườn đấy.”
Siobhan đặt đĩa nhạc về chỗ cũ rồi quay lại đối diện ông. “Thế chẳng phải quá tốt hay sao?”
“Còn tùy ta sẽ có gì thế vào đấy. Cafferty dự đoán Tench sẽ đích thân tiếp quản.”
“Anh tin lời hắn ư?”
Rebus xem ra cân nhắc rất kỹ trước khi đưa ra câu trả lời. “Cô biết tôi cần gì trước khi trả lời không?”
“Bằng chứng?” cô phỏng đoán.
Ông đáp lời bằng một cái lắc đầu. “Một cốc cà phê.”
Tám giờ bốn mươi nhăm.
Rebus đang uống cốc cà phê thứ hai. Tất cả những gì còn sót lại từ món thịt cuộn chỉ là cái đĩa nhỏ lấm tấm mỡ. Quán cà phê có một giỏ tạp chí gồm toàn những tờ rất hay; trong lúc Siobhan đang mải mê đọc tin về buổi concert Đòn cuối thì Rebus đưa cho cô xem mấy tấm hình chụp cảnh náo loạn tại Gleneagles ngày hôm trước.
“Thằng nhỏ này,” ông vừa nói vừa chỉ, “chúng ta đã thấy nó đúng không nhỉ?”
Cô gật đầu. “Nhưng làm gì có máu phọt ra trên trán nó thế này.”
Rebus xoay tờ báo về phía ông. “Người ta thích thế. Một chút máu me sẽ tốt cho truyền thông.”
“Và khiến chúng ta như những kẻ côn đồ hung ác?”
“À này…” Ông lấy chiếc đĩa CD-ROM từ trong túi ra. “Một món quà tạm biệt cho cô từ Stacey Webster - hay nếu cô thích thì gọi là Santal cũng được.”
Siobhan nhận chiếc đĩa từ Rebus và kẹp nó giữa các ngón tay trong lúc nghe ông thuật lại cuộc gặp gỡ với Stacey. Kể xong, ông lấy danh thiếp của Stacey cất trong ví và bấm máy gọi cho cô. Đầu dây bên kia không có người trả lời. Khi cất điện thoại cầm tay vào túi áo khoác, ông bỗng ngửi thấy mùi nước hoa mà Molly Clark sử dụng thoảng trong không khí. Ông tin rằng Siobhan không cần biết về những gì đã xảy ra với cô nàng kia; vả lại ông cũng không chắc cô sẽ phản ứng thế nào. Ông vẫn còn đang băn khoăn về điều đó thì Gareth Tench bước vào tiệm cà phê. Tench bắt tay cả hai bọn họ. Rebus cảm ơn vì ông ta đã đến và ra dấu cho vị ủy viên ngồi xuống.
“Tôi có thể mời ngài gì?”
Tench lắc đầu từ chối. Rebus có thể thấy một chiếc xe hơi đỗ bên ngoài, mấy người trông giữ xe đang đứng cạnh.
“Ý tưởng hay đấy nhỉ,” ông nói với vị ủy viên, vừa hất hàm về phía cửa sổ. “Tôi chẳng hiểu vì sao lại thêm nhiều cư dân Marchmont không thuê vệ sĩ.”
Tench chỉ mỉm cười. “Hôm nay anh không đi làm à?”
“Thoải mái một chút,” Rebus giải thích. “Sao có thể đón tiếp các chính khách mới đắc cử trong phòng thẩm vấn ở Sở Cảnh sát tồi tàn chẳng khác nào mấy khu ổ chuột nghèo nàn được.”
“Thật là cảm kích.” Tench giờ đã yên vị, điệu bộ khoan khoái, nhưng vẫn chẳng hề có dấu hiệu nào cho thấy ông ta sẽ cởi chiếc áo khoác dài ra. “Thanh tra này, tôi có thể giúp gì cho anh?”
Câu hỏi dành cho Rebus nhưng Siobhan lại là người cất tiếng trả lời trước. “Ông Tench này, như ông biết đấy, chúng tôi đang điều tra hàng loạt các vụ án mạng. Chứng cứ của các vụ án được phát hiện tại một địa điểm ở Auchterarder.”
Đôi mắt của Tench lập tức nheo lại. Vẫn tập trung chú ý vào Rebus nhưng rõ ràng là ông ta đã trông đợi cuộc nói chuyện về một chủ đề khác - Cafferty hoặc Niddire chẳng hạn.
“Tôi không hiểu…” ông ta mở lời.
“Cả ba nạn nhân,” Siobhan tiếp tục, “đều bị đưa thông tin lên một trang web mang tên Canh chừng Ác thú.” Cô ngừng đôi chút. “Và tất nhiên là ông có biết trang web ấy.”
“Tôi ấy hả?”
“Theo thông tin của chúng tôi thì là như vậy.” Cô mở một tờ giấy ra và đưa nó cho ông ta xem. “Cái tên Ozyman… là ông phải không?”
Tench ngẫm nghĩ một chút trước khi đưa ra câu trả lời. Siobhan gấp tờ giấy lại rồi nhét vào trong túi. Rebus nháy mắt với Tench, cái nháy mắt truyền đi một thông điệp hết sức đơn giản: Cô ấy khá đấy. Vì thế đừng có mà quanh co với bọn tôi làm gì…
“Đúng là tôi,” rốt cuộc Tench cũng thừa nhận. “Thế thì sao?”
Siobhan đáp lời bằng một cái nhún vai. “Tại sao ông lại quan tâm đến trang web Canh chừng Ác thú, ông Tench?”
“Cô đang định bảo là tôi thuộc diện bị tình nghi?”
Rebus bật ra tiếng cười lạnh lùng. “Kết luận như thế thì chóng vánh quá, thưa ủy viên.”
Tench lừ mắt bực bội nhìn ông. “Sao có thể lường hết được những gì Cafferty ngấm ngầm đơm đặt - nhất là với sự trợ giúp của mấy chiến hữu mà hắn mới kết thân.”
“Tôi nghĩ chúng ta đang lạc đề rồi,” Siobhan ngắt lời. “Thưa ủy viên, chúng tôi cần khai thác thông tin từ tất cả những người từng truy cập vào trang web ấy. Đó là thủ tục.”
“Tôi vẫn chưa hiểu hai người lần ra tôi từ biệt danh kia bằng cách nào.”
“Tench này, ông quên là,” Rebus tươi tỉnh nói, “tuần này chúng tôi có những chuyên viên tình báo hàng đầu tập trung ở đây à? Chẳng mấy chuyện họ chịu bó tay.” Dường như Tench đang định cất lời nhận xét, nhưng đời nào Rebus để cho ông ta có cơ hội. “Lựa chọn thú vị đấy: Ozymandias. Một bài thơ của thi hào Shelley, phải không nhỉ? Vài vị vua tự hào thái quá về bản thân đến nỗi đã cho dựng tượng bản thân thật lớn. Nhưng theo thời gian tượng gì thì cũng tan tành, vì phơi giữa hoang mạc như thế.” Ông ngừng lời trong giây lát. “Như tôi đã nói, lựa chọn của ông thật là thú vị.”
“Là sao?”
Rebus khoanh tay lại. “Thì đấy, chắc hẳn vị vua này hẳn cũng từng có cái tôi - đó chính là điểm chính mà bài thơ nói tới. Dù ông có vĩ đại hay hùng mạnh đến nhường nào thì cũng chẳng gì có thể trường tồn. Và nếu ông là bạo chúa, cú sụp đổ của ông sẽ còn khủng khiếp hơn gấp bội.” Ông hơi ngả người về phía trước. “Người chọn cái tên này hẳn không phải loại người ngờ nghệch gì… chắc người ấy cũng hiểu rằng tác giả không chỉ đề cập đến chuyện quyền lực…”
“… mà còn về ảnh hưởng lạm dụng của quyền lực.” Tench mủn cười và gật đầu ra vẻ đồng tình.
“Thanh tra Rebus là người nắm bắt vấn đề rất nhanh,” Siobhan nói thêm. “Mới hôm qua thôi thanh tra còn thắc mắc liệu ông có phải là người Úc không.”
Tench toét miệng cười. Nhưng ánh mắt ông ta vẫn dán vào Rebus. “Bọn tôi được học bài thơ này ở trường,” ông ta nói. “Thầy giáo môn tiếng Anh của chúng tôi luôn tràn đầy nhiệt huyết. Ông ấy yêu cầu học sinh phải thuộc lòng bài thơ.” Tench nhún vai và tiếp tục: “Thanh tra à, chỉ đơn giản là tôi thấy thích tiêu đề của bài thơ. Từ lâu tôi đã không còn đọc bài thơ này nữa rồi.” Ông ta nhìn Siobhan rồi lại quay về phía Rebus. “Hiểm nguy nghề nghiệp của hai người, tôi cho là vậy - chính là lúc nào cũng dò tìm động cơ. Nói cho tôi biết… động cơ của kẻ sát nhân mà hai người đang truy tìm là gì? Hai người đã bao giờ nghĩ tới chưa?”
“Chúng tôi nghi ngờ hắn là một đội viên dân phòng,” Siobhan tuyên bố.
“Và lần lượt hạ gục từng nạn nhân có tên trên trang web ư?” Tench xem chừng không thấy bị thuyết phục.
“Ông vẫn phải cho chúng tôi biết,” Rebus khẽ nói, “động cơ cá nhân của ông khi quan tâm đến trang web Canh chừng Ác thú đến thế là gì?” Ông duỗi tay ra và đặt hai bàn tay cạnh chiếc cốc trên mặt bàn.
“Tranh tra Rebus này, khu vực nằm dưới quyền quản lý của tôi đang ngày càng trở nên hỗn độn hơn - đừng bảo là anh không để ý nhé. Các cơ quan khác cứ đẩy toàn những người lang thang vô gia cư, những kẻ buôn bán ma túy, xâm phạm tình dục rồi cả bọn xì ke về chỗ tôi. Những trang web như Canh chừng Ác thú cho tôi cơ hội đánh trả lại. Những trang đó có nghĩa tôi có thể phòng vệ trước cho cái góc của mình khi một vấn đề nan giải mới nào đó đáp phịch xuống bậu cửa.”
“Đã bao giờ xảy ra như thế chưa?” Siobhan hỏi.
“Có một kẻ lãnh án lạm dụng tình dục mãn hạn tù vào ba tháng trước… Tôi đã cố xoay xở để hắn tránh xa ra.”
“Thế thì sẽ thành vấn đề cho người khác thôi,” Siobhan nhận xét.
“Đó là cách tôi làm việc từ trước tới nay. Suy nghĩ như thế cũng sẽ thắng thế nếu một kẻ như Cafferty xuất hiện.”
“Cafferty đã ở đây lâu rồi,” Rebus cao giọng.
“Ý anh là bất chấp cả lực lượng cảnh sát hay là chính là nhờ có các anh?” Không thấy Rebus trả lời, nụ cười của Tench liền biến hành một cái nhếch mép đầy khinh bỉ. “Không đời nào hắn có thể tồn tại lâu đến thế nếu không có trợ thủ.” Ông ta ngả người ra sau và vặn vẹo hai vai. “Chúng ta xong việc chưa nhỉ?”
“Ông quen biết gia đình Jensen như thế nào?”
“Gia đình nào cơ?”
“Đôi vợ chồng điều hành trang web ấy.”
“Tôi chưa bao giờ gặp họ,” Tench quả quyết.
“Thật ư?” Siobhan hỏi lại với giọng sửng sốt. “Họ sống ngay tại Edinburgh cơ mà.”
“Và nửa triệu người khác cũng thế. Hạ sĩ Clarke ơi, đúng là tôi luôn nỗ lực đi sâu đi sát vào đời sống nhân dân nhưng tôi có phải là thánh đâu.”
“Vậy chứ ông là ai, thưa ngài ủy viên?” Rebus hỏi.
“Là con người của những nỗi tức giận,” Tench đáp, “của một quyết tâm, một khao khát đem lại lẽ phải và công bằng.” Ông ta hít một hơi thật sâu rồi thở ra cũng mạnh không kém. “Nói về chuyện này có lẽ phải mất cả ngày trời,” ông ta nói lời tạ lỗi với nụ cười nữa trên môi. Rồi đứng đậy: “Trông Bobby đến là đau khổ vì bị cô bỏ lại buổi concert đấy, hạ sĩ Clarke ạ. Cô nên cẩn thận nhé: niềm đam mê chính là một con quái vật oán giận ẩn mình bên trong người đàn ông đấy.” Ông ta hơi cúi đầu thay cho câu chào tạm biệt trước khi tiến ra cửa.
“Chúng ta sẽ còn gặp lại,” Siobhan cảnh cáo ông ta.
Rebus trông qua cửa sổ và thấy một trong mấy người trông giữ mở cửa xe phía sau cho ủy viên Tench nhét cái thân hình quá ư đồ sộ của ông ta vào bên trong.
“Tay ủy viên nào trông cũng được nuôi rất mát tay,” ông nhận xét. “Cô có để ý tới điều đó bao giờ không?”
Siobhan đang đưa tay lên day trán. “Lẽ ra chúng ta có thể giải quyết tốt hơn.”
“Cô bỏ ngang concert Đòn cuối thật à?”
“Tôi không thấy hứng thú lắm.”
“Có liên quan gì đến vị ủy viên đáng mến của chúng ta không?” Cô lắc đầu thay cho câu trả lời. “Người thì cố giữ, kẻ lại cố phá,” Rebus tự lẩm bẩm với chính mình.
“Gì vậy?”
“Một câu thơ khác của thi hào Shelley ấy mà.”
“Gareth Tench là ai trong hai kẻ ấy?”
Chiếc xe hơi bắt đầu lăn bánh rời khỏi lề đường. “Có thể là cả hai,” Rebus gợi ý. Ông ngáp một cái rõ to. “Có cơ may nào chúng ta được nghỉ ngơi một lúc trong ngày hôm nay không?”
Siobhan nhìn ông. “Anh có thể ghé đâu đó ăn trưa, qua gặp cha mẹ tôi.”
“Tình trạng hạ đẳng của tôi đã được thăng lên rồng rồi à?” Rebus nhướn mày tỏ vẻ ngạc nhiên.
“John…” cô cảnh cáo.
“Cô không muốn ở riêng với họ à?”
Cô nhún vai. “Có lẽ tôi đã hơi ích kỷ.”
Rebus đã tháo bỏ mấy bức tranh trên tường phòng khách. Thay vào đó là những miếng giấy mang thông tin chi tiết về ba nạn nhân của vụ án. Ông ngồi ở bàn ăn trong khi Siobhan nằm dài trên tràng kỷ. Cả hai đều đang mải mê nghiên cứu hồ sơ, thi thoảng lại đặt câu hỏi và nêu lên một vài ý kiến.
“Chắc cô chưa nghe đoạn băng thu cuộc trò chuyện giữa tôi với Ellen Wylie đâu nhỉ?” Rebus hỏi. “Cũng không hẳn là có vấn đề gì…”
“Còn rất nhiều người truy cập vào trang web mà chúng ta cần thẩm vấn.”
“Trước tiên phải biết họ là những ai đã: liệu Bain có thể kiếm được cái danh sách ấy mà không bị Corbyn hay Steelforth đánh hơi thấy không?”
“Tench có nhắc đến vấn đề động cơ… Phải chăng ta đã bỏ lỡ chi tiết nào đó?”
“Có thể có mối liên quan nào đó giữa ba nạn nhân?”
“Thêm vào đó, vì sao hắn dừng lại ở con số ba?”
“Cách lý giải thông thường: hắn đã chuyển đi đâu đó, hoặc bị tóm vì nguyên nhân khác, và cũng có thể hắn biết chúng ta đang tóm đuôi hắn.”
“Nhưng chúng ta đâu phải tóm được đuôi hắn.”
“Giới truyền thông nói thế đấy.”
“Vì sao Clootie Well lại là nơi đầu tiên? Vì hắn biết chúng ta sẽ tới đó ư?”
“Chưa thể loại trừ khả năng hắn có mối liên hệ cá nhân với nơi này.”
“Nếu nhỡ toàn bộ câu chuyện chẳng liên quan gì đến trang web Canh chừng Ác thú thì sao?”
“Vậy thì chúng ta đã phí mất khối thời gian quý báu rồi chứ còn gì nữa.”
“Liệu có phải hắn muốn truyền thông điệp đến hội nghị G8 không? Rất có thể ngay lúc này hắn đang ở đây, giơ cao biểu ngữ ở đâu đó.”
“Và biết đâu ảnh có trong đĩa CD-ROM kia…”
“Nhưng chẳng thể nào ta lần ra hắn.”
“Nếu những chứng cứ ấy là để khiêu khích ta thì cớ sao hắn dừng lại nhỉ? Lẽ nào hắn không muốn tiếp tục trò chơi do chính mình bày ra nữa?”
“Có thể hắn không cần tiếp tục nữa.”
“Nghĩa là sao?”
“Có thể hắn ở gần chúng ta hơn chúng ta vẫn tưởng.”
“Không lẽ nào…”
“Anh muốn uống trà không?”
“Cũng được.”
“Thực ra, giờ đến lượt anh đấy - tôi mời cà phê rồi còn gì.”
“Cô biết đấy, dù sao thì vẫn phải theo một kiểu nào đó chứ. Rõ ràng chúng ta đang bỏ qua một điều gì.”
Bỗng điện thoại cầm tay của Siobhan phát ra một tiếng bíp: tin nhắn mới. Cô xem tin nhắn. “Anh bật vô tuyến lên đi,” cô bảo.
“Cô sợ bỏ lỡ chương trình nào hay sao?”
Nhưng cô đã nhổm khỏi tràng kỷ và nhấn nút bật vô tuyến. Cô quay sang tìm điều khiển để chuyển kênh. Dòng chữ “TIN NÓNG MỚI NHẤT” chạy ngang phía dưới màn hình. “NỔ BOM Ở LUÂN ĐÔN”.
“Eric gửi tin nhắn,” cô nói khẽ. Rebus bước tới đứng cạnh Siobhan. Có vẻ như chưa có nhiều thông tin. Nổ bom hàng loạt… tàu điện ngầm Luân Đôn… số hành khách bị thương ước tính đã lên tới hàng chục người.
“Giả thiết hiện tại là do đột ngột sập nguồn điện tổng,” phát thanh viên thông báo trên bản tin. Anh ta xem ra cũng không hoàn toàn tin.
“Sập nguồn điện tổng ư? Rõ nhảm!” Rebus càu nhàu.
Hệ thống nhà ga trung tâm đều đóng cửa. Tất cả các bệnh viện ở trong tình trạng báo động. Công chúng được cảnh báo không nên cố vào thành phố nữa. Siobhan ngồi sụp xuống tràng kỷ, tay bó gối, gương mặt giấu sau đôi bàn tay.
“Bị đánh úp rồi,” cô thì thầm.
“Không chỉ Luân Đôn,” Rebus trả lời, nhưng ông biết hoàn toàn có thể như mình nghĩ. Đang là giờ cao điểm… toàn bộ những con người đi lại bằng vé tháng xe buýt, rồi lực lượng cảnh sát giao thông đang rục rịch tới Scotland phục vụ G8. Tất cả bọn họ đều được thuyên chuyển từ Sở Cảnh sát Thủ đô Luân Đôn. Ông nhắm nghiền mắt lại và thầm nghĩ: may thay vụ nổ không xảy ra vào ngày hôm qua, lúc đó hàng nghìn người đang tưng bừng nhảy múa ở quảng trường Trafalgar trong niềm vui sướng vì Luân Đôn đã giành được quyền tổ chức kỳ Thế vận hội năm sau; hay đêm thứ Bảy, trong công viên Hyde Park… hai trăm nghìn người.
Công ty ga và điện lực quốc tế National Grid vừa tuyên bố rằng không có bất cứ sự cố nghiêm trọng nào cho hệ thống năng lượng mà họ cung cấp.
Ga điện ngầm Aldgate.
Ga xe lửa Thập tự Vua.
Đường Edgware nữa.
Thông tin vừa mới cập nhật cho biết nguyên một chiếc xe buýt đã bị “xử gọn”. Gương mặt người phát thanh viên trắng bệch. Một số điện thoại khẩn cấp chạy ở dưới màn hình.
“Chúng ta làm gì bây giờ?” Siobhan khẽ hỏi, trong khi đó, màn hình vô tuyến vẫn đưa những hình ảnh trực tiếp truyền về từ hiện trường - nhân viên y tế đang hối hả vận chuyển các nạn nhân của vụ nổ, khói cuồn cuộn bốc lên, những người bị thương ngồi ở lề đường. Kính và còi hiệu xe cảnh sát cùng với tiếng còi báo động inh ỏi của loạt xe hơi đậu gần đó và các văn phòng xung quanh.
“Làm gì?” Rebus hỏi lại. Đúng lúc đó, chuông điện thoại của Siobhan vang lên. Cô bắt máy ngay tức thì.
“Mẹ à?” cô nói. “Vâng, chúng con cũng đang xem.” Cô ngừng lời để lắng nghe. “Con chắc họ sẽ không sao đâu… Vâng, mẹ cứ gọi điện xem. Nhưng chắc cũng phải mất một lúc mới được đấy ạ.” Cô lại ngừng lời để lắng nghe. “Sao? Hôm nay? Có lẽ người ta sẽ phong tỏa ga Thập tự Vua…” Cô vừa nói vừa hơi quay lại về phía Rebus. Ông quyết định rời căn phòng, để cô được thoải mái trò chuyện. Vào trong bếp ông mở vòi lấy đầy nước vào ấm. Lắng nghe tiếng nước chảy: một thứ âm thanh cơ bản, vậy mà từ trước đến nay chưa bao giờ ông để ý tới. Đơn giản nó cứ thế tồn tại.
Bình thường.
Hằng ngày.
Thế rồi khi ông vặn đóng vòi nước, bỗng có tiếng ùng ục khe khẽ. Kỳ lạ làm sao ông không hề nhớ đã từng gây ra thứ âm thanh này. Quay người lại, ông thấy Siobhan đang đứng ngay trước mặt.
“Mẹ tôi muốn về nhà,” cô nói, “để xem mấy người hàng xóm có bị làm sao không.”
“Tôi còn chẳng biết hai cụ nhà cô sống ở đâu.”
“Quận Forest Hill,” cô đáp lời, “phía nam sông Thames.”
“Vậy là không ăn trưa nữa?”
Cô lắc đầu. Rebus đưa cho Siobhan một dải giấy nhà bếp để cô xì mũi.
“Chuyện thế này, phải nhìn nhận sự việc thật khách quan thôi,” cô nói.
“Cũng không hẳn. Cả tuần nay đã phảng phất triệu chứng rồi. Có những lúc gần như tôi đã nếm được ra hậu quả này đấy.”
“Tận ba túi trà đấy,” cô nói.
“Gì cơ?”
“Anh vừa bỏ những ba túi trà vào tách đấy.” Cô chuyển cho Rebus bình trà. “Anh tưởng chiếc cốc là thứ này phải không?”
“Chắc thế,” ông thừa nhận. Trong tâm trí, ông đang thấy một pho tượng trơ trọi giữa hoang mạc rộng lớn, bỗng dưng vỡ tan thành muôn vàn mảnh vụn.
Siobhan đã trở về nhà. Cô định giúp cha mẹ, có thể sẽ đưa họ ra sân ga nếu đó vẫn còn là kế hoạch khả thi. Rebus vẫn đang theo dõi truyền hình. Chiếc xe buýt hai tầng màu đỏ bị xé làm đôi, nóc bị hất tung lên phía trước. Ấy thế mà vẫn có một số hành khách sống sót sau vụ nổ. Một điều kỳ diệu nhỏ, theo như ông thấy. Theo bản năng, Rebus định khui nắp chai rượu và rót đầy cốc nhưng ông kìm lại được. Các nhân chứng đang thuật lại những gì mà họ chứng kiến. Thủ tướng chính phủ đang trên đường tới miền Nam, để lại Bộ trưởng Bộ Ngoại giao trực chiến tại Gleneagles. Blair đã tranh thủ phát biểu trước khi rời đi, cùng với các đồng sự G8 của ông. Có thể thấy rõ miếng dán thạch cao trên ngón tay bị thương của tổng thống Bush. Lúc này trên bản tin, người ta đang nói về việc phải len qua những bộ phận cơ thể bị đứt lìa để chui ra khỏi con tàu. Bò qua khói lửa và máu. Vài người đã dùng điện thoại cầm tay chụp lại cảnh tượng ghê rợn ấy. Rebus thầm hỏi bản năng nào đã khiến họ làm vậy, tự biến mình trở thành phóng viên mặt trận.
Chai rượu vẫn trên bệ lò sưởi. Trà đã nguội ngắt trong tay ông. Ba gã đàn ông xấu xa đã bị xử chết bởi kẻ hay một nhóm người nào đó. Ben Webster rơi vào mạt vận. Cafferty Ger Bự và Gareth Tench thì đang ấp ủ mưu đồ thanh toán nhau bằng bạo lực. Phải nhìn nhận sự việc thật khách quan - Siobhan đã nói vậy. Rebus không chắc lắm. Bởi bây giờ, hơn bao giờ hết, ông muốn có câu trả lời cho các câu hỏi, muốn nhận diện và danh tính. Ông chẳng thể làm gì với Luân Đôn, hay những kẻ đánh bom liều chết hay những cuộc tàn sát bất chợt đang xảy ra ngay trước mắt. Tất cả những gì ông có thể làm là thi thoảng bắt giam một vài kẻ xấu. Kết quả cũng đâu thể thay đổi diện mạo chung của nền an ninh. Một hình ảnh khác hiện lên trong tâm trí ông: Mickey thuở hãy còn là một đứa trẻ, có lẽ là bãi biển Kirkcaldy hay một kỳ nghỉ nào đó ở thị trấn Thánh Andrews hoặc thị trấn ven biển Blackpool. Đang điên cuồng đắp hàng hàng cát ẩm, be nên một con đập chắn những đợt sóng biển chuẩn bị xô bờ. Hăng say như thể cuộc đời thằng bé phụ thuộc cả vào đó. Cậu anh John cũng đang dùng chiếc xẻng nhựa nhỏ liên tục xúc cát đắp lên con đập, Mickey thì ra sức nện cát cho thật chặt. Con đập dự tính phải dài tận nửa mét đến một mét với chiều cao có thể lên tới hai mươi phân… Thế nhưng đợt sóng đầu tiên đã ập đến trước khi chúng có cơ may hoàn tất, vậy là hai đứa trẻ buộc phải đứng nhìn dinh thự tan biến, hòa vào bãi cát xung quanh. Chúng ré lên vì thất bại, giậm chân bình bịch và dứ dứ nắm đấm bé xíu của mình về phía dòng nước nhè nhẹ vỗ ì oạp, bờ bãi phản trắc và trời xanh thản nhiên trên đầu.
Cả Đức Chúa Trời.
Trên hết là Đức Chúa Trời.
Chai rượu dường như đang trương to lên, hoặc giả chính là ông đang bé lại. Ông nhớ mấy câu trong một ca khúc của Jackie Leven[*]: nhưng con thuyền em thật nhỏ bé, biển cả anh lại quá đỗi mênh mông. Mênh mông ư, cũng đúng thôi, nhưng cớ sao cứ phải chất đầy những con cá mập trời đánh thánh vật?
Rebus định không trả lời khi tiếng chuông điện thoại vang lên. Ông đắn đo trong đúng mười giây rồi nhấc máy. Người gọi là Ellen Wylie.
“Có tin gì mới không?” ông hỏi. Rồi ngay tức lập ông bật cười khô khốc và đưa tay lên bóp nhẹ sống mũi. “Ý tôi là, ngoại trừ cái tin hai năm rõ mười kia.”
“Sở đang sốc nặng,” cô bảo. “Sẽ chẳng ai nhận ra là anh đã sao chép toàn bộ hồ sơ và đem về nhà đâu. Tôi ngờ rằng từ giờ đến hết tuần cũng không ai buồn đi kiểm tra lại bất cứ thứ gì mất. Chắc tôi sẽ về Torphichen, xem liệu nhóm đó có ổn không.”
“Cũng được.”
“Đội quân đến từ Luân Đôn bị điều ngược về lại đại bản doanh rồi. Có lẽ ta sắp cần tối đa lực lượng.”
“Tôi sẽ chẳng ngần ngại đâu.”
“Thực ra, nhóm vô chính phủ cũng cảm thấy choáng váng. Theo tin từ Gleneagles thì mọi chuyện lắng xuống rồi. Nhiều người trong số họ chỉ muốn về nhà thôi.”
Rebus đã nhổm khỏi ghế từ lúc nào. Ông giờ đang đứng cạnh bệ lò sưởi. “Những lúc thế này ai chẳng muốn được ở bên những người thân yêu của họ.”
“John à, anh không sao chứ?”
“Sách vở ấy mà, Ellen.” Ông di ngón tay xuôi dọc thân chai rượu. Đó là chai rượu của hãng Dewar, loại màu vàng nhạt. “Cô cứ quay về Torphichen đi.”
“Anh có muốn sau đó tôi ghé qua không?”
“Tôi không nghĩ ta sẽ hoàn thành được bao nhiêu đâu.”
“Vậy thì mai nhé?”
“Nghe ổn đấy. Nói chuyện sau nhé.” Ông tắt máy và chống cả hai tay lên bệ lò sưởi.
Ông dám cá chai rượu vừa trừng trừng nhìn giả lại ông.