← Quay lại trang sách

PHẦN THỨ TƯ (24) Đòn Cuối

Thứ Sáu ngày 8 tháng Bảy

Sân tập phát bóng lúc này đang tràn ngập ánh sáng. Không phải vì trời chưa hoàn toàn tối, mà chính bởi sự chói lòa của những ngọn đèn đã đem lại cảm tưởng như một phim trường. Mairie thuê một bộ ba cây gậy đánh gôn có đầu bằng gỗ cùng chiếc giỏ bên trong đựng năm mươi trái bóng. Hai khoang đầu tiên đã có chủ. Những khoang tiếp theo bỏ trống. Bóng được tự động đặt vào vị trí phát bóng, đồng nghĩa với việc người chơi sẽ không phải cúi xuống thay bóng sau mỗi cú đánh. Sân tập được phân chia thành những khoảng dài chừng năm mươi mét, có lẽ vì chẳng người nào mới tập chơi mà lại đánh xa quá hai trăm năm mươi mét được. Ngoài bãi cỏ, một thiết bị trông giống như chiếc máy gặt đập liên hợp đang thu nhặt bóng liên tục, người điều khiển nó được bảo vệ bởi tấm chắn bằng lưới. Mairie thấy huấn luyện viên đang giảng giải cho người chơi trong một khoang ở tít dưới cùng. Người đàn ông vung gậy sau khi nhắm vào vị trí phát bóng để rồi chứng kiến trái bóng gôn rơi chạm đất ở khoảng cách chỉ nhỉnh hơn sáu chục mét một chút.

“Có tiến bộ,” huấn luyện viên động viên học trò của mình. “Nhưng hãy cố gắng đừng gập đầu gối như thế nữa.”

“Tôi lại làm sai động tác à?” người học trò thắc mắc.

Mairie chọn khoang kế bên rồi đặt chiếc giỏ bằng kim loại xuống đất. Cô quyết định thử vung gậy vài lần để thả lỏng đôi vai. Cả huấn luyện viên lẫn người chơi đều tỏ vẻ không hài lòng khi thấy cô xuất hiện.

“Xin lỗi?” huấn luyện viên cất lời. Mairie quay sang nhìn anh ta. Từ khoang bên kia người này đang mỉm cười với cô. “Thực ra chúng tôi đã đặt trước khoảng sân đó rồi.”

“Nhưng hiện giờ các anh có dùng đâu”, Mairie đáp.

“Vấn đề là chúng tôi đã trả tiền rồi.”

“Vấn đề chính là ở sự riêng tư,” người đàn ông kia xía vào với giọng điệu tức tối. Và rồi ông ta nhận ra Mairie.

“Ôi, đến là xui…”

Huấn luyện viên quay sang hỏi ông ta: “Ông Pennen, ông biết người này à?”

“Cô ta là ả phóng viên trời đánh thánh vật đấy,” Richard Pennen đáp, rồi quay sang nói với Mairie: “Dù cô muốn cái quái gì chăng nữa thì tôi cũng chẳng có gì cho cô đâu.”

“Được thôi,” Mairie vừa trả lời vừa chuẩn bị tư thế sẵn sàng cho cú đánh đầu tiên. Trái bóng bay vút lên trời làm thành một đường dài và thẳng đến tận lá cờ ở mốc gần hai trăm mét.

“Cú đánh khá tốt,” huấn luyện viên nhận xét.

“Cha tôi đã hướng dẫn tôi đấy,” cô giải thích. “Anh chơi gôn chuyên nghiệp phải không?” cô hỏi. “Hình như tôi đã thấy anh xuất hiện ở giải đấu thành phố.” Huấn luyện viên gật đầu xác nhận.

“Anh không đấu giải Mở rộng sao?”

“Tôi không đủ điều kiện tham gia,” anh ta thừa nhận, gương mặt thoáng ửng đỏ.

“Hai người chuyện trò thế là đủ rồi đấy,” Richard Pennen xen ngang.

Mairie chỉ nhún vai rồi chuẩn bị cho cú đánh kế tiếp. Pennen cũng định làm vậy nhưng rồi buộc phải từ bỏ ý định ấy.

“Nghe này,” ông ta nói, ”thực ra cô muốn cái quái gì vậy hả?”

Mairie chẳng nói chẳng rằng mà cứ thế đứng trông trái bóng bay vút dưới sức mạnh của cú vụt rồi rơi xuống chếch bên trái cột mốc hai trăm mét.

“Cần phải chỉnh lại một chút,” cô tự nhủ rồi quay sang Pennen: “Tôi chỉ định đưa ra lời cảnh báo thôi.”

“Chính xác thì cô muốn cảnh báo về điều gì?”

“Từ giờ đến trước thứ Hai chắc vẫn chưa lên báo đâu,” cô trầm ngâm. “Vẫn còn đủ thời gian cho ông chuẩn bị ứng phó.”

“Cô đang cố tình quấy nhiễu tôi đấy à, cô…?”

“Henderson”, cô đáp. “Mairie Henderson - đó là cái tên mà ông chắc chắn sẽ thấy trên mặt báo vào thứ Hai đấy.”

“Còn tiêu đề là gì? ‘Công ty Pennen Industries đảm bảo cho các hoạt động của Scotland ở hội nghị G8’ chắc?”

“Bài viết đó có thể đăng ở mục kinh doanh”, cô nhận định. “Nhưng bài của tôi sẽ tọa ngay trang nhất cơ. Tùy theo cách mà tổng biên tập muốn đặt tên là gì.” Cô làm ra vẻ nghĩ ngợi. “Ông thấy tiêu đề ‘Xì căng đan về các khoản vay liên quan tới Chính phủ và Phe đối lập’ thì thế nào?”

Pennen bật ra một tràng cười đượm vẻ cay nghiệt. Ông ta vung gậy từ phía trước ra phía sau bằng một tay. “Đấy là cái tin cô cho là sốt dẻo ư?”

“Tôi dám khẳng định rằng bên cạnh hoạt động viện trợ, ông còn nhúng tay vào rất nhiều việc khác: những toan tính ở Iraq, hoạt động đút lót ở Kenya và những nơi khác… Nhưng tạm thời tôi sẽ chú tâm vào các khoản vay. Đấy, có người cho tôi hay rằng ông đang cung cấp tài chính cho cả Công đảng lẫn đảng Bảo thủ. Lòng hảo tâm thì cần được ghi nhận rõ ràng, nhưng các khoản vay thì lại phải được giữ bí mật. Vấn đề là, tôi ngờ rằng hai đảng này không hề hay biết ông đang hậu thuẫn cho phe đối lập. Cũng hợp lý thôi: hồi đó, Công ty Pennen có thể tách khỏi Bộ Quốc phòng nhờ quyết định phê duyệt bởi chính phủ đảng đối lập cuối cùng; còn Công đảng thì khẳng định vụ bán tháo này có thể xúc tiến xuôi chèo mát mái còn gì - vậy là ông mang nợ cả hai rồi.”

“Cô Henderson này, các khoản vay thương mại dù công khai hay không đều chẳng có gì bất hợp pháp cả,” Pennen vẫn đang vung vẩy cây gậy chơi gôn.

“Nhưng vẫn sẽ gây rùm beng một khi các báo biết được,” Mairie vặn lại. “Và như tôi đã nói đấy, ai mà biết liệu còn câu chuyện gì khác sủi tăm lên?”

Pennen vụt mạnh đầu cây gậy vào bức vách ngăn giữa hai khoang. “Cô có biết tuần này tôi đã phải lao động vô cùng cật lực mới thu xếp được những hợp đồng trị giá hàng chục triệu cho ngành công nghiệp Anh quốc không? Còn cô thì sao, bản thân cô đã làm được gì, ngoài việc ra sức đào bới vô bổ?”

“Ngài Pennen, mỗi ngườl chúng ta đều có vị trí trong chuỗi thức ăn.” Cô mỉm cười. “Chẳng mấy nữa rồi sẽ là danh xưng ‘Ngài’, phải không nhỉ? Cứ căn khoản tiền mà ông đã chi bộn, thì cái danh vị ấy chẳng còn xa mấy? Ông cứ liều liệu đấy, một khi Blair biết được ông đang chuyển tiền cho phe thù địch với ông ta…”

“Thưa ngài, có vấn đề gì ở đây không?”

Mairie ngoái lại thấy mấy viên cảnh sát. Người vừa cất lời đang quan sát thái độ của Pennen; trong khi hai cảnh sát còn lại nhìn cô chằm chằm không rời mắt.

Những ánh mắt chẳng hề thân thiện.

“Tôi nghĩ cô này đang chuẩn bị ra về,” Pennen lầm bầm.

Mairie giả bộ nhìn săm soi qua bức vách. “Bên đấy có đèn thần hay sao? Lần nào gọi cảnh sát tôi cũng phải chờ tận nửa tiếng ấy chứ.”

“Chúng tôi đi tuần thường nhật,” tay cảnh sát làm trưởng nhóm tuyên bố.

Mairie đưa mắt nhìn người này từ đầu đến chân: bộ đồng phục không phù hiệu. Khuôn mặt rám nắng, tóc cắt ngắn cùng một chiếc cằm banh.

“Một câu hỏi thôi,” Mairie nói. “Anh có biết khung hình phạt cho tội giả mạo cảnh sát không?”

Tay trưởng nhóm quắc mắt và định túm lấy cô. Mairie nhoài người thoát khỏi cú chộp rồi bỏ chạy tới chỗ an toàn của khu vực lái xe ra mặt cỏ. Trên đường cắm đầu chạy thục mạng về phía cửa, cô né người tránh được hai trái bóng vọt ra từ hai khoang tập đầu tiên, những người tập la ó đầy tức giận. Mairie chỉ kịp lao qua cửa trước những người đang đuổi theo cô một tích tắc. Người đàn bà ở quầy thu ngân gọi với theo hỏi ba cây gậy chơi gôn ở đâu. Mairie không kịp trả lời. Đẩy một cánh cửa khác, cô thấy mình đã ở trong bãi đỗ xe. Cô vừa chạy tới xe của mình vừa cố sức bấm nút điều khiển. Chẳng còn thời gian để nhìn ngó xung quanh. Chui ngay vào xe, khóa cả bốn cánh cửa. Một nắm tay đập bình bịch lên cửa sổ xe. Tên cầm đầu thử giật tay nắm cửa nhưng không được, bèn vòng lên phía đầu xe. Mairie ném cho hắn cái nhìn tỏ ý không quan tâm. Cô nhấn chân ga.

“Cẩn thận, Jacko! Ả điên rồi!”

Gã đàn ông tên Jacko lăn sang một bên; một là vậy, hai là chết. Nhìn qua gương chiếu hậu, cô thấy hắn đang tự nhổm dậy. Một chiếc xe hơi vừa đỗ xịch lại ngay kế bên hắn. Trên xe này cũng không có bất kỳ phù hiệu nào. Mairie lao vọt ra đường cái - sân bay bên tay trái, thành phố bên tay phải. Con đường quay lại Edinburgh cho cô nhiều lựa chọn và nhiều cơ hội để thoát khỏi đám người này hơn.

Cô đã từng nghe thấy cái tên “Jacko”. Cả cái cách mà gã đàn ông kia gọi cô là “ả này”. Kiểu dùng từ ngữ này chỉ có thể được nghe từ miệng những tay lính. Cựu quân nhân… với làn da rám nắng do chịu ảnh hưởng của ánh mặt trời xứ nóng.

Iraq.

Vệ sĩ tư nhân đội lốt cảnh sát.

Cô nhìn gương chiếu hậu: không thấy bóng dáng bọn chúng đâu. Nhưng không có nghĩa là chúng không ở phía sau. Trục đường A8 sang đoạn đường vòng, suốt quãng đường vừa bất chấp quy định về tốc độ, vừa liên tục bật đèn hiệu báo cho những người lái xe phía trước biết rằng cô đang chuẩn bị vượt qua…

Thế nhưng biết đi đâu bây giờ? Mấy gã kia sẽ dễ dàng lần ra địa chỉ nhà cô; đơn giản đến hiển nhiên với một người như Richard Pennen. Allan đang đi công tác và đến tận thứ Hai mới về nhà. Chẳng lý do gì cản được cô lái thẳng về tòa soạn tờ Người Scotland để viết nốt bài báo còn dang dở. Máy tính xách tay cô đã cất trong ngăn tủ. Những bản ghi chép, trích dẫn và cả bản nháp mà cô đã viết. Nếụ cần cô có thể ở lại văn phòng cả đêm, làm dịu cơn đói bằng cà phê cùng đồ ăn nhẹ, rồi chui vào tổ kén cách biệt với thế giới bên ngoài.

Viết nốt kịch bản cho ngày tận thế của Richard Pennen.

Là Ellen Wylie báo tin cho Rebus. Ông báo ngay lại với Siobhan, hai mươi phút sau Siobhan đã tạt qua đón ông và hai người lên đường ngay lập tức. Họ lái xe thẳng tới Niddire trong bóng tối chập choạng. Cả Rebus và cô giữ yên lặng trên suốt chặng đường. Khu cắm trại của Trung tâm Jack Kane đã bị tháo dỡ. Không còn bóng dáng của lều bạt, phòng tắm hay nhà vệ sinh công cộng. Phân nửa hàng rào đã bị tháo bỏ, lực lượng cảnh sát đã thế chỗ cho các nhân viên bảo vệ, nhân viên cứu thương cùng với hai nhân viên nhà xác đến mang những phần xác bị giập nát của Ben Webster ở dưới chân tòa thành đi. Siobhan đỗ xe sát cạnh hàng dài xe cộ. Rebus nhận ra vài người làm việc ở sở Thánh Leonard và Craigmillar trong số các thám tử đang có mặt tại đây. Những người này gật đầu thay lời chào hai vị thanh tra mới xuất hiện.

“Đây không hẳn là địa phận của anh,” một người nhận xét.

“Cứ coi như bọn tôi đơn thuần là quan tâm đến người xấu số đi,” Rebus đáp. Siobhan đứng cạnh ông. Cô rướn người về phía ông và thì thầm để không bị nghe thấy.

“Chưa lộ ra ngoài là chúng ta bị đình chỉ công tác đâu.”

Rebus chỉ gật gù. Lúc này ông và Siobhan đang ở gần một vòng tròn các thành viên Đội Giám định Hiện trường đang cúi lom khom. Vị bác sĩ chịu trách nhiệm chính tuyên bố nạn nhân đã chết và đang ký vào biên bản trên bìa kẹp tài liệu. Ánh đèn flash từ máy ảnh liên tục lóe sáng, đèn pin sục sạo trên bãi cỏ tìm chứng cứ. Đám đông tò mò bị một tá cảnh sát ngăn ở một quãng xa nhất định trong khi khu vực hiện trường được đánh dấu. Những đứa trẻ đi xe đạp, những bà mẹ cùng con nhỏ trong xe đẩy. Chẳng gì thu hút đám đông tụ tập nhanh hơn một hiện trường án mạng.

Siobhan đang tiến hành xem xét hiện trường. “Đây có lẽ là nơi cha mẹ tôi đã dựng lều,” cô nói với Rebus.

“Tôi đoán họ không phải những người duy nhất phải tháo chạy khỏi cái nơi hỗn độn này.” Ông đưa chân hất một cái chai nhựa chẳng còn gì bên trong lên không trung. Rác rưởi bị bỏ lại lung tung khắp công viên: biểu ngữ và tờ rơi vứt đi, thùng đựng đồ ăn nhanh, một cái khăn quàng và một chiếc găng tay lẻ, rồi một món đồ chơi xúc xắc để thí lũ trẻ và một cuộn tã lót bẩn… Đội Giám định Hiện trường đã thu thập một số đồ vật bị bỏ lại nhằm kiểm tra vết máu hoặc dấu vân tay.

“Thật muốn xem họ lấy ADN từ thứ đó,” Rebus vừa nói vừa hất cằm ra hiệu về phía chiếc bao cao su đã qua sử dụng. “Cô có nghĩ cha và mẹ cô có thể…?”

Siobhan lừ mắt nhìn ông. “Tôi không muốn nói linh tinh đâu đấy.”

Ông nhún vai, bỏ cô lại đó. ủy viên hội đồng thành phố Gareth Tench đang dần lạnh ngắt trên mặt đất. Cái xác ở tư thế nằm sấp, hai chân uốn cong trông giống như bị ngã sụp xuống thành đống. Đầu vị ủy viên quay sang một bên, mi mắt không khép hoàn toàn. Có một vết nhơ sẫm màu trên phần lưng của chiếc áo khoác.

“Theo tôi thì là bị đâm,” Rebus trao đổi với vị bác sĩ.

“Ba nhát,” vị bác sĩ xác nhận. “Thẳng vào lưng. Các vết thương trông có vẻ không sâu lắm.”

“Có lẽ vậy,” Rebus đáp. “Hung khí là loại dao gì?”

“Giờ thì chưa kết luận được.” Qua cặp kính lão hình bán nguyệt, vị bác sĩ quan sát kỹ vết thương. “Lưỡi dao rộng khoảng một phân, mà có thể là nhỏ hơn một chút.”

“Có mất gì không?”

“Trên người ông ta có một ít tiền mặt… thẻ tín dụng và mấy thứ khác nữa. Nhờ đó chúng tôi mới xác định được danh tính dễ dàng hơn.” Vị bác sĩ nở một nụ cười mệt mỏi rồi đưa cho Rebus tấm bìa kẹp hồ sơ. “Ngài thanh tra, nếu được ngài hãy ký vào đây…”

Thế nhưng Rebus giơ hai tay lên. “Thưa bác sĩ, vụ này không phải của tôi.” Ông cũng lắc đầu khi vị bác sĩ nhìn về phía Siobhan rồi bước tới đứng cạnh cô.

“Ba nhát đâm,” ông thông báo.

Cô đang trân trân nhìn khuôn mặt ủy viên Tench, và hình như đang hơi run.

“Cô thấy lạnh à?” ông hỏi.

“Đứng là ông ta rồi,” cô nói khẽ.

“Cô tưởng ông ta bất khả xâm phạm sao?”

“Cũng không hẳn là như thế.” Cô chẳng thể nào rời mắt khỏi cái xác.

“Tôi nghĩ chúng ta nên nói cho người nào đó biết.” Ông đưa mắt nhìn xung quanh nhằm tìm kiếm một ứng cử viên thích hợp.

“Cho biết chuyện gì cơ?”

“Rằng chúng ta đã cật vấn vị ủy viên hội đồng của chúng ta. Người ta sẽ phát hiện ra, chỉ là sớm hay…”

Nghe đến đây Siobhan đột nhiên nắm lấy tay Rebus và kéo ông về phía bức tường bê tông màu xám của trung tâm thể thao.

“Có chuyện gì vậy?”

Nhưng cô không định trả lời, cho đến khi cô cảm thấy hai người đã ở một khoảng cách đủ xa. Thậm chí cô còn đứng quá sát ông như thể đang chuẩn bị diễn tập điệu van-xơ. Khuôn mặt cô khuất trong bóng tối.

“Siobhan?” ông gặng hỏi cô.

“Anh phải biết kẻ nào đã gây ra chuyện này,” cô nói.

“Ai?”

“Chính là Keith Carberry,” cô rít lên. Rồi khi thấy ông không phản ứng, cô ngửa mặt lên trời và nhắm nghiền hai mắt. Rebus nhận thấy những ngón tay cô đã nắm chặt lại còn toàn thân cô đang trở nên căng cứng.

“Có chuyện gì?” ông hỏi khẽ. “Siobhan, cô đã làm chuyện quái quỷ gì vậy?”

Rốt cuộc cô cũng mở mắt ra, chớp chớp mắt ghìm những giọt lệ chực trôi ra và cố gắng ổn định nhịp thở. “Sáng nay tôi đã gặp Carberry. Bọn tôi đã bảo nó…” Cô ngập ngừng. ”Tôi đã bảo nó là tôi muốn Gareth Tench.” Cô liếc nhìn về phía xác chết. “Đây chính là cách mà nó đưa ông ta cho tôi…”

Rebus chờ đến khi cô quay đầu lại và nhìn thẳng vào mắt cô. “Chiều nay tôi cũng bắt gặp nó,” ông nói. “Lúc ấy nó đang đứng theo dõi Tench ở trụ sở hội đồng thành phố.” Ông đút hai tay vào túi áo. “Siobhan này, cô vừa bảo rằng ‘bọn tôi’…”

“Tôi vừa bảo vậy sao?”

“Cô nói chuyện với nó ở đâu?”

“Chỗ đánh bi-a.”

“Là cái nơi Cafferty đã kể với chúng ta?” Ông nhìn cô gật đầu xác nhận. “Cafferty cũng có mặt ở đó, phải không?” Nét mặt cô đã xác nhận điều mà Rebus muốn biết. Ông rút tay khỏi túi áo và vỗ thật mạnh lên bức tường. “Chúa ơi!” ông thốt lên. “Cô và Cafferty?” Cô lại gật đầu. “Shiv à, một khi nanh vuốt của tên trùm ấy cắm vào cô thì chúng sẽ không rời ra đâu. Qua bao năm tháng quen biết tôi thì cô phải biết điều đó chứ.”

“Tôi phải làm gì bây giờ?”

Ông ngẫm nghĩ trong giây lát. “Giữ im lặng sẽ khiến cho Cafferty tin rằng hắn đã nắm được cô.”

“Nhưng nếu tôi thú nhận…”

“Tôi không biết nữa,” ông thừa nhận. “Có lẽ cô sẽ phải đến đồn trình diện.”

“Vậy tôi cũng nên chuẩn bị sẵn đơn từ chức ngay là vừa.”

“Cafferty đã nói gì với Carberry?”

“Hắn chỉ bảo thằng nhỏ phải giao vị ủy viên cho ta thôi.”

“Từ ‘ta’ ở đây nghĩa là ai, cho Cafferty hay cho pháp luật?”

Cô chỉ biết nhún vai.

“Và thằng nhỏ phải giao nộp như thế nào?”

“Chết tiệt, John, tôi không biết mà. Chính anh đã nói, thằng nhỏ đang theo dõi Tench còn gì.”

Rebus nhìn về phía hiện trường. “Thật đúng là hành động liều mạng khi đâm nạn nhân tận ba nhát vào lưng như thế.”

“Chắc Keith Carberry cũng không chủ đích làm vậy.”

Rebus thoáng băn khoăn. “Tạm thời chưa nên nói về điều này nữa,” ông quyết định. “Còn người nào thấy cô gặp Cafferty không?”

“Chỉ Carberry thôi. Ở chỗ chơi bi-a còn vài người khác nhưng khi lên tầng nói chuyện thì chỉ có ba người bọn tôi.”

“Vậy là cô biết trước Cafferty sẽ có mặt à?” Ông thấy Siobhan gật đầu. “Bởi vì cô đã cùng hắn dàn dựng tất cả mọi chuyện?” Cô lại gật đầu. “Mà không hề nghĩ đến việc sẽ cho tôi biết?” Phải khó khăn lắm Rebus mới giữ cho giọng nói được bình thường.

“Đêm qua Caffterty đã tới nhà tôi,” Siobhan thú nhận.

“Chúa ơi…”

“Hắn là chủ câu lạc bộ đánh bi-a… đó là lý do vì sao hắn biết Carberry hay lui tới đó.”

“Shiv, đáng lẽ cô phải tránh xa hắn ra.”

“Tôi biết.”

“Chuyện đã rồi, nhưng ta vẫn có thể cố gắng cứu vãn.”

“Thật ư?”

Ông nhìn chằm chằm vào Siobhan. “Tôi nói ‘ta’, nhưng ý là ‘tôi’.”

“Vì John Rebus có thể xử lý mọi việc ư?” Nét mặt cô hơi đanh lại. “Tôi tự lo liệu được, John ạ. Anh không cần phải lúc nào cũng đóng vai hiệp sĩ thực thi công lý đâu.”

Ông đưa hai tay lên chống ngang hông. “Chúng ta ngừng cách nói bóng nói gió đi được chưa?”

“Anh biết vì sao tôi nghe lời Cafferty không? Vì sao tôi vẫn đến chỗ đánh bi-a dù biết trước hắn sẽ có mặt ở đó không?” Giọng nói của Siobhan run lên vì xúc động. “Vì hắn đã ngỏ ý sẽ mang đến một thứ mà tôi biết mình chẳng thể có được nếu dựa vào pháp luật. Anh đã chứng kiến câu chuyện diễn ra ở đây tuần vừa rồi - chính cái cách mà những người giàu có và quyền lực thâu tóm mọi việc… cái cách mà họ đạt được tất cả những gì họ muốn. Hôm ấy Keith Carberry xuống phố Princes bởi nó nghĩ đó là điều mà ông chủ của nó muốn. Nó nghĩ nó đã có Gareth Tench đứng sau hậu thuẫn nên nó tùy ý hành hung bất kỳ ai cũng được.”

Rebus giữ im lặng chờ xem người đồng nghiệp có còn bộc bạch điều gì nữa, nhưng không thấy Siobhan nói gì, ông bèn đặt tay lên vai cô. “Cafferty,” ông nói khẽ, “muốn tống cổ Gareth Tench khỏi mảnh đất màu mỡ mà hắn đang làm bá chủ, và hắn chắc hẳn rất sung sướng khi đã dùng được cô như một công cụ để đạt được điều đó.”

“Hắn bảo tôi hắn không muốn Tench phải chết.”

“Nhưng hắn lại nói với tôi rằng hắn muốn như thế. Và tôi nghĩ hắn không cố tình huênh hoang khi nói vậy đâu.”

“Bọn tôi không yêu cầu Keith Carberry giết ông ta,” cô khẳng định.

“Siobhan,” Rebus nhắc cô, “mới một phút trước chính cô đã xác nhận: Keith hoàn toàn tuân theo những gì nó nghĩ những kẻ khác muốn nó làm - những kẻ có quyền lực, những kẻ tìm được cách chế ngự nó. Những kẻ như Tench… như Cafferty… và như cô.” Ông nói rồi đưa tay chỉ thẳng vào cô.

“Vậy tôi là người có lỗi ư?” cô vừa hỏi vừa nheo mắt lại.

“Tất cả chúng ta đều có thể mắc sai lầm, Siobhan.”

“Chà, cảm ơn về lời động viên.” Cô quay gót bỏ đi và băng ngang qua sân đá bóng. Rebus nhìn xuống chân với một tiếng thở dài, rồi cho tay vào túi lấy ra bao thuốc cùng chiếc bật lửa.

Chiếc bật lửa hết ga. Ông lắc nó, lật ngược nó lên, thổi hơi vào nó, rồi lại chà chà vào nó hòng tìm chút cơ may… nhưng vẫn không một tia lửa nhỏ. Ông lững thững bước về phía hàng xe cảnh sát hỏi mượn. Thấy người cảnh sát vui vẻ giúp đỡ, Rebus quyết định nhờ cậy thêm một việc nữa.

“Tôi đi nhờ xe được không,” ông vừa nói vừa dõi theo ánh đèn hậu từ chiếc xe của Siobhan đang dần lùi xa. Không thể tin được là Cafferty đã cắm được những móng vuốt của hắn vào Siobhan. Mà không… thực ra ông có thể tin ngay tất cả những gì vừa xảy ra. Siobhan hẳn là đã mong chứng tỏ được điều gì đó với cha mẹ mình - không chỉ là những thành công trong sự nghiệp, mà còn là một điều gì đó có ý nghĩa thật sự trong hoàn cảnh hiện tại. Cô muốn họ biết rằng sẽ luôn có lời giải, luôn có giải pháp cho mọi chuyện. Cafferty đã hứa hẹn với cô cả hai thứ đó.

Nhưng bất cứ giao kèo nào cũng có giá - trong trường hợp này thì hắn là người ra giá.

Siobhan đã không còn suy nghĩ như một người cảnh sát, mà trở lại thành cô con gái của cha mẹ. Rebus nghĩ lại việc ông đã đẩy chính gia đình của mình trôi xa như thế nào, đầu tiên là vợ và con gái ông, rồi đến em trai ông. Sở dĩ ông đẩy họ ra xa nhường ấy là vì công việc dường như yêu cầu thế, nó buộc ông phải toàn tâm toàn ý một cách vô điều kiện. Chẳng còn khoảng trống dành cho bất kỳ ai hay cái gì khác… Giờ đã quá muộn để có thể thay đổi.

Nhưng với Siobhan thì vẫn chưa quá muộn.

“Anh vẫn muốn đi nhờ xe chứ?” một người trong số mấy cảnh sát cất tiếng hỏi. Rebus gật đầu rồi chui vào xe.

Điểm dừng chân đầu tiên của ông: Sở Cảnh sát Craigmillar. Ông tự lấy cho mình một tách cà phê trong lúc chờ đội cảnh sát tập hợp lại. Họ thành lập phòng phụ trách án mạng ở đây cũng hợp lý. Thế rồi đương nhiên một hàng xe hơi bắt đầu tiến vào sở. Rebus không biết những khuôn mặt này, nhưng ông vẫn tự giới thiệu. Một viên cảnh sát nghiêng đầu.

“Người anh cần gặp là hạ sĩ McManus ở đằng kia.”

Lúc này McManus đang buớc qua cánh cửa. Anh chàng thậm chí còn trẻ hơn Siobhan - có lẽ chưa đến ba mươi tuổi. Nét mặt hơi trẻ con, cao và gầy nhom. Rebus đoán anh ta là dân địa phương, sinh ra và lớn lên ngay tại đây. Rebus chủ động bắt tay và tự giới thiệu lần nữa.

“Tôi đã bắt đầu nghĩ anh chỉ là chuyện hoang đường,” McManus nói và mỉm cười. “Tôi nghe nói trước đây anh cũng từng ở đây một thời gian.”

“Đúng vậy.”

“Và anh cộng tác với Bain và Maclay.”

“Tội cho cái thân tôi.”

“À, họ cũng chuyển đi lâu rồi, nên anh không cần phải lo lắng đâu.” Hai người cùng sải buớc dọc theo hành lang dài ở phía sau quầy tiếp đón. “Tôi có thể giúp gì cho anh, Rebus?”

“Chỉ là có điều này tôi nghĩ cậu cần phải biết.”

“Gì thế?”

“Tôi đã có vài cuộc trao đổi căng thẳng với nạn nhân.”

McManus liếc nhìn ông. “Vậy ư?”

“Tôi phụ trách vụ án mạng Cyril Colliar.”

“Vẫn chỉ thêm hai nạn nhân?”

Rebus gật đầu xác nhận. “Tench có liên quan tới một trong hai nạn nhân - một tay từng làm việc ở một viện dưỡng lão cách đây không xa. Tench đã giúp người này có công việc đó.”

“Cũng hợp lý.”

“Khi các cậu lấy lời khai của vợ nạn nhân… chắc bà ấy sẽ cho hay người của Phòng Điều tra Tội phạm đã đến gặp ông chồng.”

“Chính là anh à?”

“Phải, tôi và một đồng nghiệp nữa.”

Họ rẽ trái vào hành lang kế bên, rồi Rebus theo McManus vào văn Phòng Điều tra Tội phạm, cả đội cảnh sát đã đang ngồi chờ sẵn ở đó.

“Còn gì khác mà anh cho là tôi nên biết nữa không?”

Rebus cố làm ra vẻ ông đang vắt óc suy nghĩ. Cuối cùng, ông lắc đầu. “Chỉ có vậy thôi,” ông nói.

“Tench bị coi là nghi phạm à?”

“Không hẳn.” Rebus ngập ngừng. “Chúng tôi hơi băn khoăn về quan hệ của ông ta với một cậu thanh niên vô công rồi nghề tên là Keith Carberry.”

“Tôi biết Keith,” McManus nói.

“Nó đã phải hầu tòa, bị buộc tội cố tình gây mất trật tự công cộng ở phố Princes. Ủy viên hội đồng thành phố Tench đứng bên ngoài chờ nó được thả ra. Họ trông có vẻ khá thân mật. Rồi hệ thống máy quay giám sát an ninh cho thấy Carberry đã ra tay đánh một người dân vô tội đứng xem ở gần nó. Xem ra thằng nhóc gặp nhiều rắc rối hơn là nó tưởng. Vào giờ ăn trưa hôm nay tôi tình cờ có mặt tại trụ sở hội đồng thành phố và gặp ủy viên Tench ở đó. Khi ra về, tôi trông thấy Carberry đang đứng quan sát từ bên kia đường…” Rebus kết thúc lời kể bằng hành động nhún vai, như thể muốn ngụ ý rằng ông chẳng hề hay biết tất cả những chi tiết này có ý nghĩa gì. McManus cũng đang ngầm đánh giá ông.

“Carberry nhìn thấy anh và vị ủy viên đứng cùng nhau à?” Rebus gật đầu. “Và lúc đó là giờ ăn trưa?”

“Tôi có cảm tưởng là nó đang theo dõi ông ủy viên.”

“Anh không dừng lại hỏi thằng nhóc à?”

“Lúc ấy tôi đang ngồi trong xe mà… cũng chỉ thoáng thấy nó qua gương chiếu hậu.”

McManus cắn chặt môi dưới. “Phải nhanh chóng có kết quả cho vụ này,” anh ta nói, gần như là tự nhủ với chính mình. “Tench vô cùng được lòng người, vì đã làm được những điều tốt đẹp cho khu vực này. Vài người sẽ rất bất bình đây.”

“Hẳn rồi,” Rebus cũng đồng ý với nhận định của viên hạ sĩ. “Cậu có biết vị ủy viên của chúng ta không?”

“Bạn của chú tôi… họ từng học chung một trường.”

“Cậu sống ở quanh đây rồi,” Rebus khẳng định.

“Tôi sống ở ngay dưới chân tòa thành Craigmillar mà.”

“Vậy ra cậu biết ủy viên Tench từ trước?”

“Nhiều năm rồi ấy chứ.”

Rebus cố làm cho câu hỏi tiếp theo có vẻ vu vơ. “Cậu đã bao giờ nghe được tin đồn nào về ông ta chưa?”

“Tin đồn kiểu thế nào?”

“Tôi không biết nữa… những thứ người ta hay đồn đại, tôi nghĩ thế - ngoại tình này, rồi tiền trong két bạc biến mất một cách bí ẩn…”

“Xác ông ta còn chưa lạnh hẳn mà,” McManus tỏ vẻ phật ý.

“Tôi chỉ tự hỏi vậy thôi,” Rebus đấu dịu. “Không phải tôi cố ám chỉ gì đâu.”

McManus đưa mắt nhìn đội do anh ta phụ trách - tổng cộng có bảy cảnh sát, trong đó có hai người là nữ. Họ đang làm ra vẻ nãy giờ họ chẳng hề chú ý tới cuộc nói chuyện. McManus rời chỗ Rebus đứng và bước tới trước mặt họ.

“Ta sẽ đến tận nơi báo cho gia quyến nạn nhân xấu số. Cần có người đứng ra nhận diện nạn nhân.” Anh ta hơi ngoái đầu về phía Rebus. “Sau đó, ta sẽ làm việc với Keith Carberry. Có vài điều cần phải trao đổi với thằng nhỏ.”

“Như kiểu ‘Keith, con dao đâu rồi?’,” một người trong đội nói.

McManus không tỏ thái độ gì trước câu nói đùa. “Tôi biết chúng ta đã diện kiến Bush và Blair rồi Bono suốt cả tuần trước, nhưng ở ngay Craigmillar này thì Gareth Tench được coi như là một thành viên của hoàng tộc. Bởi thế, ta phải chủ động tiến hành. Càng hoàn thành nhiều việc trong đêm nay thì tôi càng mừng.”

Vài âm thanh cự nự rộ lên, nhưng chẳng hề có vẻ chống đối. Rebus nhận thấy các thành viên trong đội của McManus dành nhiều thiện cảm đặc biệt cho anh ta. Bọn họ chịu vì anh ta mà làm việc ngoài giờ.

“Có phải làm thêm giờ không?” một cảnh sát khác hỏi.

“Hội nghị G8 hãy còn chưa đủ với cậu sao, Ben?” McManus bắt bẻ. Rebus nán lại một lát định nói điều gì đó như “cảm ơn” hoặc “chúc may mắn” nhưng McManus đã dồn toàn bộ tâm trí cho vụ án mạng vừa xảy ra. Thậm chí anh ta đã bắt đầu phân công nhiệm vụ cho từng cảnh sát viên dưới quyền.

“Ray, Barbara… hãy tìm trong hệ thống giám sát an ninh CCTV xem có hình ảnh nào quanh Trung tâm Jack Kane không. Billy, Tom… hai người thúc vào đít vị bác sĩ pháp y đáng kính của chúng ta cho nhanh nhé - chắc cũng chẳng hơn gì mấy người lười biếng ở trung tâm giám định pháp y đâu. Jimmy, cậu và Kate đi tóm Keith Carberry nhé. Cứ cho nó sợ toát mồ hôi trong phòng giam tới khi tôi quay lại. Còn Ben, cậu sẽ đi với tôi đến nhà ủy viên ở khu Duddingston Park. Có ai hỏi gì nữa không?”

Không có câu hỏi nào nữa.

Rebus bước trở về phía hành lang, trong lòng thầm mong Siobhan sẽ không bị dính líu vào chuyện này. Chẳng có cách nào chắc được. McManus chẳng hề chịu ơn Rebus. Có thể Carberry sẽ khai như rút ruột, mà thế thì sẽ không đơn giản, nhưng có gì mà bọn họ không giải quyết được. Ngay lúc này các chi tiết của câu chuyện đã bắt đầu hình thành trong đầu Rebus.

Hạ sĩ Clarke nắm được thông tin rằng Keith thường chơi bi-a ở Restalrig. Khi cô tới đó, chủ câu lạc bộ là Morris Gerald Cafferty cũng tình cờ có mặt…

Ông nghi ngờ khả năng McManus sẽ tin vào câu chuyện này. Hai người họ hoàn toàn có thể phủ nhận đã gặp gỡ, nhưng vẫn còn các nhân chứng. Vả lại, việc từ chối sẽ chỉ có hiệu quả nếu Cafferty đồng ý hợp tác… và lý do duy nhất khiến hắn chịu làm vậy chỉ là để siết chặt thêm thòng lọng đang quấn quanh người Siobhan. Cô sẽ phải mang nợ Cafferty suốt quãng đời sau này, và Rebus cũng vậy. Chính vì lý do đó, khi ra đến quầy đón tiếp, ông lại hỏi xin đi nhờ lần nữa, lần này là đến Marchiston.

Mấy viên cảnh sát trong xe tuần tra có vẻ thích chuyện trò, nhưng lại không hỏi xem cụ thể Rebus đi nhờ tới đâu. Có lẽ bọn họ cho rằng cảnh sát thuộc Phòng Điều tra Tội phạm có đủ điều kiện để tậu nhà riêng ở khu vực yên tĩnh được bao quanh bởi những hàng cây trải dài này. Những ngôi nhà xây dựng theo lối kiến trúc thời Victoria nằm khuất sau hàng rào và những bức tường cao. Ánh đèn đường dịu nhẹ như thể sợ làm thức giấc cư dân sinh sống ở nơi đây. Những con đường rộng thênh thang gần như vắng tanh - chắc hẳn sẽ không bao giờ gặp vấn đề gì khi đỗ xe ở đây bởi vì mỗi căn nhà bề thế kia đều có lối cho xe vào với sức chứa lên đến nửa tá xe hơi. Rebus yêu cầu dừng xe tuần tra khi tới đường Ettrick - ông không muốn hành động của mình trở nên quá lộ liễu. Họ có vẻ thích thú với việc vừa buôn chuyện vừa đánh xe chầm chậm chờ xem căn nhà nào sẽ là điểm dừng chân cuối cùng của ông. Thế nhưng ông chủ động vẫy tay ra hiệu cho họ rời đi rồi lấy một điếu thuốc ra châm. Ban nãy một cảnh sát ngồi chung xe đã đưa ông mấy que diêm. Rebus vừa quẹt diêm lên bờ tường vừa quan sát chiếc xe tuần tra bật đèn hiệu xin rẽ phải ở cuối con đường. Ông lần theo và rẽ phải ở cuối đường Ettrick -không có dấu hiệu nào của chiếc xe và chẳng có chỗ nào họ ẩn nấp được. Không có dấu hiệu của sự sống ở bất cứ đâu: không có tín hiệu đèn giao thông mà cũng chẳng có bóng dáng khách bộ hành, không một tiếng động nào vọng ra từ sau những bức tường đá dày. Những khung cửa sổ khổng lồ được che bên ngoài bằng cửa chớp gỗ. Những bãi chơi ki và sân tennis vắng tanh. Ông rẽ phải một lần nữa và đi bộ đến giữa chừng một con phố khác. Phía trước ngôi nhà là bờ giậu trồng toàn cây nhựa ruồi. Ánh đèn chiếu sáng phần mái cổng vòm được nâng đỡ hai bên bởi hai trụ đá. Rebus đẩy cánh cổng mở ra và giật mạnh dây chuông, trong lòng băn khoăn không biết có nên đi vòng ra cổng sau hay không. Lần trước khi ông tới đây vẫn còn vòi phun nước nóng ở phía sau ngôi nhà. Nhưng cánh cửa gỗ nặng trịch thình lình rung lên rồi từ từ chuyển động từ bên trong. Một gã đàn ông trẻ đứng chắn ngang giữa cổng. Cơ thể gã hẳn được tạc từ phòng tập thể hình, và gã mặc áo thun màu đen bó sát để cố tình nhấn mạnh điều đó.

“Đừng quá lạm dụng steroid,” Rebus khuyên gã. “Chủ của cậu có nhà không?”

“Trông có giống như ông ấy cần thứ quái gì đó mà ngươi đang bán không?”

“Ta đang bán sự cứu rỗi đấy, con trai ạ - bất kỳ ai cũng cần điều đó, kể cả cậu nữa.” Nhìn qua vai gã, Rebus thấy một đôi chân phụ nữ đang bước xuống cầu thang. Phía dưới chiếc áo choàng màu trắng là cặp giò mảnh khảnh rám nắng cùng bàn chân trần. Cô gái dừng ở giữa cầu thang và cúi người nhòm xem ai đang đứng ngoài cửa. Rebus đưa tay vẫy cô ta. Có thể thấy cô gái đã được dạy dỗ tử tế qua hành động vẫy tay chào lại dù không biết người đàn ông đứng kia là ai. Thế rồi cô ta quay lưng và nhón bước đi lên tầng.

“Ông có trát khám nhà không?” gã vệ sĩ hỏi.

“Mãi đến giờ mới chịu hiểu,” Rebus kêu lên. “Nhưng tôi và ông chủ của cậu làm việc theo cách khác.” Rebus đưa tay chỉ về phía một lối hành lang dẫn vào có rất nhiều cánh cửa. “Kia là phòng khách, và tôi sẽ đợi ông chủ cậu ở đó nhé.” Rebus định bước qua gã vệ sĩ nhưng lập tức bị một bàn tay đặt ngay trên ngực ông để chặn lại.

“Ông ấy đang bận,” gã vệ sĩ nói.

“Đúng, lên giường với nhân viên,” Rebus đồng tình. “Nghĩa là có thể tôi sẽ phải loanh quanh khoảng hai phút nữa - hy vọng là hắn không đứt gánh giữa đường.” Ông nhìn xuống bàn tay lúc này đã nắm lại thành nắm đấm thép trước ngực ông. “Có chắc cậu muốn hành xử kiểu này không?” Ông nhìn lại cái nhìn chòng chọc của tay vệ sĩ. “Từ nay về sau, tất cả những lần ta gặp nhau,” ông nói khẽ, “đây sẽ là điều mà tôi nhớ đến… con trai à, tin tôi đi, dù bọn người thất bại kia có nói tôi gì đi nữa, thì tôi vẫn luôn có một nắm huân chương dành cho người chiến thắng trong các trận đấu tay bo đấy.”

“Và cả thìa gỗ tặng cho người lúc nào cũng xuất hiện không đúng thời điểm,” một giọng nói vang lên từ trên cầu thang. Rebus quan sát Cafferty Ger Bự bước xuống, vừa kéo chiếc áo choàng lụng thụng quấn quanh người. Những sợi tóc lơ thơ còn sót lại dựng thành túm trên đầu tên trùm, hai gò má hắn ửng đỏ vì vừa phải dốc sức. “Cái quái gì mang anh đến đây vậy?” hắn càu nhàu.

“Chứng cứ ngoại phạm sao mà vụng về,” Rebus nhận xét. “Một tên gác cổng, cộng thêm ả nhân tình nhận lương trả theo giờ…”

“Sao tôi lại cần chứng cứ ngoại phạm làm gì?”

“Tự mày phải biết quá rõ chứ. Đã kịp vứt quần áo vào máy giặt rồi, phải không? Vết máu khó đánh tan lắm.”

“Tôi chẳng hiểu anh đang nói gì.”

Nghe tên trùm nói vậy, Rebus biết hắn đã cắn câu rồi; giờ là lúc phải kéo con cá bự vào bờ. “Gareth Tench chết rồi,” ông thông báo. “Bị đâm sau lưng - coi bộ rất giống kiểu hành xử của mày. Liệu chúng ta có nên trao đổi trước mặt Arnie đây không?”

Nét mặt Cafferty không hề biểu lộ điều gì. Cặp mắt vẫn là hai khoảng vô hồn ti hí màu đen, đôi môi mím lại một đường kẻ mỏng quẹt. Hắn đút tay vào túi áo choàng và khẽ gật đầu, tín hiệu tên vệ sĩ dường như đọc được. Tên này liền hạ tay xuống, đứng sang bên nhường đường cho Rebus bước theo Cafferty vào căn phòng khách rộng thênh thang. Trên trần nhà gắn một bộ đèn chùm, kế bên cửa sổ mở ra ngoài là một cây đàn dương cầm loại dành cho trẻ nhỏ, đi kèm với bộ loa to đặt hai bên và dàn âm thanh chất lượng cao đặt trên một chiếc giá đóng lên tường. Mấy bức tranh theo lối phá cách hiện đại với những mảng màu phối mãnh liệt. Ngay trên lò sưởi treo một bản lồng khung trang trọng bìa áo cuốn sách của chính Cafferty. Tên trùm đang đứng bận rộn ở chỗ tủ rượu. Như thế tức là hắn vẫn đang quay lưng về phía Rebus.

“Whisky?” hắn hỏi.

“Sao lại không?” Rebus đáp.

“Anh nói là bị đâm?”

“Ba nhát, ở bên ngoài Trung tâm Jack Kane.”

“Trong lãnh thổ của hắn,” Cafferty nhận định. “Một cuộc hành hung đi quá đà?”

“Tao tưởng mày phải biết rõ hơn ai hết.”

Cafferty quay người lại và đưa ly rượu cho Rebus. Rượu hảo hạng, nâu sánh. Chẳng buồn nâng ly, Rebus sục qua sục lại ngụm rượu trong miệng trước khi nuốt xuống cổ họng.

“Mày đã muốn ông ta chết,” Rebus vừa nói vừa quan sát Cafferty nhấp môi một chút rượu. “Tao đã nghe mày nguyền rủa ông ta như thế mà.”

“Lúc đó tôi đúng là hơi kích động,” Cafferty thừa nhận.

“Chẳng thể tin được điều gì mày nói.”

Cafferty đang đăm chiêu ngắm một bức tranh. Những vệt sơn dầu màu trắng đặc sệt xen lẫn những vệt khác có màu xám và đỏ. “Rebus à, tôi sẽ không nói dối anh - tôi không thấy tiếc vì hắn đã chết. Điều đó khiến cuộc sống của tôi đỡ phức tạp hơn nhiều. Nhưng không phải vì tôi sai giết hắn ta đâu.”

“Tao tưởng mày sai giết đấy.”

Cafferty thoáng nhíu mày. “Thế Siobhan nói gì về chuyện này?”

“Cô ấy chính là lý do tao có mặt ở đây.”

Nghe vậy Cafferty liền mỉm cười. “Tôi cũng nghĩ thế,” hắn nói. “Cô ấy đã kể cho anh nghe về cuộc nói chuyện nho nhỏ giữa bọn tôi với Carberry chưa?”

“Sau cuộc trò chuyện của các người thì tao đã tình cờ bắt gặp thằng nhỏ lúc nó lén đi theo Tench.”

“Ấy là quyền của nó.”

“Không phải là mày sai nó à?”

“Cứ hỏi Siobhan ấy - cô ấy cũng có mặt lúc tôi gặp thằng nhỏ mà.”

“Cafferty này, mày phải gọi cô ấy là hạ sĩ Clarke và cô ấy không hiểu bản chất con người của mày như tao.”

“Các anh đã bắt Carberry chưa?” Cafferty lại ngắm nhìn bức tranh.

Rebus chầm chậm lắc đầu. “Nhưng ta dám cá thằng nhỏ sẽ khai. Vì thế nếu ngươi có trót thì thầm đôi lời vào tai nó…”

“Tôi không sai nó làm gì bất cứ chuyện gì cả. Nếu thằng nhỏ nói vậy tức là nó nói dối - cô hạ sĩ sẽ làm chứng cho tôi.”

“Cafferty, cô ấy không có liên quan gì đến chuyện này hết,” Rebus gằn giọng.

“Nếu có thì sao?”

Rebus chỉ lắc đầu. “Cô ấy không có liên quan gì hết,” ông nhắc lại.

“Tôi có cảm tình với cô ấy, Rebus à. Khi nào anh giãy giụa kêu gào vì bị kéo vào viện an hưởng ngày tàn, thì cô ấy sẽ được để lại cho những đôi bàn tay xứng đáng.”

“Mày không được tới gần cô ấy. Và đừng bao giờ nói chuyện với cô ấy nữa.” Lúc này giọng Rebus đã hạ đến mức gần như thì thầm.

Cafferty nở một nụ cười khoái trá và dốc hết rượu trong chiếc ly pha lê vào miệng. Hắn chép miệng và thở ra phì phò. “Thằng nhỏ mới là người anh phải lo. Chính anh cũng đánh cược rằng nó sẽ khai. Nếu đúng như vậy, nó sẽ kéo cả hạ sĩ Clarke vào cuộc.” Tên trùm liếc nhìn Rebus để biết chắc rằng ông đang tập trung nghe hắn nói. “Tất nhiên chúng ta có cách để đảm bảo rằng nó không bao giờ có thể khai ra là…”

“Tao chỉ ước Tench còn sống,” Rebus lẩm bẩm. “Vì bây giờ tao biết rằng tao sẽ giúp ông ta hạ bệ mày.”

“Vấn đề là anh sớm nắng chiều mưa quá, Rebus ạ… giống như một ngày mùa hè ở Edinburgh ấy. Sang tuần có khi anh sẽ hôn gió với tôi không biết chừng.” Cafferty chu môi lên minh họa. “Anh đã bị đình chỉ công tác rồi. Anh có chắc mình đủ khả năng tiếp nhận thêm kẻ thù không? Đã bao lâu rồi kể từ khi kẻ thù của anh còn nhiều hơn bạn?”

Rebus nhìn quanh căn phòng. “Hình như mày không thường xuyên tổ chức tiệc tùng.”

“Chỉ vì anh chẳng được mời bao giờ thôi - ngoại trừ lần phát hành cuốn sách.” Cafferty hất cằm về phía lò sưởi. Rebus nhìn tác phẩm nghệ thuật lồng khung lấy từ cuốn sách của Cafferty lần nữa.

Thăng trầm: Cuộc đời bất cần của Người đàn ông được mệnh danh là “Ông Trùm”.

“Tao chưa bao giờ nghe ai gọi mày là ‘Ông Trùm’ cả”, Rebus nhận xét.

Cafferty nhún vai. “Đấy là ý tưởng của Mairie, không phải của tôi. Tôi phải liên lạc với cô ta mới được… Có vẻ như cô ta đang tránh né tôi. Tôi cho là không liên quan gì đến con người tốt bụng như anh đấy chứ?”

Rebus phớt lờ hắn ta. “Trừ khử được Tench rồi, mày sẽ bành trướng tới vùng Niddrie và Craigmillar được thôi.”

“Vậy ư?”

“Với Carberry và đám lâu la như nó làm tốt đen.”

Cafferty mím môi cười khùng khục. “Anh không phiền nếu tôi ghi lại chứ? Tôi không muốn quên điều anh vừa nói.”

“Sáng nay khi nói chuyện với Carberry, mày đã cho nó biết kết cục mày muốn - kết cục duy nhất có thể giữ mạng sống của nó.”

“Anh đang mặc định rằng Keith là đứa duy nhất tôi nói chuyện cùng đấy.” Cafferty rót từ từ từng giọt whisky vào ly.

“Còn ai khác nữa?”

“Có lẽ bản thân Siobhan đang mất bình tĩnh lắm. Tôi đoán đội điều tra án mạng cũng sẽ tìm gặp cô ấy?” Đầu lưỡi Cafferty chớm thò ra giữa hai miếng thịt mỏng dính được gọi là môi của hắn.

“Mày còn nói với ai khác về chuyện của Gareth Tench?”

Cafferty đưa ly rượu lên nốc ừng ực. “Ở đây anh mới là người đóng vai trò thám tử. Sao tôi có thể giải quyết mọi trận chiến giùm anh được.”

“Sắp tới ngày phán quyết rồi, Cafferty ạ. Đối với cả mày và tao.” Rebus hơi dừng lại. “Mày cũng biết điều đó mà, phải không?”

Tên anh chị khét tiếng chậm rãi lắc đầu. “Tôi thấy hai chúng ta như đang ngồi trên võng xếp, ở đâu đó nóng nực nhưng có đồ uống mát lạnh. Đang hồi tưởng lại những cuộc đối đầu chúng từng có, từ tận cái hồi mà người tốt tưởng họ hiểu rõ những kẻ xấu. Có một điều duy nhất mà tuần lễ này nên cho ta thấy - đó là chỉ trong chớp mắt mọi chuyện có thể thay đổi. Biểu tình tan tành, đói nghèo bị phản pháo,… một số liên minh được thắt chặt trong khi các liên minh khác suy yếu. Mọi nỗ lực đều bị dẹp bỏ, những tiếng nói trở nên câm lặng. Tất cả chỉ sau một cái búng tay.” Hắn búng tay, như để minh họa thêm cho lập luận của mình. “Khiến cho công việc gian khổ của anh dường như trở nên tầm thường và bớt phần quan trọng, anh có công nhận không? Còn Gareth Tench… chỉ một năm nữa thôi, anh nghĩ có ai còn nhớ về hắn ta nữa không?” Lần thứ hai Cafferty nốc cạn ly rượu. “Giờ thì tôi thực sự phải lên tầng rồi. Mong anh hiểu cho, không phải vì tôi không hứng thú với việc gặp gỡ anh đâu.” Tên trùm đặt chiếc ly rỗng lên mặt bàn và ra hiệu cho vị khách cũng làm như vậy. Khi họ rời khỏi phòng, hắn vừa tắt đèn khi vừa nói gì đó về việc góp phần công sức của hắn để bảo vệ hành tinh này.

Tên vệ sĩ vẫn đứng túc trực ở đại sảnh, đôi tay đan vào nhau đặt trước người.

“Cậu đã bao giờ làm bảo kê chưa?” Rebus hỏi. “Một trong các đồng nghiệp của cậu - cái thằng tên là Colliar ấy - đã kết thúc cuộc đời trên một phiến thép không gỉ cỡ lớn đấy. Cũng chỉ là một trong số rất nhiều những tên đàn em dính dáng tới ông chủ lắm mưu nhiều mẹo của cậu thôi.”

Cafferty đã bắt đầu bước lên cầu thang. Rebus lấy làm hài lòng khi chứng kiến hắn phải vịn tay vào mới leo lên được từng bậc. Nhưng rồi ông chợt nhớ… chính ông bây giờ cũng đã phải làm như vậy ở căn hộ của mình.

Gã vệ sĩ giữ cho cánh cửa mở. Rebus va vào người gã trên đường bước ra - gã đàn ông trẻ không một chút động đậy. Cánh cửa đóng sầm lại sau lưng ông. Rebus nấn ná trên lối đi một chốc, rồi trở ra cổng và khép nó lại. Đánh một que diêm để châm điếu thuốc, rồi ông tiến về đầu phố nhưng quyết định dừng chân dưới một cột đèn tỏa ra ánh sáng yếu ớt. Ông lấy điện thoại cầm tay bấm số của Siobhan nhưng cô không nghe máy. Ông bước tới đầu đường rồi quay ngược trở lại. Trong khi đang loanh quanh đứng đó, một con cáo hốc hác từ khoảng sân của một căn nhà nhảy vọt sang ngôi nhà kế bên. Dạo này ông bắt đầu thấy lũ cáo liên tục trong thành phố. Chúng chẳng bao giờ tỏ vẻ sợ hãi hay rụt rè. Cái nhìn mà chúng dành cho những láng giềng con người nếu không ẩn chứa sự khinh bỉ thì cũng đượm vẻ chán ngán. Những tay thợ săn đã bị cấm săn bắt cáo trên khắp đất nước; người dân sống trong thị trấn thậm chí còn đem đồ ăn thừa cho chúng. Thật khó tưởng tượng rằng chúng là động vật ăn thịt - nhưng bản chất chúng vốn thế rồi.

Động vật ăn thịt được đối xử như thú cưng trong nhà.

Những người bất cần.

Lại thêm ba mươi phút nữa cho đến khi ông nghe tiếng chiếc taxi tiếp theo tiến đến. Tiếng động cơ diesel không lẫn vào đâu được, hệt như tiếng chim hót. Rebus ngồi vào ghế sau và đóng cửa xe nhưng lại yêu cầu tài xế chờ thêm lúc nữa.

“A suýt quên,” ông nói, “cậu chạy tư hay chạy hợp đồng thế?”

“Chạy hợp đồng.”

“Cho công ty cổ phần MGC, phải không?”

“Cho câu lạc bộ Chốn Tịch Yên,” người tài xế nói rõ.

“Thế cậu hay chở khách đến…?”

Người tài xế xoay người nhìn xuống ghế sau. “Anh bạn có ý đồ gì vậy?”

“Chẳng có ý đồ gì.”

“Trên danh sách người tôi cần đón là tên phụ nữ đấy - nếu anh định giở trò gì với cô nàng thì cứ chuẩn bị tinh thần đăng ký tham gia chương trình phục hồi chức năng đi là vừa.”

“Cảm ơn vì lời khuyên.” Rebus cố nép mình vào góc của chiếc xe khi thấy cánh cửa nhà Cafferty mở ra rồi khép lại. Có tiếng giày cao gót nện lọc cọc lên vỉa hè và rồi mùi nước hoa xộc vào ngay khi cửa xe vừa hé mở.

“Mời vào,” Rebus vội nói trước khi cô gái kịp cất tiếng phàn nàn. “Tôi chỉ đi nhờ về nhà thôi.”

Cô gái chần chừ rồi cuối cùng quyết định chui vào xe, cố gắng ngồi cách Rebus càng xa càng tốt. Nút màu đỏ vẫn sáng chứng tỏ tài xế vẫn có thể nghe được câu chuyện giữa những vị khách. Rebus lần ra công tắc và nhấn nút tắt đi.

“Cô làm việc ở Chốn Tịch Yên à?” ông hỏi khẽ. “Không ngờ Cafferty cũng nhúng tay vào nơi đó.”

“Liên quan gì đến ông?” cô gái cáu kỉnh.

“Tôi đang hỏi chuyện thôi mà. Cô có phải là bạn của Molly không?”

“Chưa bao giờ nghe đến cái tên này.”

“Tôi định hỏi tình hình cô ấy sao rồi. Tôi là người đã ngăn không cho tay khách làm bên ngoại giao quấy rầy cô ấy vào tối hôm trước đây mà.”

Cô gái nhìn ông dò xét. “Molly ổn,” rốt cuộc cô ta cũng nói thật. Và rồi: “Sao ông biết sẽ không phải chờ đến rạng sáng?”

“Tâm lý con người mà,” ông vừa nói vừa nhún vai. “Tôi chưa bao giờ cảm thấy Cafferty là kiểu người sẽ để đàn bà qua đêm trong nhà.”

“Ông giỏi thật.” Trông cô gái như vừa thoáng mỉm cười. Thật khó mà quan sát kỹ nét mặt cô ta dưới thứ ánh sáng lờ mờ trong khoang xe. Mái tóc sạch sẽ, màu son môi lấp lánh và mùi nước hoa thơm nồng. Những món đồ trang sức, đôi giày cao gót cùng với chiếc áo khoác dài không cài cúc để lộ ra chiếc váy ngắn cũn bên trong. Cô ta chuốt quá nhiều mascara và đánh phần mi mắt quá đậm.

Ông quyết định bồi thêm một câu nữa. “Vậy là Molly không sao hả?”

“Đấy là theo như tôi biết.”

“Làm việc dưới trướng Cafferty thế nào?”

“Ông ta cũng được.” Cô gái ngoảnh ra dõi mắt theo khung cảnh bên ngoài, nhờ ánh đèn đường mà Rebus nhìn được nửa bên mặt cô ta. “Ông ta đã kể với tôi về ông…”

“Tôi ở bên Phòng Điều tra Tội phạm.”

Cô gái gật đầu. “Khi nghe tiếng ông ở dưới cầu thang, ông ta cứ như thể bị ai đó ngắt pin ấy.”

“Đúng là tôi có thể tác động đến người khác theo cách ấy. Chúng ta đang tới Chốn Tịch Yên phải không?”

“Tôi sống ở khu Grassmarket.”

“Cũng tiện đường đi làm,” ông nhận xét.

“Ông muốn gì đây?”

“Ý cô là ngoài chuyến đi nhờ xe mà Cafferty phải thanh toán?” Rebus nhún vai. “Có lẽ tôi chỉ muốn tìm hiểu xem vì sao bất kỳ ai cũng muốn lại gần hắn. Cô thấy không, tôi bắt đầu cho rằng hắn mang trong mình một loại vi rút - bất cứ ai mà hắn chạm vào đều sẽ bị tổn thương ở mức độ nào đó.”

“Ông biết ông ta trước tôi rất lâu rồi,” cô gái đáp.

“Đúng thế.”

“Nghĩa là ông đã được miễn dịch?”

Rebus lắc đầu. “Chưa miễn dịch, không đâu.”

“Ông ta vẫn chưa làm tổn thương tôi.”

“Vậy thì tốt… thế nhưng không phải lúc nào hậu quả cũng xuất hiện tức khắc.” Họ đang rẽ vào phố Lady Lawson. Người tài xế bật đèn hiệu xin rẽ phải. Chỉ một phút sau họ đã có mặt ở khu Grassmarket.

“Ông đã hoàn thành thủ tục của người hay làm phúc chưa?” cô gái hỏi rồi quay mặt lại đối diện với Rebus.

“Đó là cuộc đời của cô…”

“Đúng vậy.” Cô gái rướn người về phía tài xế. “Tấp vào lề đường cạnh cột đèn.”

Anh ta làm theo đúng yêu cầu. Thấy người tài xế bắt đầu điền vào tờ hóa đơn, Rebus liền bảo anh ta rằng hãy còn một điểm đến nữa. Cô gái đang bước ra khỏi xe. Ông đợi cô ta nói điều gì đó, nhưng cô gái đã đóng sầm cửa xe, bước sang đường rồi tiến vào một con ngõ tối om. Người tài xế để động cơ cho đến khi thấy ánh đèn chứng tỏ cô gái đã mở cửa bước vào tầng trệt.

“Tôi luôn muốn chắc chắn,” anh ta giải thích với Rebus. “Gần đây Cannae tỏ ra quá cảnh giác. Sếp đến đâu đây?”

“Quay đầu xe nhanh lên,” Rebus đáp lời. “Cho tôi đến Chốn Tịch Yên.” Chuyến đi kéo dài chỉ vỏn vẹn có hai phút. Khi đến nơi, Rebus bảo người tài xế ghi thêm ha