- 12 - HAI CHA CON HAI LẰN MỨC
Á! Mầy lại đem những cái « cặn bã văn minh » ấy ra mà tính thuyết phục tao? Mở miệng ra là Rousseau với Montesquieu, chỉ những lý thuyết suông chớ không nhìn vào đời thực tế. Cho mầy đi Tây học được cái bằng cử nhân luật, những mong về nước làm nên danh phận, rạng rỡ tông đường, chớ đâu phải để mầy nhồi sọ bằng những tư tưởng quá khích có ngày đi theo bọn « làm loạn » vào tù sớm!
Đó là những câu mắng nhiếc rất thông thường mà gia nhân nhà Tổng đốc Vi văn Định được nghe mỗi cuối tuần tại tư dinh của viên Tổng đốc tỉnh Thái Bình. Những lời nghiêm huấn của cha dạy con: một thanh niên còn hăng hái, cậu Vi văn Lê, con trai của Vi văn Định.
Vào khoảng 1929-1930.
Đất Bắc đang sôi động với phong trào khởi nghĩa chống Pháp. Các hội kín bị tan vỡ, những tay sai của thực dân như cỡ Vi văn Định trong giới quan trường, thi đua đàn áp các phần tử chống Pháp. Họ cúc cung tận tụy với « quan thầy » và không bỏ cơ hội nào tỏ tình khuyển mã với « Mẫu quốc ». Thậm chí họ muốn un đúc con cái theo đúng cái khuôn mẫu trung thành của họ nữa. Tổng đốc Vi văn Định muốn cậu con trai của y sẽ thành một vị « quan lớn » cũng như mình để vinh thân phì gia hơn mình gấp bội: Con hơn cha là nhà có phúc mà!
Nhưng cậu cử Lê sau mấy năm ăn học ở Pháp, tiêm nhiễm những tư tưởng dân chủ, dân quyền, đâu có chịu uốn nắn thân mình trong khuôn mẫu của phụ thân, một tên « sâu dân mọt nước » đã lừng tiếng về lối tra tấn dã man bằng một cái chầy sắt.
Đáp lại lời mắng nhiếc của cha, cậu cử Lê thẳng thắn nói rõ ý nghĩ của mình:
- Con xin cha suy xét lại. Dư luận đã ám chỉ đến cái chầy sắt mà cha dùng để tra tấn các nhà cách mạng. Họ không dám nói huỵch toẹt ra, nhưng một tờ báo đã dùng mánh lới đăng bài thơ vịnh « Cái chầy » bên cạnh chân dung của cha đó.
- À! Tờ báo xỏ lá ấy à! Tao đã viết thơ cho quan Thống sứ đóng cửa nó. Rồi mầy sẽ xem!
Vừa lúc nầy, một anh lính lệ đưa vào 1 công văn « hỏa tốc » của viên công sứ tỉnh Thái Bình (tỉnh trưởng Pháp). Vi văn Định cầm lấy đọc xong, tươi cười hớn hở, trao cho con xem:
- Mầy thấy không? Tao nói sai đâu. Tờ báo xỏ lá ấy, tờ « Đông Tây » đã bị rút giấy phép. Để xem còn thằng nhà báo nào dám động đến chân lông tao nữa.
- Nhưng còn dư luận ngấm ngầm, xin cha đừng coi rẻ.
- Tao sẽ diệt hết những đứa nào chống tao và chống « chính phủ bảo hộ » ; thuyết dân chủ, dân quyền của mầy có mạnh bằng thần công, đại bác của nước Pháp không?
Vi văn Lê lắc đầu, thở dài, không đàm luận nữa. Cậu tính quay ra, về phòng riêng của cậu để nằm suy nghĩ. Nhưng cậu bị cha kêu giật lại:
- Mầy hãy ở đây, tao cho xem một biện pháp mạnh của tao để đối phó với quân nổi loạn.
Nói rồi Vi văn Định nhận chuông. Một người cộng sự tâm phúc của y chạy vào khúm núm nói:
- Dạ, bẩm cụ lớn gọi con.
- Kêu thằng mới bị bắt sáng nay lên đây. Dùng lối « Sư tử hí cầu » nó sẽ phải khai hết.
Vi văn Định hất hàm ra lịnh như vậy.
Vi văn Lê thở dài nói nhỏ:
- Chầy sắt chưa đủ, còn « Sư tử hí cầu » nữa. Trò gì đây?
Lúc ấy một thanh niên tiều tụy được dẫn lên, để đứng ở ngoài sân rộng, trước văn phòng của Tổng đốc họ Vi. Mặt mày sưng húp, quần áo rách bương, đủ cho thấy thanh niên đã bị tra tấn nhiều lần. Viên đề lại hỏi chàng:
- Mầy đã khai thật chưa? Hay còn cố giấu?
- Dạ, oan con lắm.
- Thôi được! Tao cho chó « bẹc giê » nó phanh thây mầy ra trăm mảnh.
Viên đề lại ra hiệu cho một lính lệ. Tức thì hai con chó lớn gần bằng hai con bò con được mở cũi chảy xổng ra, vồ lấy con mồi là chàng thanh niên bị tra vấn. Chàng hết hồn, té xuống dưới sức mạnh của hai con vật, chàng tưởng bị « phanh thây ra trăm mảnh » như lời viên đề lại vừa nói. Kẻ nào mới thấy cảnh tượng ấy cũng phải lo cho số phận chàng. Nhưng hai con « bẹc-giê » gởi mua từ Pháp qua, đã được huấn luyện thuần thục: Chúng chỉ làm cho chàng thanh niên hồn vía lên mây, mà không cắn ; chúng « quần thảo » chàng một hồi, tung lên đè xuống, thật như món võ « Sư tử hí cầu » của các nhà nghề võ thuật.
Viên đề lại kêu hai con chó tới gần y, chờ chàng thanh niên hoàn hồn rồi hỏi tiếp:
- Mày khai chưa, hay để tao ra lịnh cho chó ăn thịt mày?
- Oan con lắm!
Vi văn Định truyền lịnh cho viên đề lại:
- Hãy giam nó vào ngục cho nó còn có thì giờ suy nghĩ.
Vi văn Lê nói thẳng với cha:
- Cha muốn bắt chước Néron thời xưa cho cọp ăn thịt tội nhân chắc! Néron còn để tiếng với sử sách muôn đời.
- Mày câm miệng đi. Hết Rousseau lại đến Néron! Mày hãy đi cho khuất mắt tao.
Vi văn Lê buồn bã, cúi đầu, lững thững về phòng riêng của mình trong dinh Tổng đốc.
Chàng nghĩ đến cha mình và mình ở hẳn hai lằn mức: cha thì hại dân hại nước ; mình thì mong muốn đem khả năng ra giúp ích cho đồng bào. Nhưng khó đi đến chỗ dung hòa được.
Từ ngày giựt được mảnh bằng Cử nhân luật ở bên Pháp trở về, chàng quyết không nghe lời cha đi làm tri huyện để nhờ thế lực của cha mà bước những bước dài trên hoạn lộ. Chàng mở một phòng tư vấn pháp luật để chỉ dẫn cho người có việc lui tới tòa án.
Mỗi tuần, chàng từ Hà Nội về Thái Bình thăm cha vào chiều thứ bảy. Mỗi lần là mỗi có cuộc tranh luận và bất đồng ý kiến giữa hai cha con. « Hổ phụ sao không sinh hổ tử mà lại sinh ra khuyển tử như mày? « Vi văn Định vẫn vỗ bàn la lớn.
Vi văn Lê buồn lắm, nhất là chàng thường đi tiếp xúc với dân chúng nghe được những dư luận không tốt đối với phụ thân.
Một đêm chàng suy nghĩ thế nào mà lại nẩy ra một sáng kiến: giải thoát cho những nhà cách mạng lớn tuổi đang bị giam giữ trong ngục thất ; các ông ấy chịu sao nổi trò « Sư tử Hí Cầu ».
Đêm ấy chàng đến trước cửa trại giam, bảo tên lính gác mở cửa cho chàng vào. Với con trai của quan Tổng đốc, ai còn dám nghi ngờ gì nữa. Anh lính cũng tưởng chừng « lệnh lang » của cụ lớn vào ngục để tra vấn một tội nhân,
Thừa lúc lính gác không để ý, Vi văn Lê nhìn thấy một chỗ trống ở trên một phòng giam cá nhân, có thể thông ra đường. Chàng bèn hối thúc anh tù nhân ở đây leo lên lưng chàng, bước lên vai chàng như bậc thang, rồi trốn thoát ra ngoài phố.
Có tiếng động, chàng phải ra về.
Sáng hôm sau, Vi văn Định kêu đến tù nhân phòng này lên hỏi cung mới hay con mình đã « tháo cũi xổ lồng »… Lại nhằm vào một yếu nhân cách mạng mà y định khai thác. Y tức bầm gan.
Y kêu con lên văn phòng, mắng nhiếc sỉ vả một hồi, thiếu điều muốn đánh cho chàng một trận mới hả giận.
Hôm sau người cha sắt đá quyết đầy con trai lên mạn ngược (vùng thượng du). Trước kia, họ Vi làm tri châu ở Sơn La, biết nơi đây đèo heo hút gió, bắt con lên đây ở thì hết còn có tư tưởng dân chủ, dân quyền, hết còn binh vực bọn « nổi loạn ».
Vi Văn Lê dầu đã đi du học ngoại quốc về nhưng còn thấm nhuần chút nho giáo, vẫn còn thần phục uy quyền của cha. Chàng cam chịu cái án đi đày, mong chẳng đến đỗi phải chung thân. Vì chàng nghĩ hổ dữ cũng không đến ăn thịt con ; chẳng bao lâu chàng sẽ được cha ân xá mà trở về Hà nội.
Ngày tháng trôi qua… Vi văn Lê cỡi ngựa đi giải trí trên thung lũng trong khung cảnh âm u của thiên nhiên, chung quanh chỉ có đất với trời. Tánh hăng hái không chịu nổi sự giam hãm trong cô độc, chàng thường phóng ngựa chạy từ đồi nọ sang đồi kia, để tiết bớt sinh lực nóng hổi ra ngoài.
Rồi một hôm, con ngựa cũng hăng sức phóng nước lớn, hụt chân quăng chàng thanh niên xuống vực thẳm. Chàng đau quá, lịm đi, không có ai đến cứu, mặc dầu con ngựa hí vang động bốn phía. Tiếng gió rì rào với cành cây phủ lên tạo vật một màu đen tối. Trời thảm đất sầu tiễn đưa một linh hồn thanh niên khẳng khái về bên kia thế giới sau hai tháng bị đầy trên mạn ngược.
Tiếng gió như còn gọi lên ba tiếng:
Vi văn Lê! Vi văn Lê.