← Quay lại trang sách

CHƯƠNG V TÌNH THẦY TRÒ CỦA ĐỨC THÍCH CA VÀ CÁC MÔN ĐỆ-(Đời Thầy đẹp thật thì sớm muộn gì cũng đông trò tốt.)

1.- Trước khi đi sâu vào tình thầy trò của Đức Phật, ta thử vạch ra những điểm son của cuộc đời Ngài, những điểm mà bất cứ tăng phái nào trong đạo Phật, bất cứ người nào ngoài đạo Phật nếu vô tư đều công nhận là chân lý.

a) Phật là đấng Đại hùng:

Thân phụ của Phật là vua Suddhodana đang cai trị dân Sakya lúc Phật ra đời. Cũng như bao nhiêu quốc vương khác, Suddhodana muốn Phật sau nầy nối nghiệp đế vương cho mình. Nhưng từ thơ ấu Phật tỏ ra bẩm tính đa sầu, đa cảm, ưa tìm nơi tịch mạc trầm tư.

Thay vì nô đùa với chúng bạn, Phật ưa chơi một mình khi thì cô quạnh ngao du, khi thì ngồi dưới những gốc cây trong Thượng uyển đọc sách, nghĩ ngợi. Thầy tướng số Asita còn cho phụ vương Phật biết rằng Ngài có căn tu, làm gì sau nầy cũng xuất gia thoát tục. Thầy bẩm tính Phật như vậy, nghe lời tiên đoán về tương lai Phật như vậy, vua cha lo sợ không ai nói dõi ngai vàng nên cưỡng ép Phật lập gia đình sớm. Thế là năm 16 tuổi, Ngài kết tóc se tơ với Yasodharâ rồi sinh được con trai tên Râhula. Đời sống đế vương đầy đủ mọi sung sướng giữa cung vàng điện ngọc của Ngài lại được vua cha gia tăng không thiếu khoái lạc vật chất, xác thịt cốt để Phật bỏ hẳn khuynh hướng ly gia tu hành. Nhưng không cám dỗ phàm tục nào giữ chân Phật được. Vào một đêm thiêng liêng, định mệnh nọ, Ngài bỏ tất cả từ song thân, vợ đẹp con xinh đến điện ngọc và ngai vàng tương lai, rồi cùng chàng Chaudaka cỡi ngựa theo sau, Ngài cỡi con tuấn mã Kanthaka rẽ màn đêm tâm tối, vào rừng khổ tu.

Phật bắt đầu sự nghiệp cứu độ chúng sinh bằng tự chủ và hy sinh ngoài sức tưởng tượng người phàm. Ta nghĩ sao về giây phút xuất gia ấy? Lúc Ngài chưa đắc đạo nghĩa là lòng cũng đầy dục vọng như ta. Ta mơ phú quý: Ngài có điện ngọc. Ta mơ quyền chức: Ngài có ngai vàng. Ta mơ hạnh phúc: Ngài có vợ đẹp con xinh. Ngài có hết những điều ta mơ mà Ngài tự ý đoạn tuyệt. Thỉnh thoảng vì lý do nào đó ta cũng ước mong tu hành, xả kỷ cứu thế. Ta ước mong, còn Phật làm thật. Một chi tiết nói ra có vẻ phàm tục mà vô cùng tâm lý đó là khi Phật nhìn vợ con đang ngủ lần cuối cùng mà đủ gan mật xây lưng. Còn cảnh nát lòng nào hơn. Đọc đời tư của Phật, tôi thấy mến Ngài quá. Tôi thấy Ngài cao cả quá, hơn người quá. Tôi thấy Ngài quả thực là đại hùng và đáng khâm phục.

b) Phật là đấng Đại lực:

Sở dĩ Phật đại hùng nghĩa là tự chủ và hy sinh được như trên là do Ngài có đại lực. Lực ở đây là tâm lực, một thứ sức mạnh của tâm hồn siêu việt. Ngài biểu lộ siêu lực một cách vĩ đại ở chỗ tự giải thoát để giải thoát chúng sinh. Trước hết phải vô cùng dũng cảm Ngài mới thoát được thành lũy vây hãm của các dục vọng hướng về những cám dỗ của chức quyền, phú quí, nhục lạc, hưởng nhàn. Phật còn biểu lộ đại lực ở chỗ tự mình vạch ra cho mình con đường tu rồi cũng tự mình lèo lái đời tư của mình, tự mình chiến thắng các trở ngại. Ngài tự thoát khỏi thái cực khoái lạc trong gia đình, tự thoát khỏi thái cực khắc khổ của sáu năm khổ tu để tự chọn trung đạo rồi từ đó đắc đạo. Trên đường hành đạo, truyền đạo Ngài đem đại lực ra vượt mọi gian nan.

Ai phá Phật đầu tiên? Đó là người em họ của Phật: Ông Devadatta. Ông nầy tâm địa sâu hiểm, gian manh và ganh tị đến vô độ. Ông muốn hạ bệ Phật bằng cách bôi lọ Phật, vu cáo Phật đã tư tình với một tên nữ, cốt ý thành lập một tăng phái khác nổi bật hơn của Phật. Người ruột thịt phá, năm môn đồ đầu tiên hiểu lầm tu đạo của Phật, bỏ Phật. Liên tiếp gặp các chướng ngại cho đến khi viên tịch vậy mà Phật can trường chịu đựng để hoàn thành nghiệp cả. Tôi thấy hình như những giáo tổ như Đức Phật, Đức Chúa v.v... đều có chung một dòng máu gọi là dòng máu chi dũng trong tâm cang. Cái dũng nầy không phải thứ dũng của đô vật trên võ đài, cũng không phải thứ dũng của những A-Lịch-Sơn, Hanibal, Nã-Phá-Luân ngoài trận mạc. Mà là thần dũng, thánh dũng của lương tâm khắc chế tình dục, đàn áp đau khổ để thực hiện lý tưởng siêu việt.

c) Phật là đấng Đại bi:

Sở dĩ Phật dùng đại lực để đại hùng là vì đại bi tức là vì tình thương vĩ đại đối với nhân loại đau khổ? Phật tự giải thoát không phải chỉ cho cá nhân mình mà cho toàn thể chúng sinh thoát khỏi biển khổ mênh mang con đẻ của Sinh, Bệnh, Lão, Tử.

Sau khi xét qua các quan điểm trên, ta thấy cuộc đời Phật là cuộc đời chi mỹ và chi tôn. Bây giờ bắt đầu từ cuộc đời đó, ta thử coi trong đạo thầy trò của Phật, ta có thể rút ra được bài học nào?

a) Sau khi xuất gia, Phật vào rừng tu, đến thụ giáo hai bực thầy nổi danh là Kalama và Rondraka. Đây là hai vị chân tu theo con đường khổ tu. Xung quanh họ có nhiều đệ tử cùng đi con đường khổ hạnh.

Lối tu của hai đạo sư nầy là thân xác càng khổ thì công đức càng cao. Mục đích tự biến thành tiên thánh đề về trời. Phật nghĩ thiện chi của họ là hay nhưng theo Phật tu như vậy chỉ có ích cho cá nhân chứ chưa lợi cho chúng sinh nên Phật từ giã hai đạo sư mà tự tìm một lối tu khác. Cái hay là Phật vẫn kính trọng công đức của hai đạo sư mà vì không đồng chí hướng nên chia tay chứ không đả kích. Dù sao Phật cũng nhận rằng bắt đầu của tu hành là khắc kỷ, là diệt dục có điều là đừng quá lố đến thành hủy hoại thân thể. Phật bỏ hai thầy Kalama và Rondraka chứ trong lòng vẫn nặng ân hai tôn sư buổi đầu xuất gia. Ngày nay, tiếc thay có biết bao trò học với thầy một thời gian, thấy cái gì không đồng ý, đập đổ bỏ đi, xuyên tạc bôi lọ. Phật đã nêu gương sáng trong sự thực hiện tinh thần câu nầy của nhà Nho mặc dầu Phật không thuộc lòng nó: "Nhất nhựt chi sư chung thân vi phụ".

b) Khi Phật từ biệt hai tôn sư khổ tu thì có năm đệ tử của hai bực ấy theo Phật xin làm môn sinh. Đây là năm đồ đệ đầu tiên của Ngài. Họ bỏ cựu sư để theo tân sư nên đặt mọi kỳ vọng nơi Phật. Song vì tu đạo mới của Phật là trung đạo tức là Ngài không tu quá khắc khổ nữa mà ăn uống lại, ngủ nghỉ lại như thường nên năm môn đồ bất mãn bỏ Ngài. Thế là thêm một cảnh thầy trò chia tay nhau vì khác biệt tu kiến. Năm môn sinh tiến về thành Bénarès còn Phật một mình cô quạnh, tiếp tục lề lối trung đạo.

Đêm linh thiêng nọ dưới gốc Bồ-Đề, Ngài đắc đạo. Đức Jésus có 12 môn đồ, bị một là Judas phản động, bán chúa vì ham tiền. Còn sứ đồ niên trưởng là Pétrus nhẹ dạ, sợ họa lây, chối thầy đến ba lần ngay đêm thầy mắc nạn. Còn Đức Phật có năm môn đồ đầu tiên, chưa hiểu được đường tu cao cả của thầy, hiểu lầm thầy, bỏ thầy bơ vơ. Ta nghĩ sao về cảnh não lòng của hai bực vĩ nhân Phật và Chúa trước hành động, thái độ của môn đồ đối với mình như vậy. Ai đã từng làm việc lớn, có học trò, đệ tử, môn đồ tất có dịp để thông cảm được một cách thấm thía nỗi lòng của Phật và Chúa hơn.

c) Ở Kaucâmbi, lúc đi thuyết pháp, Phật gặp một trường hợp bi đát. Có một đệ tử phạm lỗi. Chư tăng khuyên thiện không được. Giáo hội định sa thải ông ấy. Nhưng ông cực lực phản đối, nhứt định ở trong giáo hội và cứ tiếp tục làm quấy. Phật can thiệp, khuyên chư tăng, đệ tử tha thứ nhau và hiệp tác nhau trong từ bi. Không ai nghe lời Ngài. Có kẻ chống báng Ngài bằng lời lẽ bất lịch: "Thầy yên phận đi. Thầy tu đắc đạo thì thầy tiếp tục tham thiền thỏa thích. Còn chúng tôi tuy nghịch nhau song rồi cũng tự tìm lấy đường lối để theo được". Họ không nghe lời Phật nên Ngài buồn thảm bỏ họ ra đi đến một làng kia, nơi đó Phật gặp lại một đệ tử tốt tên là Bhrigou. Thầy trò lâu ngày gặp nhau vui mừng đáo để.

Nhưng rồi Phật cũng cứ nghĩ đến các môn sinh lầm lạc ở Kaucâmbi mà buồn một mình. Có lần Ngài nhìn một con voi đầu bầy lấy nước cho bầy voi uống, uống xong có nhiều con không biết ơn còn lấy voi rượt đánh voi cầm đầu. Mà nghĩ đến phận mình trên đường thuyết pháp hay gặp cảnh thi ân gặp oán. Về sau thấy thái độ nhân hậu của Phật, các đệ tử ở Kaucâmbi hối lỗi, tìm đến Ngài tạ tội, được tha thứ và thầy trò đoàn tụ vui vẻ. Tình sư đệ của những tâm hồn chí thánh thực cao cả quá. Trường hợp trên của Đức Thích Ca dùng nhân hậu cải hóa môn đồ giống y trường hợp Đức Giê-su sau khi bị sứ đồ Pétrus chối, Ngài đi ngang qua ông nầy liếc nhìn một cách ân tình và Pétrus hối hận suốt đời, trở thành đại thánh.

d) Đời sống đạo hành và hành vi tốt đẹp của Phật từ thành Vương-Xá truyền đi cũng làm cho Ngài có thêm đệ tử minh trung. Bữa nọ Xá-Lỵ-Phất gặp sư Ất-Bệ, một môn đồ của Phật. Thấy bực tu hành nầy mặt mày rực rỡ một cách linh thiêng, Xá-Lỵ-Phất hỏi: "Làm sao được như vậy?". Ất-Bệ thưa rằng: "Nhờ đức độ của thầy mình là Đức Thích Ca". Xá-Lỵ-Phất đem chuyện về thuật cho Mục-Kiện-Liên rồi cả hai đi tìm Phật xin làm môn sinh. Về sau Đức Thích-Ca nhận Xá-Lỵ-Phất là Đệ-Nhất Trí-Huệ, còn Mục-Kiện-Liên Đệ-Nhất Thần-Thông.

e) Trong giờ phút sau cùng, Phật được một trung đệ gần gũi, giúp đỡ tận tình, đó là Ananda. Ông nầy theo Phật trên dưới 20 năm. Tức là bằng thời gian Aristote làm đệ tử Platon. Tiếc một điều là vì Platon không nắm được Aristote trong những ngày tàn của đời mình. Còn Đức Thích-Ca và Ananda thì tình thầy trò chứa chan chung thủy.

Bữa ăn cuối cùng của Đức Thích-Ca cũng đầy cảm động như bữa tiệc ly của Đức Giê-su cùng các môn đồ trước khi tử nạn.

Phật và đệ tử Ananda cùng một số môn đồ ăn cơm ở nhà ông thợ rèn tên là Thuần-Đà. Riêng Đức Phật dùng một loại nấm. Ăn xong, Ngài và các môn đồ từ giã chủ nhà ra đi. Phật nghe trong người khó chịu. Ananda buồn và trách ông thợ rèn cho thầy mình ăn nấm độc. Phật bảo Ananda đừng nghĩ sai và nói: "Hai bữa ăn đãi thầy mà sinh công đức lớn nhứt, đó là bữa ăn của cô Soujâta lúc ta sắp đắc đạo và bữa ăn của Thuần-Đà". Đi đến bờ sông Kakoutstha, Phật quá thấm mệt. Ngài tắm và uống một chút nước sông. Ngài nằm nghỉ rồi lại đi nữa. Đến Kusinârâ, Phật bảo Ananda giăng võng trở đầu về hướng bắc cho Ngài nằm vì Ngài mắc bệnh. Ananda làm theo ý Ngài.

Phật kêu Ananda và trối những lời châu ngọc sau cùng. Ngài phán: "Này con xem, hoa không phải mùa mà trổ rụng và rụng trên mình Thầy. Con nghe trên không nhạc như tiên trổi đón chào Thầy. Đó là những điều quí trọng. Song không gì quí trọng bằng các thiện nam, tín nữ và các con, môn đồ của Thầy sống đạo hạnh". Ananda cảm động, khóc nức nở. Thảm cảnh này làm ta nhớ đến giây phút các đệ tử của Socrate nát lòng khóc ông lúc ông uống độc được. Platon khóc. Ananda khóc. Ôi những giọt lệ của trung đệ đối với minh sư. Thấy Ananda khóc, Phật bảo: "Đừng khóc. Không ai yêu mến nhau mà khỏi biệt ly. Ai sống rồi cũng phải chết. Mấy mươi năm trời con theo Thầy, Thầy thấy rõ tấm lòng trung nghĩa của con. Hãy nghe lời Thầy mà sống đạo hạnh". Nhìn các môn sinh xung quanh, Phật trăn trối tiếp: "Có sinh thì có diệt. Không còn Thầy, các con cũng làm nên vì Thầy không còn mà đạo lý Thầy vạch ra vẫn còn. Hãy theo đó mà sống". Ananda và chư tăng đệ tử chan hòa giọt lệ. Đêm càng xuống, tịch liêu sầu thảm. Còn cảnh nào đau xót hơn. Đức Phật trút hơi thở cuối cùng kết liễu khi cuộc đời chí thánh, chí tôn. Xung quanh không còn cha mẹ, vắng bóng vợ con, chỉ có Ananda và mấy môn sinh trung hậu nước mắt đầm đìa, mất Thầy bơ vơ...

Phải con đường độc thân là con đường dành riêng cho những giáo tổ siêu quần bạt chúng không? Chúa Giê-su độc thân cả đời. Đức Thích-Ca đã có vợ con rồi cũng bỏ để độc thân tu hành. Các vĩ nhân như Socrate, Khổng-Tử cũng không thoát khỏi con đường một mình một bóng đó. Socrate có gia đình mà cả đời gần đệ tử hơn gần vợ con và đến lúc chết chỉ cho môn đồ ở gần thôi. Khổng-Tử thôi vợ hồi 25 tuổi rồi ở vậy với môn sinh cho đến ngày ly trần.

Thì ra, tình lứa đôi, tình cốt nhục trong thế giới siêu nhân, nhiều khi nhượng bộ tình sư đệ phải không bạn? Kỳ diệu thật!