CHƯƠNG VI TÌNH THẦY TRÒ CỦA ĐỨC GIÊ-SU VÀ CÁC SỨ ĐỒ-(Bán Thầy rồi tự tử. Chối Thầy rồi binh Thầy hơn ai hết.)
1. Bi kịch số một của nhân loại. Khu vườn Giết-xê-ma-ni nằm cạnh dòng sông Xê-trông đang chìm trong đêm tối, tịch liêu. Bỗng từ xa có ánh đèn đuốc, có tiếng khua động gươm giáo, gậy gộc. Đó là toán lính của giáo quyền Do-Thái sai đến bắt Đức Giê-Su. Điềm chỉ viên dẫn đầu bọn nầy là Giu-Đa, một trong mười hai môn đồ của Ngài. Giu-Đa trù mưu tính kế trước với đối phương của Đức Giê-Su rằng đến nơi hễ y hôn ai thì quân lính nhào tới tóm cổ người đó. Giu-Đa rành rẽ địa thế khu vườn Giết-xê-ma-ni vì từ trước thường lui tới hội hiệp, cầu nguyện với thầy và các đồng môn của mình. Y cũng quá am tường đêm nay thầy mình cầu nguyện nơi đây nên y dẫn lính đến như có hẹn trước. Vừa chạm mặt Đức Giê-Su, thì Giu-Đa nhào tới nói: "Thưa Thầy", rồi ôm mặt Thầy hôn. Đức Giê-Su hiền hậu bảo: "Con dùng cái hôn mà nộp Thầy sao?". Liền như chớp, lính ùa tới. Đức Giê-Su dõng dạc hỏi: "Các ông tìm ai?". Họ thưa: "Tìm Giê-Su, người Na-Da-Rét". Ngài bảo: "Là tôi đây". Vừa nghe vậy không biết tại sao họ hốt hoảng, dội ra và ngã lăn xuống. Đức Giê-Su lại hỏi nữa: "Các ông muốn tìm ai?". Họ lại thưa: " Tìm Giê-Su, người Na-Da-Rét". Ngài nhấn mạnh nói: "Tôi đã bảo chính là tôi đây. Nếu quí ông tìm bắt tôi thì xin để các người theo tôi đây được về nhà họ". Bọn lính nghe vậy nhào tới. Tức khắc, Phê-Rô là môn đồ niên trưởng của Đức Giê-Su, vốn tính tình như lửa, toát gươm chém đứt vành tai phải Maleus là đầy tớ của Tư-Tế trưởng. Đức Giê-Su rầy Phê-Rô: "Hãy cất gươm vào vỏ. Ai dùng gươm thì phải chết vì gươm. Con tưởng nếu cần Thầy không xin được Thiên-Phụ của Thầy cho thiên thần cứu Thầy sao. Mà như vậy... tiên ngôn của Thánh Kinh làm sao ứng nhiệm". Nói xong Đức Giê-Su làm phép lạ chữa vành tai đầy tớ ấy lành lại như cũ. Đức Giê-Su cũng nghiêm nghị nói với bọn lính: "Nào tôi có phải là một tên trộm cướp mà các ông phải bắt tôi bằng gươm giáo, gậy gộc. Hằng ngày tôi ở giữa các ông, dạy dỗ trong Đền thờ, sao các ông không bắt tôi?" Bọn lính xáp vô câu thúc như bắt một tên gian ác rồi lôi đi. Đau đớn thay lúc ấy, các môn đồ của Ngài trốn sạch hết. Theo sử gia Mát-Cô (Mc 14 - 51-52) thì tức cười, có một thanh niên chạy theo mà trần truồng, mình chỉ mang tấm chăn. Lính chụp, y chạy vuột, bỏ chăn lại, trần truồng vọt tuốt luôn. Thế là Đức Giê-Su, không còn ai là thân nhân ruột thịt, không còn một đồ đệ nào kể cả người hồi chiều tối giữa buổi tiệc biệt ly ngồi ngã đầu vào vai Ngài, kể cả đồ đệ trưởng hồi nào hò hét bảo ai bỏ Thầy thì bỏ chứ tôi nhất định chết sống với Thầy.
Trong lúc quân lính dẫn Ngài đến dinh Tư-Tế để xét xử thì Giu-Đa, môn đồ đã bán Thầy 30 đồng bạc, rút lui êm, lòng hối hận khủng khiếp. Y đem tiền ấy trả lại cho các Tư-Tế và nói rằng: "Tôi đã phạm tội phản, nộp người vô tội". Các ông nầy bảo một cách phũ phàng: "Việc ấy có can gì đến chúng tôi. Anh tự liệu lấy". Giu-Đa buồn thảm quá, đem tiền quăng vào đền thờ rồi đi lấy dây thắt họng chết trong tiếng lương tâm đay nghiến. Người giữ Đền thờ cũng không dám thâu nạp tiền vì cho là tiền máu. Sau họ dùng mua đất làm nghĩa địa cho khách tha phương vong mạng chôn cất.
2.- Đức Giê-Su ra tòa.
a) Lối canh hai, canh ba, giữa đêm trường bi đát, Đức Giê-Su bị lôi xốc xếch trên con đường gập ghềnh, khập khểnh dài hai cây số. Đến dinh Anna là một cựu Tư-Tế bị chánh quyền truất phế. Ông nầy tuy không tại chức mà vì đang có con là Cai-Pha hiện làm Tư-Tế trưởng và ông quen lớn, giao du với nhiều người thế lực hiện tại. Thấy dẫn Đức Giê-Su đến, Anna ra vẻ như không dính dấp gì đến vụ án, liền bảo đưa qua cho Cai-Pha. Ông là người lương thiện, không muốn can dự vào tội ác, hay đó là thái độ mưu sĩ cáo già núp trong bóng tối giựt đây cho giáo quyền và chánh quyền hành động.
b) Quân lính dẫn nạp Đức Giê-Su qua dinh Cai-Pha cũng ở gần đó. Cai-Pha là Tư-Tế trưởng có quyền đạo lẫn đời, thuộc loại nhà tu làm quan xứ thuộc địa, lòn trên hách dưới. Tư-Tế trưởng thường hay bị chính quyền mẫu quốc La-Mã truất phế liên miên vì bênh vực người thuộc địa Do-Thái. Vậy mà Cai-Pha ngất ngưởng tại vì từ năm 18 đến năm 36 trước công niên, thì biết ông thuộc loại quan lại nào. Khi Đức Giê-Su bị nạp đến, người ta thấy trong dinh Cai-Pha hội đồng Tư-Tế, kỳ mục đang nhóm sẵn. Canh ba, canh tư mà tòa án gì nhóm thượng khẩn dữ vậy. Làm cho mẫu quốc chấm điểm hay che mắt dân chúng, tỏ ra làm việc nghiêm chỉnh, quang minh. Trong công nghị, họ thay phiên tra hạch Đức Giê-Su về giáo huấn và các môn sinh của Ngài. Ngài đáp: "Xưa nay tôi giảng dạy công khai chốn hội đường, trong Đền thánh chứ không phải nơi chùng lén. Sao ông không hỏi thiên hạ mà hỏi tôi. Ai nấy đều biết tôi đã nói gì với họ." Một trong đám túc trực, xôm tới bạt tai Đức Giê-Su và hét: "Mầy dám trả lời với Tư-Tế trưởng như vậy hả?" Đức Giê-Su ôn tồn đáp: "Nếu tôi nói không phải thì ông phải chứng minh điều nào không phải, còn nếu tôi nói phải thì sao lại đánh tôi?" Vài nhân chứng đứng ra cáo gian Ngài điều nầy điều nọ. Đức Giê-Su làm thinh. Tư-Tế bảo: "Sao ông làm thinh mà không biện hộ về các điều mà người ta cáo ông?" Đức Giê-Su cũng cứ làm thinh. Tư-Tế trưởng hỏi nữa: "Có phải ông là Đức Ki-Tô, con của Đức Đấng đáng chúc tụng không?" Đức Giê-Su đáp: "Chính là tôi". Tư-Tế trưởng y như cọp bị tên, nổi tam bành, vừa xé toạc áo choàng ra vừa hét: "Ta còn cần tìm bằng chứng nào nữa". Cả công nghị đồng thanh hô: "Phải tử hình". Bọn lính được trớn nhào đến lớp đánh, lớp khạc nước miếng vào mặt Đức Giê-Su, lớp khác bịt mặt người lại rồi ngạo nghễ bảo Ngài nói tiên tri đi coi ai đánh Ngài.
Vì theo luật, không được kết án ban đêm nên công nghị giải tán, Cai-Pha rút lui phú mặc Đức Giê-Su cho bọn lính tha hồ đánh đập. Qua ngày sau, sáng tửng bưng công nghị nhóm lại. Họ bỏ hết những thủ tục như phải đủ 70 người hay ít ra phân nửa, như phải có những vị trên 40 tuổi, lại phải ăn chay, cầu nguyện trước khi xử. Trong phiên tòa xử Đức Giê-Su, Cai-Pha lại ngồi ghế chánh thẩm và cũng như đêm rồi để cho bọn lính muốn xốc vô đánh đập bị can chừng nào cũng được.
c) Công nghị Cai-Pha có quyền tố cáo, lên án nhưng quyền kết án là của quan Toàn quyền Pi-La-Tô, đại diện chính quyền mẫu quốc La-Mã. Thế là Đức Giê-Su bị trói giải qua Phủ Toàn quyền. Các Tư-Tế và lính giải là người Do-Thái, không vào dinh Toàn quyền là kẻ ngoại đạo vì họ giữ thủ tục ấy để mình thanh sạch mừng lễ Bắc (Pâques). Do đó Pi-La-Tô ra ngoài cửa tiếp họ. Pi-La-Tô hỏi họ: "Các ông cáo người nầy về tội gì?" Họ bảo nếu hắn không là tên gian ác thì chúng tôi giải đến quan làm chi. Rồi họ cáo Đức Giê-Su nào làm mất trị an, xúi dân làm loạn, cấm nộp thuế, tự xưng vua Do-Thái v.v... Pi-La-Tô hỏi Đức Giê-Su: "Vậy thực ra ông đã làm gì?" Đức Giê-Su đáp: "Nước tôi không ở trần gian. Nếu là phàm Vương thì bộ hạ tôi không để tôi lọt vào tay người Do-Thái. Nước tôi ở trên trời." Pi-La-Tô liền hỏi: "Vậy ông là vua sao?" Đức Giê-Su đáp: "Phải: Tôi là vua. Chính vì đó mà tôi sinh ra để chứng minh cho chân lý." Pi-La-Tô lúng túng hỏi: "Chân lý là gì?" Lúc ấy, các đối phương reo hò tố cáo Đức Giê-Su đủ thứ. Song Ngài làm thinh. Pi-La-Tô quay sang các người tố cáo bảo: "Tôi thấy người nầy không có tội gì". Đến khi nghe có kẻ bảo Đức Giê-Su là người Ga-Li-Lê mà Ga-Li-Lê thuộc về vua bù nhìn Do-Thái là Hê-rốt ngụ tại Giê-Ru-Sa-Lem nên Pi-La-Tô ra lệnh giải Đức Giê-Su qua Hê-Rốt.
d) Gặp Đức Giê-Su, Hê-Rốt từ lâu mong đối diện để xem phép lạ nên hỏi Ngài huyên thiên. Ngài cứ làm thinh. Thuộc hạ của Hê-Rốt tỏ ra khinh bỉ Ngài đến cực độ. Vả lại ai cũng biết Hê-Rốt giống như vua ta thời Pháp thuộc, không có thực quyền. Chuyện gì quan trọng là do quan Toàn quyền quyết định. Vì đó Hê-Rốt cho áp giải Đức Giê-Su trả lại quan Toàn quyền Pi-La-Tô.
e) Thấy Hoàng đế Hê-Rốt không xử mà nhường lại cho mình, Pi-La-Tô dĩ nhiên khoái chí vì cho đó là dấu hiệu biết kính nể đại diện mẫu quốc. Thấy Đức Giê-Su vô tội, Pi-La-Tô muốn tha mà sợ mích lòng các Tư-Tế, kỳ mục. Ông nghĩ kế rằng nhân lễ Bắc (Pâques) có lệ tha một can nhân, bấy giờ đem Đức Giê-Su so sánh với Baraba là tên đại ác chắc dân chúng sẽ thương hại Đức Giê-Su mà xin tha. Không dè các Tư-Tế, kỳ mục đã tổ chức cán bộ len lỏi trong quần chúng xúi giục la ó xin tha Baraba. Liền đó Pi-La-Tô hỏi: "Còn Giê-Su vua Do-Thái thì sao?" Trong cơn cuồng loạn có ác tâm toan tính trước khích động, quần chúng la lên như điên: "Hãy đóng đinh nó. Hãy đóng đinh nó". Vậy là vì lọt quỉ kế của Tư-Tế, kỳ mục và vì dốt tâm lý quần chúng nên Pi-La-Tô không tha được Đức Giê-Su. Ta thử tưởng tượng suốt đêm Đức Giê-Su thức cầu nguyện trước khi bị bắt, rồi bị bắt, bị đánh đập tàn nhẫn, bị dẫn qua dẫn lại hết dinh nầy đến dinh nọ gần cả chục cây số thì tình trạng sức khỏe của Ngài hiện giờ ra sao? Lúc trưng cầu dân ý theo kiểu tòa án nhân dân nầy, gần trưa, nắng oi bức, mệt nhọc, mê mỏi, đói khát kiệt quệ, không hiểu hình hài Đức Giê-Su thế nào? Trong tình cảnh ấy, Pi-La-Tô còn chế ra một kế con nít nữa. Là ra lệnh cho lính đánh Đức Giê-Su ác liệt trước công chúng. Ông hy vọng dân chúng thấy vậy mà thương tha. Cuộc tra tấn diễn ra thuộc loại dã thú, có đủ kiểu nào trói ké vào cột, lột áo ra, đánh liên tục bằng dây móc sắt. Trên đầu bủa xuống. Quất vào lưng. Đập vào ngực. Tơi bời đảo điên. Hết khạc nhổ, đẩy xô đến lấy dây gai giả làm vương miện đóng gai vào đầu Đức Giê-Su rồi cho mặc áo đỏ, tay cầm khúc cây giống như đế vương để lũ gia hình ngạo: Lạy vua Do-Thái.
f) Lúc Đức Giê-Su bị hành khổ khốc liệt như vậy, phu nhân của Pi-La-Tô chạy vào nói với ông: "Xin anh đừng nhúng vào vụ người công chính nầy vì đêm qua trong chiêm bao tôi đã bị ông làm khổ". Chắc Pi-La-Tô nghe vậy càng điên đầu hơn nữa. Cũng cứ cái tật lưỡng lự dằn co. Thấy người vô tội muốn tha mà tha thì sợ mích lòng giáo quyền và chính quyền thuộc địa. Hơn nữa nếu đúng là tên phản loạn thì lại sợ chính quyền chính quốc La-Mã đập cho một vố thân bại danh liệt. Phải làm sao? Pi-La-Tô cho lệnh dẫn Đức Giê-Su ra trình diện công chúng nữa. Ông hô to: "Người nầy tôi thấy y không có tội gì cả". Từ đám đông hét lên: "Hãy treo cổ trên thập giá". Vậy là khẩn trương quá cho Pi-La-Tô rồi. Ông bực mình nói với các Tư-Tế, kỳ mục: "Thì thôi các ông kết án đi". Pi-La-Tô liền bảo đem lại chậu nước. Ông rửa tay công khai và nói với dân chúng: "Tôi vô tội, tôi vô tội, tôi không dính líu gì đến máu người nầy. Đó là chuyện của các ông". Từ đám đông hét lên: "Hãy để máu hắn đổ trên đầu chúng tôi và con cháu chúng tôi".
3.- Một lương tâm vĩ đại ly trần:
Nghe Pi-La-Tô tuyên bố trốn trách nhiệm như vậy, quân lính tha hồ hành khổ Đức Giê-Su. Chúng lấy hai khúc gỗ làm thập giá, bắt Ngài vác. Sức khỏe kiệt quệ đến cùng cực, Ngài vác té lên té xuống. Bọn lính đá đập, xô đẩy. Thấy có người nông phu nọ tên Si-Mông đi qua, chúng bắt phụ vác thập giá với Đức Giê-Su một chút. Sau đó bọn lính buộc Đức Giê-Su tự vác ra khỏi thành chừng nửa cây số, leo khấp khểnh lên núi Golgotha quen gọi là núi Sọ. Người ta cũng dẫn theo hai tên trộm cướp bị án tử hình. Lên đỉnh núi, Đức Giê-Su bị lột áo quần trần truồng, bị xô nằm ngửa trên thập giá, tay giăng ra, đinh to như cọc sắt đóng siết hai tay, hai chân vào thành gỗ. Thập giá được dựng lên giữa trời nắng đổ lửa đúng ngọ. Từ lúc bị đóng đinh đến lúc thập giá được dựng lên, xiên qua ngã lại, trồng sâu xuống đất chắc hình hài Đức Giê-Su đã quá mòn mỏi, đau nhức không bút lời nào tả xiết. Theo lệnh Pi-La-Tô, người ta có làm một tấm bảng trên đó khắc bằng ba thứ tiếng Hi-Lạp, La-Tinh, Do-Thái câu nầy: "Giê-Su Na-Da-Rét, vua Do-Thái". Thấy mấy tiếng vua Do-Thái, các Tư-Tế, kỳ mục đến xin Pi-La-Tô sửa lại. Ông nầy nhứt định bảo: "Cái gì tôi viết rồi là để y vậy". Tấm bảng được đóng vào thập giá, phía trên đầu Đức Giê-Su.
Hai người trộm cướp cũng bị đóng đinh thập giá dựng hai bên tả hữu Ngài. Người bên tả khích bác Ngài. Người hữu tin tưởng Ngài là Đấng siêu việt. Trong lúc Đức Giê-Su bị treo khổ nhục như vậy thì dưới chân thập giá, bọn lính xé chia áo dài của Ngài làm bốn, còn áo choàng để nguyên bắt thăm. Họ không ngờ làm như vậy là vô tình thực hiện tiên ngôn mấy trăm năm về trước viết về Đức Giê-Su trong Thánh Kinh rằng: "Lính chia y phục tôi, còn áo choàng tôi, họ bắt thăm (Ps: 22/19). Cơn hấp hối của Ngài trên thập giá càng phút càng bi thảm. Máu tuôn đầm đìa. Mắt nhắm nghiền. Mặt tái xám. Đầu gục một bên. Trong thảm cảnh ấy, nghĩ đến sự đối xử của kẻ thù hại Ngài, Đức Giê-Su nhướng đôi mắt nặng như đeo chì, nhìn lên trời hiền dịu nói cùng Thượng-Đế: "Lạy cha! Xin cha dung thứ cho họ vì họ không ý thức việc họ đã làm!". Giữa bầu không khí tang ma như vậy, Đức Giê-Su nhìn xuống dưới chân thấy thân mẫu Ngài là bà Maria, cạnh đó là Gioan, môn đồ Ngài yêu mến nhứt. Các người nầy đang khóc than thảm thiết. Đức Giê-Su nói cùng bà Maria: "Gioan là con của mẹ" rồi nói cùng đệ tử Gioan: "Maria là mẹ của con". Về sau Gioan đem bà Maria về nhà mình. Không biết sự thật ra sao mà chẳng thấy sử sách nào chép; đó là trừ Gioan ra, không có môn đệ nào hiện điện lúc Đức Giê-Su hấp hối. Quái lạ thực. Có thể Ngài càng phút càng kiệt quệ. Ngài thầm thì cầu xin Thượng-Đế: "Lạy Cha! Sao Cha bỏ con". Đoạn Ngài nói: "Tôi khát". Một tên lính nghe vậy lấy giấm nhúng vào một vật thấm, cột trên đầu sào đưa lên cho ngài uống. Ngài nhấp một chút. Như vậy là đủ trọn các lời tiên tri cả mấy trăm năm báo trước về Ngài. Đến phút chót, Đức Giê-Su nói: "Mọi sự đã hoàn tất". Bỗng Ngài giật mình lên một cái mạnh rồi thở hơi cuối cùng, sau khi đã thầm nguyện "Lạy Thiên Phụ! Con xin phú thác linh hồn con trong tay thân phụ". Thế là một lương tâm vĩ đại và chí thánh của nhân loại đã không còn nữa trên cõi đời lối 3 giờ thứ 6 ngày 7-4-30 sau Tây lịch.
Các Tư-Tế, kỳ mục sợ sáng ngày thứ 7, đại lễ Bắc (Pâques) các tử hình chưa hạ xuống là điều bất xứng nên xin phép quan Toàn quyền Pi-La-Tô, ra lệnh bọn lính đến đập gãy chân các tội nhân coi như cú an huệ cho chết luôn hầu hạ xác xuống. Hai tên trộm cướp bị đập gãy ống chân. Còn Đức Giê-Su vì đã tắt hơi nên muốn cho được bảo đảm đã chết, bọn lính dùng lưới giáo đâm thủng vào hông. Máu và nước từ vết đâm rịn ra trông nát lòng, rơi lệ.
4.- Những nét chính trong tình Thầy trò giữa Đức Giê-Su và các môn đồ:
Nếu phải nói thành công vô cùng vĩ đại của các môn đồ của Đức Giê-Su thì người ta nói những thành công sau khi Ngài qua đời. Các thành công ấy là sự kiện lịch sử ghi chép trong Tân ước ở phần các công vụ Tông đồ, các giáo thư của Phao lồ, Gia-Cô-Bê, Phê-Rô, Gioan v.v... Đó là những kết quả đánh dấu báo hiệu cho vô số kết quả mà ngày nay người ta thấy trong các giáo hội Công-Giáo, Tin-Lành v.v...
Trước hết cũng phải nói động cơ thành quả của Phúc âm mà Đức Giê-Su gieo rắc vào các môn đồ phát triển là Thánh Sủng và thần lực. Tuy nhiên, nói một cách phàm nhân, riêng ở đây, ta thấy một nguyên nhân không nhỏ làm môi trường cho lý tưởng Đức Giê-Su đâm hoa kết quả buổi đầu là phương pháp đào tạo môn đồ cán bộ. Trong phương pháp đó, ta rút ra hai động lực căn bản:
a) Sức hấp dẫn của con người Đức Giê-Su nơi các môn đồ.
b) Tình thầy trò tuyệt vời sâu sắc mà Đức Giê-Su đầu tư nơi từng đệ tử.
5.- Sức hấp dẫn của con người Đức Giê-Su nơi các môn đồ:
Nếu không kể yếu tố Thánh-Sủng và xét vấn đề thành bại theo kiểu phàm nhân thì giá cá nhân Đức Giê-Su mà không có sức lôi cuốn phi thường, thì người ta thấy hệ thống môn đồ của Ngài khó chịu đựng nổi trước bao nhiêu trở ngại thuộc loại phá hoại kinh khủng.
a) Trước hết ta thử chứng minh sức hấp dẫn của con người nơi Thầy Giê-Su trên môn sinh.
b) Đức Chúa Giê-Su là con người Thánh Đức.
Đọc đời tư của mỗi vĩ nhân, ta thấy nơi họ nổi bật một điểm nào đó. Điểm ấy độc đáo đến đỗi hễ nói đến họ là người ta liền nghĩ ngay đến nó. Chẳng hạn nói đến Socrate, người ta nói: "Hiền triết thông minh". Nói đến Aristote, bạn bảo: Hiền triết bác học". Nói đến Đức Thích-Ca, tôi nói: "Tự giác để giải tha". Nói A-Lịch-Sơn, Nã-Phá-Luân đại đế, bạn nói: "Chinh phạt và chiến thắng".
Nói đến Đức Khổng-Tử, người ta nói liền: "Chánh trị gia hiền triết". Còn nói đến Đức Giê-Su, ai cũng nghĩ ngay: "Thánh-Đức".
Suốt ba năm truyền giáo, Thầy Giê-Su biểu lộ cho các trò của mình một tấm gương sống Thánh-Đức đến mức độ không thể trách được khuyết điểm nào hết. Sự Thánh-Đức ấy đặt nền tảng gắn liền nơi Thượng-Đế. Điều nầy làm cho Đức Giê-Su khác hẳn hết các giáo tổ của nhân loại. Sự Thánh-Đức nếu được phân tích kỹ, ta thấy nó diễn lộ ra bằng các hình thức sau đây:
a) Thanh khiết: Độc thân trọn đời. Tuyệt đối không ai có thể tìm được nơi đời tư của Đức Giê-Su một tì vết nào về vấn đề nam nữ.
b) Lương tâm thủy tinh: Từ sinh ra trong hang lừa máng cỏ bẩn tiện đến chết thê thảm trên thập giá, Đức Giê-Su biểu lộ một lương tâm trong trắng nhứt, sáng ngời nhứt của nhân loại. Không thể đặt vấn đề tội lỗi, ác tâm, tà ý nơi Ngài, từ tư tưởng, ngôn từ đến hành vi, cử chỉ hay thái độ.
c) Tỉnh tâm cầu nguyện: Ba mươi năm ẩn dật của Đức Giê-Su là một kinh nguyện chuẩn bị cho ba năm Ngài truyền giáo. Rồi trong ba năm truyền giáo, là triền miên tỉnh tâm, liên tục cầu nguyện, làm việc gì rồi là rút lui vào thinh lặng cầu nguyện. Trọn vẹn 33 năm trên đường trần của Đức Giê-Su là một bài kinh nguyện dâng lên Thượng-Đế.
d) Thanh bần: Sinh trong chuồng chiên, chuồng bò. Trước khi truyền giáo làm thợ mộc với nghĩa phụ. Suốt ba năm hoạt động toàn lo gieo rắc chân lý chứ không thấy tính lập cơ sở sinh lợi lộc gì. Tuyển chọn toàn đệ tử bần cố nông. Lúc đi giảng đạo rày đây mai đó, hết ngủ trọ nhà nầy đến tạm trú đồi núi, bờ sông, bãi biển kia. Có lần Ngài nói: "Chồn còn có hang, chim còn có ổ, còn tôi không chỗ nào nương thân hết". Đến lúc chết có 2 cái áo: một thì bọn lính chia làm bốn, một thì bắt thăm. Sinh trần truồng chết trần trụi.
e) Diệt dục khắc kỷ: Trọn đời độc thân. Lúc ẩn dật, sống với cha mẹ. Ra đời làm việc, sống toàn với môn sinh. Ăn uống cực khổ. Giảng dạy quên ăn. Đêm thức cầu nguyện nhiều hơn ngủ. Có lúc không có gì để ăn với môn đệ nên phải làm phép lạ cho đủ bánh và cá mà ăn. Ngủ rừng, ngủ núi, ngủ đồi thường như cơm bữa. Trước khi ra truyền giáo ăn chay liên tục 40 ngày và suốt 3 năm hoạt động thấy sử kể có một lần dự tiệc cưới làm phép lạ giùm cho chủ gia đủ rượu đãi khách. Thầy trò có lúc không có một đồng bạc để đóng thuế đến đổi phải bảo trò Phê-Rô giăng lưới, móc trong họng cá một đồng bạc có do phép lạ để đóng thuế. Đãi tiệc biệt ly thầy trò mà ăn có mấy cái bánh và chút ít rượu nho. Nếp sống như vậy chứng minh rằng sinh hoạt tinh thần, đạo hạnh chiếm ưu thế trên sinh hoạt vật chất đến cao độ.
f) Khiêm nhu: Tuyệt thế vĩ nhân mà ra đời trong máng cỏ. Làm vô số phép lạ, mà có lần căn dặn môn sinh rằng: "Tay nầy làm việc thiện thì đừng cho tay kia biết". Trọn 3 năm truyền giáo, chuyên môn len lỏi trong giới vô sản, bình dân lao động. Lúc chịu phép thánh tẩy cũng lội xuống sông, khum đầu cho Gioan Tẩy-Giả dội nước như ai nấy. Từ lúc bị bắt, bị ra tòa đến lúc tử nạn không hề nói lời nào tỏ ra hống hách mặc dầu tự biết mình cầm quyền thiên hạ. Rầy ngay một môn đồ khi nói: "Thưa thầy, nghe danh thầy mà quỷ cũng phải sợ chúng con nữa".
g) Nhẫn nại và hiền lành: Cả đám môn đệ buổi đầu là cả đám ngu mà chịu đựng, kiên nhẫn huấn luyện từng người. Lúc truyền giáo bị đủ thứ trở ngại từ cảnh nghèo đến các âm mưu phá rối của kẻ thù song vẫn kiên trì làm cho xong sứ mạng cứu thế. Lúc bị bắt, đánh đập tàn nhẫn, bị khạc nhổ vào mặt mà không hề phản ứng hung bạo. Môn đồ nóng tính chém đứt vành tai một tên lính, bèn chữa lành ngay và rầy bảo phải dẹp gươm vì không nên dùng võ lực chống võ lực trong trường hợp đó. Bị hành khổ đến không còn ai khổ hơn như vậy mà trên thập giá còn rán xin Thượng-Đế dung thứ cho kẻ thù hại mình vì nghĩ rằng họ không ý thức việc họ làm.
h) Bác ái và công bình: Cả một đời là vật tế sinh, tận hiến cho nhân loại. Không nghĩ một cái gì cho cá nhân mình hết. Vô số phép là thực hiện vì quyền lợi kẻ khác là bằng chứng hùng biện nhứt của lòng yêu thương vô bến. Mấy ai trên đời vì yêu thương ai mà dám chết thê thảm như Đức Giê-Su chết cho nhân loại trên thập giá. Gioan Tẩy-Giả là vị tiên hô cho Ngài. Ngài không bao giờ tỏ ra cái gì làm lu mờ Gioan mặc dầu Gioan tự nói mình phải rút vào bóng tối để Ngài sáng rực ra. Môn đồ của Gioan xin theo Ngài, Ngài không vồn vã tiếp nhận. Hỏi Ngài nên nộp thuế không? Ngài bảo: "Của César thì trả cho César, của Thượng-Đế thì trả cho Thượng-Đế". Ngài bảo môn đồ Phê-Rô đi tìm một đồng bạc trong miệng cá do Ngài làm phép lạ để đóng thuế. Muốn chọn Phê-Rô làm lãnh tụ môn đồ, Ngài đợi lúc ông nầy tỏ ra xứng đáng mới chọn. Các Tư-Tế, kỳ mục, quân lính hại Ngài, Ngài xin Thượng-Đế tha thứ cho họ vì họ lầm nên không biết Ngài là ai.
i) Làm việc kinh khủng: Chỉ trong ba năm truyền giáo giữa hoàn cảnh và nhân tâm thiên nan vạn nan, thiếu thốn từ nhân lực đến vật lực, bị bách hại đủ điều mà Ngài giảng dạy, hành động huấn luyện cán bộ, tạo một nền tảng giáo thuyết, một hệ thống môn đồ tiếp tục sự nghiệp của Ngài phải nhận là vô tiền khoáng hậu. Đọc Phúc-âm thư ai mà không cảm thấy sức làm việc của Ngài, ngày đêm quên ăn quên ngủ.
j) Tư cách: Mới 12 tuổi mà ngồi ăn nói làm cho các bực lão thành, tiến sĩ trong Đền thánh khâm phục. Vào Đền thánh giảng dạy, mẹ lo âu tìm kiếm, ngỏ ý trách sao đi đâu không nói thì tỏ ra tư cách người mang sứ mệnh nên nghiêm trang nói với mẹ: "Mẹ không biết con phải lo thi hành trách nhiệm mà Thiên Phụ giao cho con sao". Nhưng rồi với tư cách làm con, Ngài ngoan ngoãn theo mẹ về nhà. Từ lúc bị bắt đến lúc chết, không hề tỏ ra hách dịch mà cũng khong dua nịnh, lòn cúi để cho bớt khổ. Ra tòa thấy điều gì cần nói thì nói, không thì làm thinh. Toàn quyền Pi-La-Tô bảo rằng có quyền tha hay giết Ngài, với tư cách người mang thiên tính, Ngài bảo: "Ông không có quyền gì trên tôi, trừ phi từ trời ban xuống cho ông. Vì thế ai nộp tôi cho ông là phạm trọng tội". Trước mặt Hoàng đế Hê-Rốt vừa tọc mạch vừa ngạo mạn, Ngài thinh lặng và thinh lặng. Sau khi phục sinh, hiện ra cho nữ đệ tử Maria Magdala, bà nầy toan chạy đến ôm chầm Ngài, Ngài nghiêm trang bảo: "Đừng đụng đến Thầy vì Thầy chưa trở về cùng Thiên-Phụ".
k) Đại dũng: Trong mấy chục tháng truyền giáo bị chánh quyền giáo quyền Do-Thái trù mưu tính kế phá hoại đủ điều mà Ngài cứ điềm tĩnh hoạt động. Vượt hết mọi cực khổ vật chất, sống khắc khổ làm việc và cầu nguyện liền lũy. Lúc bị bắt nói thẳng với quân lính hãy để các môn đồ tự do và chỉ bắt một mình Ngài thôi. Ra tòa trước mặt Anna, Cai-Pha, Pi-La-Tô, Hê-Rốt, tuyệt đối giữ phong độ đứng đắn, điềm đạm, cương nghị và tuyệt đối không nói gì, hay có cử chỉ nào tỏ ra van xin tha thứ. Còn nói chi sức chịu hành khổ từ lúc bị bắt đến lúc chết của Ngài. Ngoài sức tưởng tượng con người.
l) Đại minh: Toàn bộ giáo lý của Ngài chứng minh một cách hùng biện bộ óc khôn ngoan tuyệt thế của Ngài. Ta cần chịu khó vô tư, khách quan đọc lại từng trang Phúc âm để ý thức điều đó. Khác với nhiều vĩ nhân, Đức Giê-Su không tỏ ra là một học giả, không truyền bá khoa học, triết học, không cổ võ dùng chính trị, quân sự, cách mệnh để cải tổ xã hội phàm thế. Song Ngài đưa ra đủ hết các nguyên tắc căn bản cần và đủ để người ta có thể dựa vào đó tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Vì biết cho đặng khôn ngoan phải tính trước nên Ngài dạy: "Trong anh chị em, ai muốn xây cái tháp mà trước tiên không tính coi chi phí bao nhiêu, có phương tiện để hoàn thành không?" Để đánh giá con người, Ngài dạy: "Ai hái nho trong cụm gai, ai hái vả trong bụi rậm. Cây tốt sinh trái tốt, cây xấu sinh trái xấu... Xem quả biết cây". Khôn ngoan là biết hiện kiếp phù du cần chuẩn bị hậu kiếp nên Ngài dạy: "Ai ham lợi lộc cả thế gian mà mất linh hồn thì có ích gì."
m) Gương mẫu: Tuyệt đối không thể đặt vấn đề mà nói một đàng làm một ngả nơi Đức Giê-Su. Ngài sống chu toàn hết những điều Ngài dạy. Các hành vi, cử chỉ, thái độ của Ngài luôn lô-gích (logique) với nguyên tắc Ngài đề ra. Ngài còn căn dặn môn đồ rằng họ phải là muối để muối thế gian, là đèn sáng soi thế gian. Ngài kết án kẻ làm gương xấu đáng treo đá vào cổ quăng xuống biển vì họ đầu độc tâm hồn.
n) Phép lạ và sống lại: Đức Giê-Su chứng minh cho ai nấy thấy Ngài là thiên-tử bằng không biết bao nhiêu phép lạ mà sử gia công bình không chối cãi được. Viết về đời tư vĩ nhân, hễ nói đến Đức Giê-Su là phải nói đến phép lạ. Ta cứ đọc lại Phúc-âm là rõ. Mà phép lạ quyết liệt nhất, giải quyết hết các vấn đề cứu thế là phép lạ Ngài phục sinh. Một nhà trí thức đã từng phá hoại công việc của Ngài là Phao-Lồ mà cũng vì Ngài Phục sinh, đã trở thành sứ đồ trứ danh nhứt chuyên giảng về Giê-Su Phục sinh.
o) Tổ chức: Đức Giê-Su không dạy môn tổ chức công việc theo khoa học, song nhìn toàn bộ công việc của Ngài, ta thấy hành động có tổ chức theo phương pháp siêu đẳng: 1) Ngài cung cấp kho tàng giáo thuyết. 2) Ngài lấy cuộc đời và mạng sống chứng minh giáo thuyết ấy. 3) Ngài tuyển chọn, đào tạo và thiết lập hệ thống cán bộ gọi là sứ đồ. 4) Ngài thành lập giáo hội có phẩm trật chặt chẽ để tiếp tục sự nghiệp của Ngài. 5) Ngài lập 7 nhiệm tích dùng như thông lộ để con người giao liên với Thượng-Đế bằng Thánh-Sủng. Bảy nhiệm tích ấy là: Thánh tẩy, Thêm Sức, Thánh thể, Giải tội, Truyền chức, Hôn phối, Xức dầu.
Như vậy ta thấy non ba năm mà Đức Giê-Su đã tạo một sự nghiệp cứu thế vĩ đại và sự nghiệp ấy tiếp tục cho đến mạt thế.
Phân tích con người Đức Giê-Su như trên ta mới hiểu được tại sao lúc sinh tiền Ngài rất hấp dẫn đối với môn đệ, tại sao tình thầy trò giữa Ngài và các môn sinh lắm lúc cũng rất não nề, rồi tại sao khi Ngài ly trần, các môn sinh của Ngài trở thành những nhà truyền giáo thượng thặng. 6) Mổ xẻ mấy nét độc đáo trong tình thầy trò giữa Đức Giê-Su và các môn đồ.
A.- CÁCH CHỌN MÔN SINH
1.- Nếu thoạt đầu có hai môn sinh của Ka-La-Ma xin theo Đức Phật thì cũng thoạt đầu có hai môn đệ của Gioan Tẩy-Giả xin làm đệ tử Đức Giê-Su. Gioan Tẩy-Giả co hai môn sinh người xứ Galilée tên là André và Gioan đều là những ngư phủ ở biển hồ Tibériade. Ông thuật lại cho hai trò mình sự kiện gặp Đức Giê-Su gần bờ sông Jourdain. Hai môn đồ của ông nghe trong lòng mừng rỡ, mong gặp cho kỳ được vị mà chính thầy mình tôn phục.
Chiều nọ, ba thầy trò của Gioan Tẩy-Giả tình cờ gặp Đức Giê-Su gần bờ sông. Ông liền chỉ cho hai đệ tử. Hai vị nầy xin phép Thầy để theo tìm hiểu Đức Giê-Su. Một lát sau, thấy có hai người theo mình, Đức Giê-Su quay lại hỏi: "Hai ông tìm ai?" André và Gioan thưa tự sự đầu đuôi và hỏi Đức Giê-Su: "Thầy ở đâu, làm gì?" Trong câu hỏi ngụ ý muốn theo Ngài. Ngài không nói nhiều mà chỉ nói: "Chúng con cứ theo rồi sẽ thấy". Hai ông ngoan ngoãn theo Đức Giê-Su đến nhà và ở lại một đêm thân mật trò chuyện với Ngài. Bạn thấy sự việc xảy ra xem chừng đơn giản mà sâu sắc. Thầy của André và Gioan thán phục Đức Giê-Su, gần như tổ chức cho đệ tử mình gặp Đấng mà mình nhận là con Thượng-Đế. Hai đệ tử tỏ ra phong phú thiện chí và biểu lộ thái độ cầu sư khả ái. Còn Đức Giê-Su thì lúc nào cũng bình tĩnh, thân mật mà không vồn vã. Đặc biệt là không giải thích nhiều vì Ngài quá biết chương trình của Ngài là chương trình bao la vĩ đại còn đây là hai người vừa mới lạ vừa mộc mạc nên Ngài nói vắn tắt: Cứ theo rồi sẽ thấy.
2.- Sáng hôm sau, André tìm em mình cùng ngư phủ tên Simon, dẫn đến trình diện Đức Giê-Su. Ngài thấy Simon, nhin tỏ ra cảm động, vịn vai Simon nói như đã sắp đặt đâu từ trước: "Con là Simon, con của Gioan, từ đây sẽ gọi tên là Kê-Phát hay Phê-Rô nghĩa là Đá". Lời đó ngụ ý Simon sẽ vững như sơn thạch để chống đỡ giáo hội mà Đức Giê-Su sẽ thiết lập. Bạn cũng thấy lạ nữa là nếu xét thường tình chọn môn đồ như vậy, chọn người làm nồng cốt cho đại sự như vậy có thể nói là chọn bừa bãi. Nhưng cho Đức Giê-Su, không thể hiểu như vậy được. Chắc chắn là Simon ngư phủ cũng hoang mang mặc dầu ham thích làm môn đệ Đức Giê-Su. Người ta thấy nơi Simon rõ ràng một thiện chí, một niềm tin còn nơi Đức Giê-Su là tất cả sự tính toán sâu sắc dựa trên tự tin của kẻ biết việc mình làm và đủ khả năng làm. Sự kiện dưới đây càng chứng minh lập luận đó.
3.- Một hôm bên bờ hồ Tibériade, Đức Giê-Su và các môn đệ André, Gioan, Simon gặp một người đồng làng với Phê-Rô, tên là Philipphê. Ngài gọi ông nầy làm đệ tử. Philliphê hưởng ứng niềm nở rồi đi tìm thêm bạn của ông đang nằm đọc sách dưới cây vả là Na-Ta-Niên nói rằng: "Nầy anh! Tôi đã gặp được Đấng cứu thế, tức là Đức Giê-Su, người Na-Da-Rét". Na-Ta-Niên nghe vậy bĩu môi nói: "Làm gì ở Na-Da-Rét mà có được cái gì tốt". Philliphê không cãi, nhất định lôi Na-Ta-Niên đi gặp Đức Giê-Su. Khi gặp Na-Ta-Niên, Ngài nói cùng các đệ tử: "Đây là một người Do-Thái thành tâm". Na-Ta-Niên ngạc nhiên hỏi: "Thưa thầy, làm sao thầy biết con?". Đức Giê-Su nghiêm nghị nói: "Trước khi Philipphê kêu con đến đây, Thầy đã thấy con dưới cây vả và nghe con phẩm bình về người Na-Da-Rét". Na-Ta-Niên hoảng hồn run run thưa: "Lạy Thầy, quả thực Thầy là con Thượng Đế". Đức Giê-Su nói: "Thì do Thầy nói vậy con mới tin nhưng rồi đây con sẽ thấy nhiều đại sự nữa". Bạn thấy trong cách chọn môn đồ của Giê-Su có cái gì thần thánh và tự tin vào đại cuộc cùng quyền năng của Ngài không?
4.- Các môn sinh nói trên theo Đức Giê-Su nhưng chưa thoát ly gia đình vì phải tiếp tục nghề chai lưới để sinh sống. Bữa nọ Ngài xuống ghe của Phê-Rô thuyết giáo. Giảng đạo xong, Ngài bảo Phê-Rô chèo ra giữa khơi bủa lưới. Phê-Rô bảo: "Thưa Thầy! Chúng con giăng lưới suốt đêm không bắt được gì cả. Nhưng bây giờ cũng rán nghe lời Thầy". Phê-Rô bủa lưới một chút kéo lên cá ơi là cá. Ông tán đởm kinh hồn, quỳ xuống lạy Đức Giê-Su. Ngài đỡ ông dậy và nói: "Thôi! Con đừng sợ, từ nay con theo Thầy luôn. Thầy sẽ cho con làm kẻ bủa lưới người ta". Có thể bạn nghi ngờ cá được nhiều là hoang đường. Song chắc bạn thấy rõ là Đức Giê-Su chọn môn đồ chỉ nhằm việc siêu linh là cứu rỗi linh hồn chúng sinh. Trường hợp hai ông Gia-Cô-Bê và Gioan cũng giống trường hợp trên. Đức Giê-Su đi trên thuyền với Phê-Rô và André gặp Gia-Cô-Bê và Gioan đang bủa lưới. Ngài bảo: "Hãy bỏ hết rồi theo Thầy". Các ông ấy liền bỏ hết. Các sử gia nói rõ là: Bỏ hết mọi sự. Như vậy, bạn thấy Đức Giê-Su đòi buộc môn đồ của Ngài phải thoát ly gia đình, tận hiến cho đại cuộc.
5.- Thành Capharnaum là một thương cảng chuyên môn thu thuế và bọn thu thuế gian lận sống đầy ở đó. Dân chúng thời Đức Giê-Su rất khinh bỉ bọn thu thuế bóc lột, tham nhũng. Ngày nọ đến Capharnaum, Đức Giê-Su gặp một viên chức thu thuế tên Mát-Thiêu. Ngài bảo: "Ông Mát-Thiêu. Ông hãy theo tôi". Lạ lùng thay, không biết do mãnh lực nào, Mát-Thiêu liền thu xếp giấy tờ, sổ sách theo Đức Giê-Su liền. Chiều lại, ông tổ chức tiệc thịnh soạn đãi Ngài và các môn đệ. Điều bạn lưu ý là không chỗ nào sử gia thuật lại Đức Giê-Su chọn môn đệ mà dẫn dụ và chinh phục lâu.
Ngày nói vắn tắt. Gần như chỉ ra lệnh. Một thứ lệnh chứng tỏ người phán ra là kẻ chân thành, nhân hậu, nuôi đại chí và đủ quyền năng. Mệnh lệnh nhiều khi vô cùng quyết liệt, tuyệt đối dứt khoát. Có lần một người xin theo Đức Giê-Su mà còn muốn về nhà an táng xác cha, Ngài nói: "Để kẻ chết chôn kẻ chết, còn con thì lo truyền bá chân lý". Có ba người khác xin theo. Ngài lại đòi về từ giã bà con bạn bè, Ngài nói: "Ai cầm cầy mà còn ngó lại sau lưng thì không đáng vào thiên đàng". Tôi thấy xưa nay trong thiên hạ chưa có ai chọn lựa cán bộ mà đòi hỏi đến cực đoan như vậy. Ta hãy nghe Đức Giê-Su nói với các môn sinh của Ngài: "Ai muốn theo Thầy mà quý cha mẹ, vợ con, anh chị em, cả tính mạng nữa hơn Thầy thì người đó không thể làm môn đồ của Thầy. Các con đừng nghĩ rằng theo Thầy là sống bình yên, ăn ngủ sung sướng. Không - Thầy giáng thế để chiến đấu. Thầy xuống trần đem theo gươm đao... Chính vì Thầy mà người ta sẽ gặp chống đối ngay trong gia đình mình. Vậy các con hãy suy nghĩ kỹ, đừng ảo vọng, đừng nông nổi... Ai muốn làm môn đệ Thầy phải bỏ hết những gì mình quyến luyến, phải can trường, phải hy sinh...".
6.- Ai là người chết rồi còn tái sinh và chọn cán bộ môn đồ ngay trong giới kẻ phá hoại sự nghiệp của mình. Đó là Đức Giê-Su. Sử cho biết Phao-Lồ vốn là một hung thần đối với tín đồ của Đức Giê-Su. Chính ông khi bị bắt ra tòa tự biện hộ và tự thú trước mặt Aprippa rằng: "Trước kia tôi là người chống đối Giê-Su Na-Da-Rét quyết liệt. Tôi dùng quyền ủy thác của các Tư-Tế bắt vô số tín hữu của Ngài để cầm tù xử tử. Bữa nọ trên đường Damas, tôi đang đằng đằng sắt khí ruồng rập Ki-Tô hữu thì bỗng nhiên có một luồng ánh sáng chiếu kinh khủng vào tôi. Tôi té lăn xuống ngựa. Lúc ấy có tiếng huyền nhiệm từ không trung nghiêm khắc hỏi tôi: "Phao-Lồ! Sao ông bách hại tôi!".
Hoảng hồn hoảng vía, tôi run run hỏi lại: "Thưa Ngài! Ngài là ai?" Tiếng huyền nhiệm đáp: "Tôi là Giê-Su mà ông đang bách hại. Nhưng không sao. Hãy đứng dậy. Tôi hiện ra cho ông để chọn ông làm thuộc hạ hầu làm chứng về các điều ông nghe thấy. Tôi sẽ sai ông đến giảng cho các người ngoại giáo". Đọc câu chuyện nầy bạn có cho là hoang đường không? Nếu ta cho là hoang đường thì còn phải chứng minh nó là hoang đường. Điều không chối cãi lịch sử được là Phao-Lồ đã từng bắt đạo, giết hại tín đồ của Đức Giê-Su rồi lại được Ngài chọn làm môn đồ sau khi Ngài qua đời. Ở đây ta chỉ để ý đặc điểm Đức Giê-Su khác thường chỗ chết rồi mà còn chọn cán bộ để tiếp tục sự nghiệp cao cả của mình.
B.- CÁCH HUẤN LUYỆN, HỆ THỐNG HÓA VÀ PHÂN NHIỆM CÁC MÔN ĐỒ:
1.- Cách huấn luyện: Rõ rệt là đa số môn đồ của Đức Giê-Su gồm những thành phần mộc mạc và thất học. Chọn thì chọn người kém khả năng song huấn luyện thì siêu đẳng. Có thể nói chính cá nhân của Đức Giê-Su là trường huấn cán cho môn đồ của Ngài suốt gần 3 năm trời. Ngoài gương sáng của cá nhân mình, Ngài khi êm dịu khi cứng cỏi đào luyện họ nói được là ngày ngày đêm đêm. Ngay những lúc Ngài giảng cho quần chúng, hay làm phép lạ Ngài cũng nhắm mục đích huấn cán.
2.- Hệ thống hóa và phân nhiệm: Ngày nọ sau khi qua một đêm thức cầu nguyện trên núi, Đức Giê-Su chọn trong các đệ tử theo Ngài, rút ra 12 ông làm môn đồ chính thức, nồng cốt để tiếp tay Ngài truyền giáo. Đó là các ông:
1.- Phê-Rô
2. - André
3.- Gia-Cô-Bê Tiền
4.- Gioan
5.- Phillipphê
6.- Bát-Tê-My
7.- Tôma
8.- Mát-Thiêu
9.- Gia-Cô-Bê Hậu
10.- Ta-Đê-Ô
11.- Simon
12.- Giu-Đa
Những vị nầy theo sát Đức Giê-Su, có thể đại diện Ngài giảng đạo trừ quỷ, làm phép lạ cứu tử, chữa bệnh v.v...
Đức Giê-Su cũng chọn riêng 72 môn đệ khác, sai họ đi từng hai người công tác truyền giáo trong các thành thị, thôn dã mà Ngài định đến. Ngài nói cùng họ rằng: "Lúa chín thì nhiều mà thợ gặt ít quá. Thầy sai các con như chiên vào bầy sói... Đừng mang theo tiền bạc, bao bị, giầy dép. Vào nhà ai thì chúc: "Bình an cho họ rồi ở lại ăn uống tại đó vì thợ thì có quyền lãnh tiền công". Đức Giê-Su nhấn mạnh tinh thần phục vụ của môn đồ: "Ai muốn làm lớn trên chúng con, người đó phải phục vụ chúng con. Ai muốn cầm đầu chúng con, phải làm đầy tớ chúng con. Thầy không đến để được phục vụ mà để phục vụ thiên hạ..." Trước khi ly trần Ngài dạy cho môn đồ bài học thống nhất: "Thầy là cây nho, chúng con là cành nho. Ai ở nơi Thầy và Thầy ở nơi họ thì họ có nhiều quả vì nếu không có Thầy, chúng con không làm được việc gì hết... Chúng con phải thống nhất làm một. Luật Thầy truyền cho chúng con là chúng con phải thương yêu nhau...".
C. CÁCH ĐỨC GIÊ-SU ĐỐI XỬ VỚI MÔN ĐỒ:
1.- Thầy thương mến trò hết lòng hết dạ: Hãy nghe Ngài nói: "Cũng như Thiên-phụ đã yêu Thầy thì Thầy cũng yêu các con. Các con hãy ở trong tình yêu của Thầy".
2.- Thầy coi trò như bạn hữu: Hãy nghe Ngài nói: "Không ai tỏ lòng yêu thương hơn kẻ thí mạng sống mình vì bạn hữu... Thầy không coi các con như tôi tớ vì tôi tớ không biết được việc chủ làm. Thầy coi các con như bạn hữu vì mọi điều Thầy nghe nơi Thiên-phụ Thầy nói lại cho chúng con hết".
3.- Phòng xa tai họa cho trò: Đức Giê-Su nói: "Nếu thế gian ghét chúng con thì nên nhớ là họ đã ghét Thầy. Nếu họ bách hại Thầy thì họ cũng sẽ bách hại chúng con... Thầy nói để chúng con đừng ngạc nhiên là họ sẽ đuổi chúng con khỏi Hội đường. Có kẻ giết chúng con mà tưởng là tôn kính Thượng-Đế".
4.- Thương giúp cả đến thân nhân của trò: Bạn đã biết Khổng-Tử thương mến một môn sinh và gả con gái cho. Đức Giê-Su chẳng những thương môn đồ Phê-Rô mà khi đến nhà ông, thấy nhạc mẫu ông bịnh, Ngài cũng làm phép lạ cho hết bịnh tức khắc. Bà ấy chổi dậy, xuống giường, vui vẻ đi nấu cơm đãi Ngài và các đệ tử.
5.- Thầy binh vực trò: Luôn Đức Giê-Su tỏ ra tinh thần trách nhiệm trên các môn đồ. Có lần Ngài và các đồ đệ băng qua một cánh đồng nhằm ngày thứ bảy là ngày cổ tục Do-Thái cấm không được làm việc gì hết. Đã đi bộ ngày thứ 7, Thầy trò Đức Giê-Su có kẻ lại bức lúa nhai ăn kiểu như ngày nay ta cắn hạt dưa. Mấy Tư-Tế, kỳ mục Do-Thái gọi là Biệt-phái vô cùng bất mãn bảo rằng Thầy trò Đức Giê-Su phá luật. Đức Giê-Su thấy họ trưng luật, mới lấy luật phản đối họ. Ngài nói: "Thánh kinh thuật chuyện vua David và các hầu cận đói bụng vào đền Thánh lấy bánh ăn trước mặt ông trụ trì, ăn như vậy là lỗi luật cấm vì chỉ có các Tư-Tế trưởng mới được ăn thôi...
Quị vị có biết điều đó không? Sách luật pháp bảo rằng ngày thứ bảy vào đền thờ không có tội. Quí vị có đọc điều đó không? Thưa quí vị, tôi xin cho quí vị biết ở đây có kẻ lớn hơn đền thờ... Ngày thứ 7 đặt ra cho người ta chứ không phải người ta đặt ra cho ngày thứ 7".
6.- Mấy lúc nguy của trò là có Thầy: Có lần đi ghe cùng các môn đệ, Đức Giê-Su ngủ trên ghe, sóng gió bão tố nổi lên kinh hồn. Ghe gần chìm. Môn đồ la lên thất thanh: "Thầy ơi, chết đến nơi rồi. Xin Thầy dậy". Đức Giê-Su liền dậy, đưa tay chỉ phong ba bão tố: "Hãy im lặng". Tức khắc sóng lặng im. Các môn đồ ngơ ngác, có kẻ tự hỏi: "Ông nầy là ai mà sóng gió nghe lời đến như vậy". Đức Giê-Su nhìn các đồ đệ và trách: "Sao các con sợ? Đức tin để ở đâu?". Lần khác, Đức Giê-Su kêu đồ đệ Phê-Rô đang ở trên thuyền chài hãy bước đại xuống nước chạy đến Ngài. Phê-Rô bán tín bán nghi, rồi bước đại xuống nhưng sóng gió nổi to quá, ông lảo đảo la lên như bị cắt cổ: "Thầy ơi! Cứu con! Cứu con!" Đức Giê-Su đưa tay vớt ông và hai thầy trò cùng đi trên mặt nước, bước lên thuyền. Đức Giê-Su trách Phê-Rô: "Con là người kém đức tin. Sao con còn nghi ngờ cái gì?". Thực tội cho các môn đồ quá.
7.- Làm gương: Một hôm, thầy trò Đức Giê-Su có người hỏi Phê-Rô: "Thầy ông không nộp thuế cho đền thờ sao?" Phê-Rô bực mình, sau đó đem câu chuyện thuật lại cho Ngài. Ngài muốn các môn đồ phải tôn trọng luật pháp mà bởi vì Thầy trò nghèo quá, không có đến một đồng bạc để đóng thuế. Làm sao bây giờ? Đức Giê-Su làm phép lạ bằng cách bảo Phê-Rô đi bủa lưới bắt một con cá vạch miệng nó ra lấy trong đó một đồng bạc đóng thuế. Theo thế thường nếu ai có quyền thế như Ngài chắc hay tự miễn cho mình nhiều thứ luật kể cả luật đóng thuế.
8.- Rầy trò thẳng tay: Một hôm hai đồ đệ Gia-Cô-Bê và Gioan bị một người Samari không tiếp niềm nở về tâu với Đức Giê-Su: "Thưa Thầy! Thầy có muốn chúng con xin lửa trên trời xuống đốt sạch họ". Đức Giê-Su quát mắng hai ông nặng: "Không biết đầu óc chúng con ra làm sao? Thầy có đến để tiêu diệt người ta đâu. Mà đến để cứu linh hồn người ta chứ". Đọc lời nầy, bạn có nhớ Khổng-Tử có lần mắng hai trò, Nhiễm-Hữu và Tử-Lộ, a tòng với họ Quí chiếm đất người ta không? Khổng-Tử bảo các môn đồ hãy đứng lên chống hai ông nầy vì hai ông nầy làm vậy là không phải môn đồ của ông nữa. Quả thực các chân sư của nhân loại bao giờ cũng vừa nhân hậu vừa không nể nang sái quấy.
9.- Chí cực hiền hậu với trò: Trong bữa tiệc ly biệt, Đức Giê-Su biết trước Judas sẽ nộp mình mà vẫn bình thản ăn nói hiền dịu với ông. Ngài bảo: "Có người trong chúng con phản Thầy". Các môn đệ u buồn, băn khoăn mỗi người hỏi lại: "Phải con không Thầy? Phải con không Thầy?" Oái oăm là Judas cũng hỏi: "Phải con không Thầy?" Biết rõ bụng dạ nham hiểm, giả dối của Judas mà Ngài không phản đối. Thực là cao cả. Môn đồ Gioan dựa vào Ngài, hỏi kỹ: "Ai vậy Thầy?" Ngài đáp: "Thầy chấm miếng bánh đưa cho ai thì chính là nó. Rồi Ngài lấy bánh chấm đưa cho Judas và bảo: "Con tính làm gì thì đi làm đi." Còn thái độ nào hiền hậu hơn nữa, quân tử hơn nữa? Đêm Đức Giê-Sự bị bắt, đồ đệ niên trưởng Phê-Rô chối Ngài ba lần. Đi ngang Phê-Rô, Ngài chỉ nhìn buồn thôi. Phê-Rô vô cùng hối hận. Bạn để ý chỉ nhìn buồn thôi.
10.- Muốn lưu luyến ở mãi với trò: Trong tiệc ly biệt, Đức Giê-Su dùng thần quyền lập phép bí tích Thánh-Thể. Ngài cầm bánh nói với các môn đồ: "Nầy là thịt Thầy, các con hãy ăn đi". Rồi cầm rượu nho, Ngài nói: "Nầy là huyết Thầy, các con hãy uống đi. Chúng con hãy tái diễn việc nầy mà nhớ đến Thầy." Bạn có thể không tin nhiệm tích Thánh-Thể nhưng chắc bạn ý thức tinh thần của sự việc là tình yêu, tình Thầy trò vô cùng tha thiết chứ.
11.- Khiêm nhu đối với trò: Sau tiệc biệt ly, Đức Giê-Su cởi áo ngoài, lấy khăn thắt lưng, đổ nước vào thau rửa chân cho các môn đồ. Phê-Rô thấy vậy la lên: "Thầy làm gì thế? Thầy mà rửa chân cho chúng con à!" Đức Giê-Su trách: "Thầy làm gì chúng con không hiểu bây giờ đâu, sau nầy sẽ hiểu. Ai không để Thầy rửa chân sẽ không thuộc về Thầy." Phê-Rô nghe vậy hoảng hồn xin rửa chẳng những chân mà rửa luôn cả đầu mình nữa... Rửa chân các môn đệ xong, Đức Giê-Su nói: "Thầy là Thầy, là Chúa mà rửa chân các con thì các con phải rửa chân cho nhau. Thầy làm gương cho các con để các con đối xử nhau như Thầy đổi xử với các con."
12.- Sống tạm cùng với trò. Suốt ba năm truyền giáo, Đức Giê-Su sống nghèo khổ, lăn lóc, hui hút với các môn đệ. Khi ngủ trên đầu núi, khi ăn trên bãi bể, khi cầu nguyện trong rừng sâu. Biết một môn đồ của mình là thuộc hạng người thâu thuế gian lận, dân chúng oán ghét mà Ngài không sá gì, cứ ngồi ăn. Trả lời cho kẻ phản đối mình, Ngài nói: "Không phải người mạnh cần y sĩ mà chính bịnh nhân cần. Tôi xuống trần không để hoán cải người lành mà để hoán cải người tội lỗi". Phúc âm thư cho biết nhiều lúc Thầy trò đi giảng đạo đói lã, làm việc quên ăn quên ngủ, gặp đâu ăn đó. Một đồng bạc cũng không có sẵn trong túi để đóng thuế như ta biết qua ở trên. Dọn tiệc Thầy trò ly biệt mà Thầy bảo trò vào thành xin dọn trong nhà người ta. Tiệc thì chỉ mấy cái bánh và bầu rượu. Cái cảnh lùm đùm, thiếu trước hụt sau ấy phải chăng là đất mầu mỡ của loài cây quí, tình sư đệ của vĩ nhân.
13.- Chịu khó dạy trò. Đa số trò là thất học. Đầu óc mộc mạc. Nhiều khi hỏi ngớ ngẩn. Lắm kẻ buổi đầu không tin Thầy. Đức Giê-Su nhẫn nại rèn đúc các môn sinh. Ngài thường không lý luận khô khan mà dạy bằng thí dụ, bằng hình ảnh, bằng các dụ ngôn. Nói không chưa đủ họ tin: Phải làm phép lạ nữa. Vậy mà họ chỉ tin lai rai thôi. Ngài không bao giờ nản chí, vì đó sau khi Ngài ly trần các môn đồ mới thành công vĩ đại.
D.- CÁCH CÁC MÓN ĐỒ CỦA ĐỨC GIÊ-SU CƯ XỬ VỚI NGÀI:
1.- Biểu lộ thành tâm thiện chí.
Nghiên cứu cách một số môn đồ hưởng ứng lời kêu gọi Đức Giê-Su, ta thấy họ là người thành tâm thiện chí. Hai ông André và Simon buổi đầu xin theo Ngài do giới thiệu của Thầy cũ là Gioan Tẩy-Giả. Đức Giê-Su không dụ dỗ, không giải thích nhiều. Hai ông hỏi: "Thưa Thầy, Thầy ở đâu?" Ngài trả lời vắn tắt gần như gây huyền bí nữa: "Cứ đến thì thấy. Thành tâm gặp mặt thiện chí." Thầy không vồn vã. Trò không nghi kỵ. Còn ở thời đại ta thì sao? Có phải lắm khi ngược lại không? Xét các trường hợp kêu gọi lần thứ hai khi các ông André và Simon, Gia-Cô-Bê và Gioan đang chài lưới mà Đức Giê-Su bảo: "Bỏ tất cả để theo Ngài", bạn thấy rõ những lương tâm cao cả đáp ứng nhau rất đẹp. Mát-Thiêu đang thâu thuế nghĩa là đang ở giữa tiền bạc. Phao-Lồ đang quất ngựa ruồng bắt tín hữu của Đức Giê-Su. Vậy mà khi nghe tiếng gọi, cả hai mỗi người một cách, hưởng ứng sứ mệnh siêu việt. Giữa minh sư và trung đệ có thứ duyên nợ gì hay sao.
2.- Lai rai bán tín bán nghi.
Lúc Thầy trò sống chung nhau, thỉnh thoảng các môn đồ tỏ ra không tin Đức Giê-Su trọn vẹn. Ngài bực mình mà bình tĩnh, chịu đựng để chiêm phục niềm tin trọn vẹn, quyết liệt sau cùng của họ. Thầy bảo trò ra khơi bủa lưới. Trò la lên rằng bủa lưới suốt đêm mà trớt lớt. Nhưng Thầy bảo cũng bủa. Rồi cá đầy giỏ. Hết nghi ngờ đến chắp tay xá lia lịa. Trong trường hợp khác, có kẻ theo Thầy khá lâu rồi chứ, Thầy làm nhiều phép lạ vậy mà có lần được cứu khỏi chìm ghe chết đuối, xù xì với bạn: "Thầy là ai mà khiến phong ba bão tố nghe lời răm rắp ha?" Simon được Thầy đặt tên là Kê-Phát, nghĩa là Đá, được coi là niên trưởng môn đồ, có lần đã được Thầy cho đi trên mặt nước rồi, thế mà lúc sóng gió ồ ạt cũng còn ngờ vực la lên như bị lột da: "Thầy ơi! Cứu con!" Thầy chắc bực mình lắm nên sau khi cứu rồi mới nói: "Con là người kém đức tin quá..." Còn trò Tô-Ma có phải là bực tiền phong của Descartes không mà hễ cái gì không chứng minh là thực thì không tin. Thầy chết rồi, sống lại sai người báo tin cho các trò mau mau tìm Thầy. Trò Tô-Ma y như nhà khoa học thực nghiệm bảo: "Tay tôi mà không đút vào vết lưỡi giáo đâm cạnh sườn Thầy thì không tin." Thầy không chịu thua, hiện đến bảo: "Đây Tô-Ma! Vết thương cạnh sườn Thầy đây. Đút tay vào đi!" Tô-Ma xám mặt vừa lạy vừa nói: "Lạy Chúa tôi! Lạy Thiên Chúa của tôi!" Đức Giê-Su chắc cũng bực mình nữa, nói cùng Tô-Ma: "Thì thấy Thấy rồi con mới tin. Nhưng phước cho kẻ nào không thấy mà tin".
3.- Thỉnh thoảng nói tầm bậy và tầm bạ.
Đọc các tiểu mục trên bạn nhớ hai trường hợp nầy không? Thầy sai hai trò vào thành nọ, tiếp xúc vụng về hay sao đó bị người ta bạc đãi, chạy về bất mãn tâu: "Thưa Thầy, Thầy muốn tụi con xin lửa trên trời xuống đốt sạch bọn đó không?" Nghe vậy Đức Giê-Su mắng xối xả: "Đầu óc chúng con như vậy à! Thầy đến để cứu chữa chớ phải để phá hoại đâu!" Còn đêm Đức Giê-Su vừa bị bắt, Phê-Rô làm gì? Sôi máu thất phu chi dũng, ông toát gươm chặt đứt lìa vành tai một tên lính. Thầy chữa lành tai anh tiểu tốt nầy và cảnh cáo trò: "Dẹp gươm đi, dùng gươm thì khốn nạn vì gươm".
4.- Bị Thầy mắng gần như chửi nữa, mà không bỏ Thầy.
Có lần Đức Giê-Su nói xa xa, dọn đường tâm linh cho môn đồ biết rồi đây mình sẽ đi Jérusalem, ở đó mình sẽ bị bắt bớ và tử nạn. Đồ đệ Phê-Rô nghe vậy ó lên: "Thưa Thầy! Không được, không được!" Đức Giê-Su thấy quả thực Phê-Rô không hiểu gì hết ý nghĩa cột trụ của sự nhập thể của mình. Mục đích của Ngài là mục đích hướng thiện (Butueschato-logique).
Chính mục đích nầy làm cho Đức Giê-Su khác hẳn Socrate, Khổng-Tử, Thích-Ca. Mục tiêu tối hậu của Ngài là đem nhân loại về Thượng-Đế, là hướng đạo chúng sinh về Thiên-quốc. Bởi vậy khi thấy môn sinh thủ lãnh của mình mà không hiểu cùng đích của mình, Đức Giê-Su mắng đến gần như chửi thẳng vào mặt ông: "Quỉ Satan! Hãy cút khỏi tao. Mầy nói chuyện quái gở. Ý nghĩ của mầy là ý nghĩ của phàm nhân chứ không phải của Thượng-Đế." Bị la ó như vậy mà Phê-Rô vẫn thương Thầy, không bỏ Thầy. Thực thâm thúy quá.
5.- Chậm hiểu đến thành đần độn.
Thành phần đồ đệ Đức Giê-Su đa số là thành phần cùng đinh, khố rách trong xã hội Do-Thái thời đó. Thất học là căn bản. Tính tình mộc mạc. Trí óc như đóng ten đóng sét nên Đức Giê-Su nhiều lần nói, nói rất bình dân, nói bằng dụ ngôn, thí dụ mà họ cũng hiểu trật lất điều Ngài nói. Có lần Đức Giê-Su bảo các môn đệ coi chừng tránh men của Biệt-phái và Sa-Đóc là những kẻ thù nghịch Thầy trò của Ngài. Men đây hiểu là nọc độc trong tư tưởng phá hoại của đối phương. Nhưng họ lại hiểu là Ngài nói về men làm bánh vì họ không đem đủ bánh. Đức Giê-Su tức giận rầy họ: "Các con kém đức tin quá và hiểu tầm bậy. Nếu thiếu thì sao không nhớ mấy lần trước chỉ có 5 cái bánh mà 5000 người ăn và còn lại mấy giỏ, chỉ có 7 cái bánh mà 4000 người ăn và dư thừa mấy